KHÁI QUÁT VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TIỀN LƯƠNG
1.1 Khái quát tiền lương
1.1.1. quá trình hình thành và phát triển của tiền lương ở Việt Nam.
Từ ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến đời sống nhân dân, đặc biệt là công nhân viên chức và người
lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Nhà nước ta luôn cải cách chính sách
tiền lương cho phù hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội. quá trình hình
thành và phát triển tiền lương ở Việt Nam được thể hiện như sau:
Những ngày đầu thành lập nước, chưa có doanh nghiệp Nhà nước chỉ có
một số doanh nghiệp trưng thu của chế độ cũ để lại. Tiền lương giai đoạn này
vẫn theo tiền lương và phụ cấp của chế độ cũ để lại. Đến tháng 7-1946, Sắc lệnh
số 133/SL ấn định lương tối thiểu của công chức các ngành (mỗi tháng 150
đồng = 15kg gạo cho Hà Nội và 130 đồng = 13 kg gạo cho Hải Phòng và các
tỉnh khác có phụ cấp bổ túc gạo đắt cho bản thân, vợ và đến con thứ tư. Đến
tháng 2/1947 lương tối thiểu nâng lên 180 đồng và lương tối đa là 600 đồng).
Tháng 5/1948 chế độ công chức mới được ban hành có một thang lương
với 5 ngạch công chức, đến tháng 2/1950 lương tối thiểu được nâng lên từ 220
đồng đến 250 đồng.
Từ năm 1950 chiến sự còn lan rộng, giá sinh hoạt mỗi nơi mỗi khác, giá trị
thực tế của đồng tiền giảm. Tháng 5/1950 Sắc lệnh 77/SL quy định công nhân
giúp việc của Chính phủ áp dụng thang lương chung 18 bậc. Sắc lệnh số 98/SL
ấn định lương và phụ cấp hằng tháng theo giá gạo.
Tháng 12/1955, Nghị định 650/TTg quy định chế độ tiền lương mới, thực
hiện trả lương bằng tiền thêm cung cấp nhà ở, giường, chiếu, điện, nước, quy
định thang lương 17 bậc có bậc riêng cho cán bộ dân cử, thang lương 11 bậc
cho các bộ nhân viên kỷ thuật nhà nước, thang lương 8 bậc cho cơ quan xí
nghiệp nhà nước, thang lương 6 bậc cho lao động phổ thông xí nghiệp .
Từ những năm 1960 Đảng và Nhà nước tập trung tiến hành cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Ban chấp hành trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 13 đã quyết
định vấn đề cải cách tiền lương. Thang lương công nhân cơ khí 8 bậc làm cơ sở
xây dựng thang lương các nghề khác.Tháng 7/1960 Chính phủ ra nghị định
25/CP về chế độ lương khu vực sản xuất gồm 7 thang lương.
Sau tháng 4/1975 nước nhà được thống nhất nhưng do hậu quả nặng nề
của chiến tranh, phải tổ chức lại nền kinh tế, chính sách tiền lương lúc này còn
bao cấp và mất ý nghĩa là đòn bẩy kích thích và bù đắp. Năm 1985 Trung ương
Đảng họp hội nghị lần thứ 8 khóa 5, Nghị định 235/HĐBT ban hành hệ thống
tiền lương mới. Lương tối thiểu ấn định là 220 đồng/tháng, bội số lương hành
chính là 3,5. Hệ số lương trong các ngành sản xuất so với lương tối thiểu là 1.05
đến 1.6 có 5 thang lương và 15 bảng lương.
Từ năm 1986 Nhà nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, đã phải chuyển mức lương lên 102,275% so với năm 1985, các
xí nghiệp Nhà nước tự chi trả tiền lương, ngân sách Nhà nước không bao cấp.
Tháng 5/1993 Ban bí thư trung ương Đảng ra quyết định số 69/QĐTW đề án cải
cách tiền lương, Chính phủ đã ban hành các Nghị định 25/Chính phủ, 26/Chính
phủ về quy định tạm thời chế độ tiền lương mới. Mức lương tối thiểu là 120
nghìn đồng /tháng, bội số là 10, trong đó bảng lương thì so với lương tối thiểu,
bảng lương công chức từ 1 đến 8.5, bảng lương doanh nghiệp từ 1 đến 7.06.
Trước sự thay đổi của nền kinh tế khu vực và thế giới, để phù hợp với điều
kiện đó năm 1994 Bộ luật lao động ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng,
tạo cơ sở pháp lý cho các bên khi quan hệ lao động, đặc biệt là về tiền lương.
Đến nay Bộ luật đó đã qua hai lần sửa đổi và bổ sung vào năm 2002 và 2006 để
phù hợp với sự thay đổi của kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó các cơ quan Nhà nước
đã ban hành những Nghị định, Thông tư để điều chỉnh về chế độ tiền lương.
Qua quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tiền lương và thực tiển
áp dụng, pháp luật tiền lương ở Việt Nam có những ưu điểm và hạn chế sau.
• Về mặt ưu điểm:
Tiền lương là cơ sở để bảo vệ người lao động trước sức ép của cơ chế thị
trường.
Tiền lương là cơ sở để nhà nước có có chính sách điều tiết thu nhập. Bên
cạnh đố pháp luật tiền lương là hành lang pháp lí để các chủ thể thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình.
• Về mặt hạn chế:
Chính sách tiền lương chưa thực sự theo kịp sự phát triển của các quan hệ
lao động phong phú và đa dạng trong nền kinh tế thi trường hiện nay.
Chính sách tiền lương áp dụng đối với một số nghề, một số vùng chưa đáp
ứng được với yêu cầu thực tế.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển của pháp luật về tiền lương là một quá
trình thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, thể hiện chính sách của Đảng
và nhà nước đối với chính sách tiền lương để bảo vệ người lao động. Với sự
phát triển của pháp luật tiền lương, chúng ta đã thấy được rằng chính sách tiền
lương luôn thay đổi để đáp ứng được tình hình thực tế, sự phát triển kinh tế và
xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, pháp luật tiền lương luôn thay đổi để đảm
bảo quyền lợi cho các chủ thể đặc biệt là việc mở rộng thang lương, bảng lương
có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của nhân dân.
1.1.2. Khái niệm tiền lương
Tiền lương không chỉ là một phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng đầu
của các chính sách xã hội liên quan đến trực tiếp cuộc sống của người lao động.
Thuật ngữ tiền lương đã được nhiều tạp chí đề cập đến.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về tiền lương:
- Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO đã có quan điểm về tiền lương “Tiền
lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên gọi hay cách tính thế nào, mà có
thể biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định bằng thỏa thuận giữa người lao động
và người sử dụng lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp quy quốc gia, do người sử
dụng lao động phải trả cho người lao động theo một hợp đồng lao động viết hay
bằng miệng, cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc cho
những dịch vụ đã làm hay sẽ phải làm (Điều 1- Công ước số 45 năm 1949).
Bên cạnh đó tiền lương còn được tiếp cận dưới phương diện về kinh tế, xã
hội và phương diện về pháp lý.
- Dưới góc độ kinh tế: Với sự thừa nhận sức lao động là hàng hóa, có thể
hiểu tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền giá trị sức lao động, là giá cả sức lao động
được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động trả cho
người lao động. Như vậy, tiền lương về thực chất là tiền trả cho việc thuê mướn
sức lao động, là một trong các yếu tố đầu vào của sản xuất,cấu thành nên chi phí
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền lương vừa là chi phí trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp vừa là lợi ích kinh tế, thu nhập của người lao động.
- Dưới góc độ xã hội: Tiền lương là mục đích là động cơ chủ yếu để người
lao động tham gia quan hệ lao động, bên cạnh đó tiền lương là một vấn đề nhạy
cảm của quan hệ lao động và sự thống nhất, ổn định bền vững của quan hệ lao
động, đảm bảo được cuộc sống ổn định, ấm no của người lao động.
- Dưới góc độ pháp lý: Tiền lương là số tiền tệ mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ
được pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận theo hợp đồng lao động trên
cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Theo Điều 55 Bộ
luật lao động năm 1994 quy định “Tiền lương của người lao động do hai bên
thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suât lao động và hiệu
quả công việc. Mức lương của người lao độmg không được thấp hơn mức lương
tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Có thể nói khái niệm tiền lương dưới phương diện pháp lý mang những
đặc trưng cơ bản sau:
- Thứ nhất, về chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật về tiền lương.
Chủ thể tham gia bao gồm: Người lao động và người sử dụng lao động.
Trong đó người sử dụng lao động là người trả lương cho người lao động, còn
người lao động thông qua việc bán sức lao động của mình họ sẽ được nhận giá
trị tiền tệ trên cơ sở lao động bỏ ra.
- Thứ hai, về điều kiện trả lương.
Điều kiện để người sử dụng lao động trả lương cho người lao động khi họ
hoàn thành công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo pháp luật quy
định.
- Thứ ba, về căn cứ trả lương cho người lao động.
Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận, khi người sử dụng
lao động trả lương cho họ cần phải căn cứ vào: Năng suất, chất lượng và hiệu
quả công việc được giao, ngoài tiền lương cũng phụ thuộc vào khu vực làm việc
và tính chất công việc mà người lao động thực hiện.
Khi trả lương cũng căn cứ vào quy định của pháp luật, đó là tiền lương tối
thiểu, các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương.....
- Thư tư, về bản chất của tiền lương.
Tiền lương là giá cả của sức lao động, thị trường sức lao động hoạt động
theo quy luật cung cầu, người lao động và người sử dụng lao động có quyền
thỏa thuận về mức tiền lương, khi kinh tế - xã hội thay đổi thì kéo theo tiền
lương cũng thay đổi theo. Bên cạnh đó khi người lao động bỏ ra nhiều công sức
thì họ được nhận được tiền lương xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra.
Như vậy, tiền lương luôn được coi là đối tượng quan tâm hàng đầu của
doanh nghiệp và người lao động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, tiền
lương là giá cả cho một loại hàng hóa. Tuy nhiên sức lao động là một loại hàng
hóa đặc biệt bởi thuộc tính nảy sinh giá trị và gắn liền với yếu tố con người, do
đó chế độ chính sách về tiền lương do Nhà nước quy định một mặt tôn trọng sự
khách quan của các quy luật cung cầu, giá trị trong thị trường, mặt khác phải
xuất phát từ yêu cầu là quan tâm tới toàn diện mục đích, động cơ làm việc, các
nhu cầu lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động và của
toàn xã hội.
1.1.3. Bản chất của tiền lương
Trong mổi giai đoạn khác nhau thì cách tiếp nhận về bản chất tiền lương
khác nhau.Tuy nhiên có hai cách nhận thức cơ bản nhất về bản chất tiền lương.
Lao động của con người là một trong những yếu tố quan trọng và giữ vai
trò quyết định trong quá trình sản xuất – kinh doanh, được biểu hiện ở khả năng
tư duy sáng tạo. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các doanh
nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh để thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước đặt ra. Lúc bấy giờ, sức lao động
chưa được coi là hàng hóa, nên người sử dụng lao động không thương lượng,
thỏa thuận với người lao động về tiền lương, tiền công mà đơn phương ấn định
mức lương của người lao động trên cơ sở thang lương, bảng lương của Nhà
nước. Khi đó người lao động chỉ biết chấp nhận các điều kiện lao động do người
sử dụng lao động đơn phương đưa ra để đưa vào làm việc với mức lương được
quy định sẵn trong thang lương, bảng lương của người sử dụng lao động.
Kể từ khi nước ta xóa bỏ cỏ chế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nề
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà hoạch định chính
sách tiền lương đã thay đổi nhận thức về lý luận trong xây dựng chính sách tiền
lương. Nhà nước đã công nhận sự tồn tại khách quan của phạm trù hàng hóa sức
lao động, tiền lương không chỉ thuộc phạm trù phân phối mà còn là phạm trù
trao đổi, phạm trù giá trị. Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là biểu hiện
bằng tiền giá trị sức lao động, là giá cả sức lao động. Cũng như các thị trường
khác thị trường sức lao động hoạt động theo quy luật cung cầu. Do đó, người
lao động có quyền thương lượng, thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc
làm và điều kiện lao động khác phù hợp với khả năng chuyên môn, năng lực của
mình. Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận và được ghi trong
hợp đồng lao động. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động theo
năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Nhà nước chỉ quy định mức lương
tối thiểu và yêu cầu người sử dụng lao động trả lương cho người lao động
không được thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định trong từng thời
kỳ. Mức lương tối thiểu ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động
làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức
lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và
được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác. Trên
cơ sở mức lương tối thiểu và mức lương cụ thể đã thỏa thuận với người lao
động, người sử dụng lao động có quyền lựa chọn một trong các hình thức sau để
trả lương cho người lao động: trả lương theo thời gian ( giờ, ngày, tháng, tuần)
hoặc theo sản phẩm khoán. Nhưng người lao động phải duy trì hình thức trả
lương đã chọn trong một thời gian nhất định và phải thông báo cho người lao
động.
Tiền lương có vai trò to lớn trong xã hội, luôn gắn liền với người lao động.
Chính vì vậy, tiền lương mà các doanh nghiệp trả cho người lao động theo cơ
chế thị trường phải đáp ứng các điều kiện: tiền lương phải thực sự là thước đo
cho mỗi hoạt động của mỗi cơ sở kinh tế, từng người lao động và là đòn bẩy
kinh tế, tiền lương không phù hợp, phản ánh sai lệch sức lao động, nó sẽ cản trở
tính năng động, sáng tạo của người lao động và kìm hãm sự phát triển của
doanh nghiệp của nền kinh tế.
1.1.4. Chức năng của tiền lương
Tiền lương có vai trò rất quan trọng trong đời sống người lao động cũng
như đối với doanh nghiệp. Tiền lương là cơ sở để các bên thỏa thuận trong hợp
đồng lao động đồng thời tiền lương cũng là căn cứ xác lập và giải quyết tranh
chấp. Tiền lương có rất nhiều chức năng như sau:
- Chức năng thước đo giá trị sức lao động.
Cũng như mối quan hệ của hàng hóa khác, sức lao động củng được trả
công căn cứ vào giá trị mà nó đã được cống hiến và tiền lương chính là biểu
hiện bằng tiền của giá trị sức lao động trong cơ chế thị trường.
Ngày nay ở nước ta thì tiền lương còn thể hịên một phần sức lao động mà
mổi cá nhân đã được bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, tiền lương là
căn cứ để thuê mướn lao động, tiền lương là cơ sở để người lao động tạo ra sự
linh hoạt trong việc thuê mướn lao động với những công việc khác nhau sẽ có
mức lương khác nhau.
Chức năng thước đo giá trị phẩn ánh thông qua thang lương, bảng lương,
bậc lương và hệ số lương
- Chức năng tái sản xuất sức lao động.
Đây là chức năng cơ bản của tiền lương vì người lao động sau quá trình sử
dụng súc lao động thì họ phải được bù đắp sức lao động đã bỏ ra, họ cần có thu
nhập bằng tiền lương cộng với các khoản thu khác (mà tiền lương là chủ yếu).
Do vậy tiền lương là cơ sở giúp người lao động bù đắp lại sức lao động đã hao
phí để họ có thể duy trì liên tục quá trình sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, do yêu cầu của đời sống xã hội nên việc sản xuất không ngừng
tăng nhanh về quy mô, về chất lượng. Để đáp ứng được yêu cầu đó thì tiền
lương phải đủ để họ duy trì và phát triển sản xuất lao động với ý nghĩa cả về số
lượng lẫn chất lượng.
- Chức năng kích thích và thúc đẩy phân công lao động xã hội.
Để thực hiện chức năng đó khi người lao động làm việc có năng suất cao,
hiệu quả rõ rệt thì chủ sử dụng lao động cần quan tâm tới tiền lương để kích
thích người lao động. Khi tiền lương làm động lực cho người lao động hăng hái
làm việc sản xuất thì sẽ làm cho năng suất lao động tăng lên, đây là tiền đề cho
việc phân công lao động xã hội một cách đầy đủ hơn. Người lao động sẽ được
phân công làm những công việc thuộc sở trường của họ.
- Chức năng tích lũy.
Để thực hiện chức năng này thì tiền lương là phần thu nhập chủ yếu trong
tổng số thu nhập của họ. Tiền lương trả cho người lao động phải đảm bảo duy
trì được cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc và còn dự phòng cho
cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hay gặp rủi ro.
Ngoài các chức năng trên thì tiền lương còn góp phần làm cho việc quản lý
lao động trong các đơn vị sản xuất kinh doanh trở nên dễ dàng và tiền lương còn
góp phần hoàn thiện mối quan hệ xã hội giữa con người với con người trong
quá trình lao động.
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương
- Thứ nhất, trả lương phải trên cơ sở sự thỏa thuận giữa người lao động
với người sử dụng lao động không được thỏa thuận thấp hơn mức lương ấn
định của Nhà nước.
Xuất phát từ sự bình đẳng và sự tự do của hai bên khi ký kết hợp đồng lao
động. Nguyên tắc này làm cơ sở cho các bên khi tham gia ký kết hợp đồng lao
động. Mặt khác pháp luật quy định mức lương tối thiểu là bắt buộc các bên thỏa
thuận không được thấp hơn giới hạn này nhằm mục đích tôn trọng cái riêng tư
của các chủ thể trong quan hệ lao động, đảm bảo tính hợp pháp của pháp luật để
đảm bảo sự linh hoạt trong việc trả lương khi trong điều kiện lao động khác
nhau, khu vực lao động khác nhau, tính chất công việc khác nhau thì tiền lương
sẽ khác nhau và tránh được sự lạm dụng sức mua của người sử dụng lao động,
đảm bảo quyền lợi cho người lao động trước sức ép của nền kinh tế thị trường,
đảm bảo nhu cầu tối yếu cho người lao động.
- Thứ hai, tiền lương phải được trả theo năng suất, chất lương lao động
và hiệu quả công việc.
Đây là nguyên tắc làm cơ sở cho việc hạ giá thành sản phẩm, tăng tích lũy
để tái sản xuất mở rộng, tăng năng suất lao động là điều kiện để phát triển sản
xuất. Mặt khác, tiền lương là biểu hiện của giá trị sức lao động và nó chịu sự chi
phối bởi năng suất lao động và các quy luật cung cầu về sức lao động trên thị
trường, nên khi tính lương trả cho người lao động, người sử dụng lao động phải
tính đến năng suất chất lượng và hiệu quả công việc.
- Thứ ba, tiền lương phải được trả trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại
nơi làm việc.
Tiền lương là một phần thu nhập chủ yếu để đảm bảo sinh hoạt và cuộc
sống của người lao động cũng như gia đình của họ. Nguyên tắc này đặt ra nhằm
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích tối đa của người lao động việc trả lương và
hạn chế được nhiều nguyên nhân như: Trả lương chậm, khấu trừ tiền lương sai
quy định, trả lương không đủ, gây khó khăn phiền hà hà cho người lao động.
Trong một số trường hợp pháp luật cho phép chủ sử dụng lao động được
trả lương thông qua cai thầu, hoặc trung gian, qua ngân hàng...nhằm mục đích
quản lý được nguồn thu nhập của người lao động để người lao động thực hiện
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và không gây phiền hà, khó khăn, nhanh
gọn cho cảc các bên trong quan hệ lao động.
1.1.6. Các hình thức trả lương
Điều 58 luật lao động 2002 sữa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao
động 1994 quy định các hình thức trả lương sau:
* Trả lương theo thời gian.
Đây là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian lao động và cấp bậc để tính
lương cho từng người lao động.
Trả lương theo thời gian có 4 hình thức:
- Trả lương theo tháng: Là lương trả cho người lao động theo tháng, theo
bậc lương đã sắp xếp và các khoản phụ cấp nếu có áp dụng đối với người lao
động không xác định được trước khối lượng công trình hoàn thành.
Lương tháng = Mức lương theo bảng lương + phụ cấp( nếu có)
- Trả lương theo tuần: Là mức lương trả cho người lao động theo tuần và
được tính theo công thức
- Lương ngày: Là lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số
giờ làm việc thực tế của họ.
Lương công nhật: Là tiền lương thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động, làm việc ngày nào hưởng ngày ấy theo quy định của
từng loại công việc.
- Lương giờ: Là tiền lương được tính và trả theo giờ.
Hình thức trả lương theo thời gian có ưu điểm: Tính toán đơn giản, ổn
định trong việc trả lương và dự toán tiền lương của doanh nghiệp. Nhưng trả
lương theo thời gian thường mang tính bình quân, không khuyến khích được
tính tích cực của người lao động, ít quán triệt nguyên tắc phân phối lao động.
Trên thực tế các doanh nghiệp chủ yếu áp dụng hình thức trả lưong này
chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp có viêc làm và kinh
doanh ổn định.
* Trả lương theo sản phẩm.
Đây là hình thức trả lương cho người lao động theo số và chất lượng của
công việc đã hoàn thành. Tiền lương của người lao động phụ thuộc vào đơn giá
tiền lương của đơn vị sản phẩm và số sản phẩm hợp quy cách đã sản xuất ra.
* Trả lương theo khoán.
Hình thức này áp dụng với các công việc nếu giao từng chi tiết, bộ phận sẽ
không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc cho cả nhóm nhân viên
hoặc một người hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Hình thức trả lương theo sản phẩm và theo khoán khá phù hợp với nguyên
tắc phân phối theo lao động, gắn thu nhập với người lao động với kết quả sản
xuất kinh doanh, khuyến khích người lao động hăng say lao động, nâng cao
năng suất. Tuy nhiên hai hình thức này làm cho người la động ít quan tâm đến
máy móc thiết bị, chỉ chạy theo số lượng, không chú ý đến chất lượng, không
tiết kiệm nguyên vật liệu và không quan tâm đến tập thể.
1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật về tiền lương
Chế độ tiền lương là tổng hợp những quy định của Nhà nước nhằm xác định
các mức lương, hình thức và cách thức trả lương để người lao động và người sử
dụng làm căn cứ thỏa thuận và tiến hành trả lương trong quan hệ lao động.