Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Bài thảo luận nhóm: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với mâu thuẫn của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.96 KB, 17 trang )

      NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT 

 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NAM  
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
­­­­­­­­­­

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
VỚI MÂU THUẪN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP

:

18.01.NHA

NHÓM

:

7

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:

1

TS. TRẦN THU HƯỜNG



Hà Nội, 9­2016

DANH SÁCH NHÓM 7

Họ và tên
Lê Thị Thanh Hà
Trương Đức Thái
Nguyễn Khắc Lân
Lê Việt Hùng
Tạ Thị Phương
Nguyễn Thị Hòa

2

Mã số sinh viên
18K401013
18K401044
18K401026
18K401020
18K401038
18K401017


MỤC LỤC

3


I.


Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

1. Quan điểm của chủ nhĩa duy vật về mâu thuẫn

Nhận thức duy vật biện chứng về mâu thuẫn của chủ  nghĩa Mác là nhận thức đúng 
đắn nhất, nó đã phát triển thành một quy luật­ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các 
mặt các mặt đối lập. quy luật thống nhất và đâu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân”  
của phép biện chứng. Theo V.I.Lenin, “ Có thể  định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là  
học thuyết về  sự  đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như  thế  là nắm được hạt nhân của 
phép biện chứng, nhưng điều đó còn đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát  
triển thêm”.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đôi lập là quy luật về  nguồn gốc,  
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này,  
nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động. phát triển chính là  
mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượngtrong thế giới  đều tồn  
tại mâu thuẫn bên trong.Mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, 
các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng  
lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn.
 Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng  khách quan mà còn là một hiện tượng 
phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên,  
đời sống xã hội và tư  duy con người. Không có sự  vật hay hiện tượng nào lại không có 
mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự  phát triển của sự  vật, hiện tượng lại 
không có mấu thuẫn. 
Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại hình thành. Theo Ph.Ăngghen,ngay hình 
thức đơn giản nhất của vật chất­ vận động cơ  học, đã là một mâu thuẫn. Sở  dĩ sự  di  
động một cách máy móc và đơn giản  ấy có thể  thực hiện được chỉ  là vì một vật trong 
cùng một lúc vừa là ở nơi này, lại vừa ở nơi khác, vừa là ở trong một chỗ duy nhất, lại  
vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất  ở những hình thức vận động cao  

hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn. Trong lĩnh vực tư  duy cũng vậy, chúng ta không thể 
thoát khỏi mâu thuẫn, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thức vô tận ở bên  
4


trong con người với sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn 
chế  bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị  hạn chế  trong những năng khiếu nhận thức, mâu 
thuẫn này được giải quyết trong sự  nối tiếp giữa các thê hệ, sự  nối tiếp đó rút ra với  
chúng ta, thực tế cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự  khái quát những 
thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau trong cùng một sự  vật hiện tượng,  
tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân biệt rằng bất kì hai mặt đối lập nào 
cũng tạo thành mâu thuẫn. trong cùng một thời điểm, mỗi sự  vật hiện tượng nào cũng  
tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ  có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng 
một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài 
trừ phủ định và chuyển hóa lẫn nhau ( sự chuyển hóa này tạo thành nguồn gốc động lực, 
đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển của sự  vật), có hai mặt đối lập 
như  vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn   ­  thống nhất, được hiểu với ý nghĩa 
không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng  
như liên hệ phụ thuộc, quy định ràng buộc lân nhau, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia 
làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt 
đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự  tôn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng 
nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riên g có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ:  
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho  
sự  tổn tại của công cuộc đổi mới nền kinh tế   ở  Việt Nam, hai nền kinh tế khác nhau  
hoàn toàn về bản chất và những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó  
có sự  thống nhất này nên nền kinh tế  thị  trường  ở  Việt Nam không thể  tổn tại với ý 
nghĩa là chính nó.
Sự  thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự  vật không tách rời sự  đấu 

tranh chuyển hóa giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống  
nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển  
hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự  vật. Sự  đấu tranh chuyển 
hóa, bài trừ, phủ  định lẫn nhau giữa các mặt trong thế  giới khách quan thể  hiện dưới 
nhiều hình thức khác nhau.
5


Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu 
thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn 
ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ  thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều  
hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, 
khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi  
đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi  
là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với 
nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai  
mặt đối lập  ấy mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của  
một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến hành độc lập. Sự vật  
cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của 
hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối  
lập mới lại đấu tranh chuyển hóa tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự 
vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi 
không ngừng từ  thấp lên cao. Vì vậy, Lênin khẳng đỊnh"sự  phát triển là một cuộc đấu  
tranh giữa các mặt đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin  
chỉ ra rằng:"Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó  
­ như  có sự  thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự  vật, hiện  
tượng tổn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự  thống nhất chỉ là tương  
đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường  

xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự  vật ổn 
định, cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chất".
2. Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển

Không phải mọi sự  đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự  chuyển hóa 
giữa chúng. Chỉ  có sự  đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ  nhất 
định, hội đủ các điều kiện cần thiết dãn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ định nhau. Trong  
giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong 
6


xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức  
của con người.
Vì vậy, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ  là sự  hoán 
đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hóa theo hai 
phương thức:
­

Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng 

ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh  
chuyển hóa lẫn nhau để  hình thành quan hệ  sản xuất mới là quan hệ  sản xuất tư  bản  
chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
­

Phương thức thứ  hai: Cả  hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để  thành hai mặt 

đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan 

liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa.
Từ  các mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế  giới hiện thực, bất kỳ  sự  vật hiện  
tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc t ính  có khuynh 
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập trong  
điều kiện cụ  thể  tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, ph ổ biến 
của thế  giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự  vật cũ mất đi, sự  vật mới hình thành. Sự 
vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa và phủ  định lẫn nhau để tạo thành sự 
vật mới hơn. Cứ  như vậy mà các sự  vật, hiện tượng trong thế  giới khách quan thường 
xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực 
của mọi quá trinh phát triển.
II. Quy luật mâu thuẫn với hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại
1. Khái quát tình hình hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay

Sau 9 năm Việt Nam là thành viên của WTO, nền kinh tế  đã đạt được những thành  
tựu bước đầu. Môi trường và thể  chế  hoạt động của hệ  thống ngân hàng Việt Nam  
7


(NHVN) có những chuyển biến tích cực với những thành công đáng ghi nhận về  khung  
điều tiết; quản trị  nội bộ; tổ chức bộ máy, chất lượng nguồn nhân lực và sự  phát triển  
của các dịch vụ  ngân hàng hiện đại. Song đi sâu vào quá trình phát triển này cho thấy  
những bất cập chưa có tiền lệ  nảy sinh, hệ  thống NHVN dễ  bị  tổn thương trước các 
biến động của môi trường bên trong và bên ngoài. Kinh nghiệm của một số  nước cho  
thấy hội nhập WTO là động lực hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế, của ngân hàng 
nếu biết tận dụng có hiệu quả cơ hội và điều chỉnh chính sách cho phù hợp với tiến trình  
hội nhập.
Sau khi là thành viên WTO, việc thực hiện các cam kết về tài chính – ngân hàng, cùng  
với quá trình tái cấu trúc đã có tác động rất mạnh đến hệ  thống Ngân hàng Việt Nam 

như sau:
Ngân hàng Việt Nam vẫn là một kênh đáp ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đóng 
góp không nhỏ vào mức tăng GDP hàng năm. Khi tham gia sâu vào hội nhập, cạnh tranh  
đã thực sự là động lực to lớn cho cải cách, đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng. 
Chính sự cạnh tranh này đã tác động đến quản trị nội bộ và văn hóa rủi ro của ngân hàng 
theo hướng minh bạch hơn, tin cậy hơn, đặc biệt khi 03 ngân hàng thương mại (NHTM) 
Nhà nước(Vietinbank, Vietcombank, BIDV) thực hiện cổ  phần hóa, chuyển sang hoạt  
động theo mô hình cổ phần (CP). Việc nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu,  
duy trì hệ số an toàn vốn tối thiểu, đầu tư  công nghệ, phát triển các dịch vụ  ngân hàng  
hiện đại, mở  các chi nhánh  ở  nước ngoài... để  phục vụ  tốt hơn, hiệu quả  hơn khách 
hàng cả  trong và ngoài nước đều được các NHTM quan tâm và thực hiện bằng những 
biện pháp khác nhau.
Các  NHTM CP cũng có sự  bứt phá trong việc tăng năng lực tài chính thông qua  
việc góp vốn của các cổ  đông chiến lược trong, ngoài nước. Trước hội nhập, chỉ  có 6 
NHTM CP  có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia, nhưng sau 6 năm hội nhập, đã 
có thêm 17 NHTM có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn. Một số NHTM có số vốn góp của 
nhà   đầu   tư   chiến   lược   nước   ngoài   chiếm   tới   20­   30%   như 
VietinBank,VCB,Techcombank…
Số  lượng các ngân hàng giảm đi, quy mô của một số  ngân hàng tăng lên, thanh  
khoản đảm bảo, uy tín được cải thiện. Sau gần 3 năm thực hiện, một số các NHTM yếu 
8


kém đã được sáp nhập với nhau, hoặc sáp nhập vào các NHTM lớn; một số NHTM hoạt 
động yếu kém, nợ khách hàng lớn hơn nhiều lần vốn chủ sở hữu, NHNN đã mua với giá  
0 VND (như Oceanbank, GPBank, VNBC), chuyển sang mô hình Ngân hàng trách nhiệm 
hữu hạn một thành viên, sau đó giao cho Vietcombank và Vietinbank quản lý, điều hành. 
Theo  báo cáo, khu vực ngân hàng  ổn định, tín dụng tăng khá, cơ  cấu tín dụng 
chuyển động theo hướng tích cực. Cả  năm 2015, tín dụng tăng 18% (nếu tính cả  TPDN 
thì tăng trưởng tín dụng  ở  mức 19,3%), cao hơn nhiều so với kế hoạch đầu năm (13%­

15%).Trong đó tín dụng trung và dài hạn tăng 31,4%, cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín  
dụng ngắn hạn (7%). Trong bối cảnh khu vực doanh nghiệp tái cấu trúc mạnh mẽ  sau  
giai đoạn khủng hoảng, cầu đối với nguồn vốn trung và dài hạn tăng cao để đáp ứng yêu  
cầu đầu tư dài hạn và đổi mới công nghệ.
Chính sách lãi suất chênh lệch giữa đồng USD và VND đã phát huy tác dụng, tăng 
trưởng tín dụng ngoại tệ cả năm giảm (­)12,9% so với cùng kỳ 2014.
Thanh khoản hệ thống ngân hàng tốt, hiệu quả kinh doanh phục hồi nhẹ. Tỷ lệ LDR  
của toàn hệ thống ở mức 80,9% (mức an toàn cao về thanh khoản). Thanh khoản đối với 
VND và ngoại tệ lần lượt ở mức 83,5% và 64,1%, ở giới hạn an toàn thanh khoản. Hiệu 
quả  kinh doanh tuy còn thấp (do trích lập DPRR) nhưng đã phục hồi nhẹ  so với năm 
2014.
2. Những biểu hiện mâu thuẫn trong hệ thống ngân hàng

Mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Xung quanh 
chúng ta, môi trường làm việc của chúng ta cũng không nằm ngoại lệ. Mâu thuẫn trong 
hoạt động Ngân hàng rất nhiều, nhưng  ở  đây Tôi xin phân tích một số  mâu thuẫn chủ 
yếu, nổi lên trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Một quá trình sản xuất kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều mâu thuẫn  
như; mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mâu thuẫn giữa cung và cầu về sản  
phẩm, mâu thuẫn giữa chủ  quản lý với người lao động, mâu thuẫn giữa tính kế  hoạch 
trong xí nghiệp với tính tự  phát của cơ  chế  thị  trường, mâu thuẫn giữa sức phát triển  
nhanh của công cụ  sản xuất và công nghệ  tiên tiến với sự  cạn kiệt nguồn tài nguyên  
thiên nhiên là nguyên liệu của sản xuất, mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro....
9


2.1 Mâu thuẫn giữa rủi ro và lợi nhuận
Chúng ta đã biết hoạt động chính của ngân hàng là nhận gửi và cho vay với mục đích 
cuối cùng là lợi nhuận. Mối quan hệ  mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro là một mâu 
thuẫn biện chứng, là hai mặt của một vấn đề. Bất cứ quá trình sản xuất, kinh doanh nào  

cũng vậy, lợi nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với nhau, mâu thuẫn với nhau. Kết  
thúc một quá trình sản xuất, kinh doanh chúng ta có thể thu được lợi nhuận nhưng có khi 
là gặp phải rủi ro. Lợi nhuận dự kiến mang lại càng cao thì độ rủi ro nếu gặp phải cũng 
sẽ rất lớn và ngược lại. 
Chi phí dự  phòng rủi ro tín dụng vẫn là gánh nặng lớn, làm bốc hơi hàng ngàn tỷ  đồng  
lợi nhuận của các nhà băng trong quý 2/2016 
(Nguồn:

  />
hoi­truoc­ganh­nang­du­phong­757­488980.htm).

Nổi bật nhất là trường hợp của Sacombank, lãi ròng hợp nhất thu về trong quý 2 
chỉ đạt 147 tỷ  đồng, giảm 73% so với cùng kỳ  năm trước. Mặc dù lãi thuần từ  hầu hết  
các hoạt động dịch vụ, kinh doanh và đầu tư  đều tăng trưởng tốt, nhưng thu nhập lãi 
thuần giảm 18% và chi phí hoạt động tăng 8% đã kéo lợi nhuận thuần trước dự  phòng  
rủi ro giảm 22% xuống 846 tỷ  đồng. Thêm vào đó, chi phí dự  phòng rủi ro tăng mạnh  
hơn 86% lên 682 tỷ đồng đã khiến lợi nhuận sau thuế của ngân hàng này “bốc hơi” đáng 
10


kể, chỉ  còn 147 tỷ  đồng. Lũy kế  6 tháng đầu năm, lãi ròng của Sacombank giảm 74% 
xuống chỉ còn 309 tỷ đồng.
Một trường hợp khác, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước trích lập dự 
phòng của Ngân hàng SCB trong quý 2 đạt hơn 1,120 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ nhờ sự 
tăng trưởng tốt trong lãi thuần và cắt giảm chi phí hoạt động. Tuy nhiên, khoản chi phí  
dự  phòng rủi ro tín dụng tăng đột biến từ  420 tỷ  lên 1,038 tỷ  đồng đã khiến lợi nhuận 
của ngân hàng “không cánh mà bay”. Tính trong quý 2, SCB chỉ thu về vỏn vẹn gần 67 tỷ 
đồng lợi nhuận sau thuế (cùng kỳ năm trước lỗ 7.7 tỷ đồng).
Ngược lại, lợi nhuận thuần trước dự phòng rủi ro của Vietcombank trong quý 2 
tuy chỉ  xấp xỉ cùng kỳ  năm trước, nhưng nhờ chi phí dự  phòng rủi ro giảm gần 130 tỷ 

đồng xuống 1,700 tỷ  đồng (chiếm 46% lợi nhuận trước dự  phòng) đã giúp lợi nhuận 
ròng cải thiện, tăng 19% và ghi nhận 1,576 tỷ đồng.
Riêng với BIDV, mặc dù lợi nhuận sau thuế quý 2/2016 tăng 58% lên 975 tỷ đồng, 
nhưng hiện Ngân hàng này đang có mức trích lập dự phòng rủi ro cao nhất, gần 2,536 tỷ 
đồng (tương đương 67% lợi nhuận trước dự  phòng), bỏ  khá xa so với Vietcombank và 
VietinBank. Đáng lưu ý, tổng giá trị  nợ xấu của BIDV tại thời điểm kết thúc quý 2/2016 
tăng hơn 3,000 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó nợ nhóm 4 tăng đột biến từ gần 888 tỷ 
đầu năm lên hơn 2,326 tỷ đồng./.
Do đó có thể nói mâu thuẫn giữa lợi nhuận vả rủi ro là một trong những mâu thuẫn cơ 
bản không chỉ của các Ngân hàng mà còn của những tất cả các doanh nghiệp nói chung.  
Đồng thời, rủi ro và lợi nhuận là động lực để  các doanh nghiệp ngày một phát triển về 
trình độ quản lý doanh nghiệp.
2.2 Mâu thuẫn giữa cung và cầu (giữa Ngân hàng và Khách hàng vay)

Một mâu thuẫn khác có thể nói đến trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương 
mại đó là mối liên hệ biện chứng giữa những người có nhu cầu vay vốn và bên cấp vốn. 
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp thì vốn là điều 
không thể  thiếu. Và nếu thiếu, thì chỉ  có một cách là đi vay. Tuy nhiên, những doanh 
nghiệp, những cá nhân này có đủ điều kiện vay vốn hay không? Điều này lại phụ thuộc  
hoàn toàn vào việc thẩm định tín dụng của Ngân hàng. 
11


Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không  
đáp ứng được đủ  những yêu cầu từ phía Ngân hàng. Những thủ  tục hành chính rườm rà 
chỉ là một phần nhỏ, và điều đáng chú ý ở  đây, có thể thấy là do các Ngân hàng đòi hỏi 
về sự an toàn, lành mạnh tài chính ở doanh nghiệp. Một doanh nghiệp để có thể đáp ứng  
hồ  sơ  vay vốn, họ  cần một báo cáo tài chính lành mạnh, trong sạch trong ít nhất là 02  
năm gần nhất. Cùng với đó là những tài sản bảo đảm có giá trị lớn hơn giá trị của khoản  
vay. Và rất nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam hiện 

nay chưa đáp ứng được yêu cầu tối thiểu từ phía Ngân hàng. Mặt khác, về phía các Ngân  
hàng Thương mại, các Ngân hàng cũng không thể cho vay dưới chuẩn. 
Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn ở đây đó là người cần vốn thì không đáp ứng được  
yêu cầu vay vốn, người cho vay, tức là các Ngân hàng Thương mại lại không thể ôm rủi  
ro để cho vay dưới chuẩn với những doanh nghiệp này.
2.3 Mâu thuẫn trong sự hình thành và phá sảncủa các Ngân hàng Thương mại

Thập kỷ trước có lẽ được gọi là thập kỷ cho sự bùng nổ và phát triển hệ thống Ngân  
hàng. Hàng loạt các Ngân hàng được thành lập và hoạt động tín dụng đã tạo nên một hệ 
thống tài chính phức tạp, đan xen nhau giữa các trung gian tài chính. Nhiều Ngân hàng 
mới được thành lập theo mô hình Ngân hàng cổ  phần (trong đó nhiều ngân hàng nông  
thôn quy mô nhỏ  được cổ  phần hóa). Chính sự  “bùng nổ” hoạt động cả  về  quy mô và  
mức độ đa dạng của hệ thống ngân hàng trong thời gian trước đây, cùng hạn chế  trong  
quản lý của từng Ngân hàng, kiểm soát của NHNN đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ 
lớn tác động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. T rong đó, phải 
kể đến 3 vấn đề nổi bật: chất lượng tài sản kém, thanh khoản khó khăn và quy mô vốn  
tự có nhỏ.
Vấn đề đầu tiên của hệ thống ngân hàng là chất lượng tài sản kém, thể hiện ở tỷ lệ 
dư nợ phi sản xuất cao và tỷ lệ nợ xấu tăng cao.
Chạy đua tăng lãi suất, cùng với việc cho vay dưới chuẩn là nguyên nhân khiến nợ 
xấu của hệ thống Ngân hàng Thương mại có xu hướng tăng cao(Oceanbank âm vốn chủ 
sở hữu 6.000 tỷ đồng, VNCB âm vốn chủ sở hữu 9.000 tỷ đồng). Các Ngân hàng cổ phần 
hóa hoạt động theo nguyên tắc thị  trường phải cho phá sản nếu kinh doanh thua lỗ, tuy 
12


nhiên hiện nay tại Việt Nam vẫn còn tư duy”Ngân hàng không thể đổ vỡ” vì lo ngại tiêu  
cực đến cả hệ thống Ngân hàng, đến quyền lợi của Người gửi tiền. 
Thứ  hai,  những khó khăn về  thanh khoản đang khiến nhiều ngân hàng điêu đứng. 
Những khó khăn này đã được thể hiện rất rõ ở những cuộc đua lãi suất trên cả thị trường  

1(từ  tổ  chức kinh tế  và cá nhân) và thị  trường liên ngân hàng (LNH).Nhắc  lại thời kỳ 
2009 – 2011, huy động TT1 trở  nên rất khó khăn, đến mức người gửi tiết kiệm có thể 
mặc cả lãi suất với ngân hàng trong suốt quý 3/2011. Trong giai đoạn này, có những lúc,  
lãi suất huy động từ dân cư lên tới 20%, áp dụng cho khoản tiết kiệm tối thiểu 100 triệu  
đồng trong thời hạn 1 tháng. Chi phí huy động tăng quá cao làm tăng lãi suất cho vay,  
vượt quá khả năng sinh lời của các Doanh nghiệp để bù đắp chi phí đi vay, dẫn đến nợ 
xấu tăng cao. Chỉ cho đến khi NHNN tuýt còi, việc huy động vượt trần lãi suất mới tạm  
dừng và lắng xuống.Sự  thiếu thanh khoản trầm trọng đã buộc một số  ngân hàng phụ 
thuộc cao vào thị trường LNH, đến mức lãi suất LNH qua đêm đã bị đẩy lên tới hơn 20% 
trong khoảng thời gian đầu tháng 10/2011. Một số ngân hàng cá biệt gặp vấn đề  nghiêm 
trọng về thanh khoản đã chấp nhận trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn nhằm  
huy động vốn bằng mọi giá!
Thứ  ba, thiếu vốn tự  có. Theo số  liệu thống kê của chúng tôi, tỷ  lệ  an toàn vốn tối  
thiểu CAR của các ngân hàng TM trong nước ở mức khá ổn, trên 9%. Tuy nhiên, mức độ 
cụ  thể  lại rất khác nhau giữa các ngân hàng. Một nghịch lý là các ngân hàng có quy mô  
vốn điều lệ càng lớn thì lại có CAR càng nhỏ. Theo số liệu ước tính, CAR của nhóm các  
NHTM Nhà nước chỉ ở mức 6,9% trong khi CAR của nhóm các ngân hàng TMCP quy mô 
nhỏ  (3.000 tỷ  đồng) lại  ở  mức 26,5%. Thêm vào đó, nếu phân loại nợ  xấu theo đúng  
chuẩn quốc tế và thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ trên số nợ xấu này, tỷ lệ CAR sẽ 
còn thấp hơn. (Do dự  phòng tăng làm giảm lợi nhuận luỹ  kế, dẫn tới giảm vốn tự  có  
(VTC) và giảm CAR. CAR được tính bằng VTC/Tổng tài sản có rủi ro). Trong đó, VĐL 
chiếm tới 84% vốn tự có, tuy nhiên tính đến thời điểm này, vẫn còn những ngân hàng có 
vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng. Hiện tại, NHNN đang dự thảo nghị định buộc các ngân  
hàng có vốn tối thiểu 5.000 tỷ vào năm 2012 và 10.000 tỷ  đồng vào năm 2015. Nếu quy 
định này được ban hành, chắc chắn nhiều ngân hàng khó có thể đáp ứng được.

13


Từ những mâu thuẫn trên, điều mà hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam buộc  

phải làm đó là cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng và hệ thống tài chính của mình nhằm ngăn 
chặn rủi ro khi sự đổ vỡ của tổ chức tài chính này sẽ kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống.  
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ,  
trở  nên quá lớn do tác động của các yếu tố  bên ngoài như  bất  ổn kinh tế  vĩ mô, khủng  
hoảng kinh tế  thế  giới, thị  trường chứng khoán hay/và thị  trường bất động sản lao dốc 
hay do các yếu tố  bên trong như  quản trị  rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn 
chỉnh, đầu tư  mạo hiểm, trình độ  năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu 
cầu,… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ  vỡ  nếu không được cơ  cấu lại, cả  cơ 
cấu lại từng ngân hàng, cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng.
2.4 Sở hữu chéo phức tạp
Mức độ  sở  hữu chéo cao giữa các ngân hàng và giữa các ngân hàng với DN. Cơ 
cấu cổ đông phức tạp gây ra quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và hoạt động cho vay  
bên có quan hệ/liên quan, nhằm tài trợ cho các dự án thiếu minh bạch. Cơ cấu này cũng 
dẫn đến tình trạng phóng đại vốn do cho vay mua cổ phần lẫn nhau và đã tạo điều kiện  
lách các quy định an toàn. Việc cho các Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn  
quản lý, điều hành Ngân hàng cổ  phần để  tăng khả  năng cạnh tranh, đáp  ứng nhu cầu  
vốn của thị trường. Tuy nhiên, các cổ đông tham gia góp vốn xảy ra tình trạng thiếu năng  
lực quản lý, thiếu đạo đức kinh doanh ảnh hưởng tiêu cực đến cả hệ thống tài chính các 
năm vừa qua.

14


(Theo:http://t
aichinhplus.vn/TIEN­TE/Ngan­hang/Tham­nhap­ma­tran­so­huu­cheo­trong­linh­vuc­
15


ngan­hang­post153141.html) ­ Tháng 07/2015
Những đặc điểm này khiến ngành ngân hàng dù phát triển mạnh trong những năm 

qua, nhưng đồng thời cũng gặp nhiều biến động mạnh. Kết quả hoạt động của khu vực  
ngân hàng xấu đi trong những năm gần đây và có thể  còn kém hơn so với báo cáo. Chất 
lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường chính xác hầu hết các chỉ 
số hiệu quả hoạt động như ROA, NPL và các hệ số vốn.
Hệ thống ngân hàng đã tích tụ một khoản nợ xấu lớn (NPL). Nhiều ngân hàng nhỏ có 
vấn đề  về  thanh khoản và khả  năng thanh toán  ở  mức độ  nghiêm trọng, khiến NHNN 
phải can thiệp. Năng lực cho vay của hệ thống ngân hàng giảm là một trong những yếu 
tố khiến tăng trưởng tín dụng giảm mạnh.
3. Sự  phát triển của hệ  thống Ngân hàng Việt Nam sau khi có sự  chuyển hóa  

của các mặt đối lập
Trong hoạt động ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng là số  chênh lệch giữa lợi tức cho  
vay và lợi tức phải trả trừ đi các chi phí nghiệp vụ ngân hàng số còn lại gọi là lợi nhuận. 
Ngân hàng thu hút vốn trong dân cư  dưới các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư, 
cung cấp dịch vụ  thanh toán... Rồi dùng vốn huy động đó để  cho vay và hưởng chênh 
lệch lợi tức. Trong quá trình cho vay đó, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận sau khi đã trừ 
đi lợi tức phải trả khi vay, hoặc ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro nếu khách hàng không có  
khả năng thanh toán bởi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ rủi ro, thất bại nên mất 
khả  năng thanh toán. Làm thế  nào để  hạn chế  rủi ro và đối đa lợi nhuận chính là cách 
thức để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro.
Giảm rủi ro không phải là ngân hàng sẽ không cho vay đối với những khách hàng lớn,  
vay tiền nhiều mà hoạt động kinh doanh của họ tuy mang lại lợi nhuận cao nhưng độ rủi 
ro lớn. Mà thay vào đó ngân hàng phải tự  đổi mới, tự  phát triển mình, thông qua việc 
hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ tín dụng, đào tạo ra đội ngũ cán bộ tín dụng có trình  
độ chuyên môn cao, năng động và nhanh nhạy với cơ chế thị trường. Hoàn thiện công tác  
thẩm định tín dụng, thẩm định dự  án trước trong và sau khi cho vay. Trước khi cho vay 
thì tiến hành thẩm định dự  án một cách cẩn thẩn, trong và sau khi cho vay phải thường  
xuyên tcử  cán bộ  tín dụng trực tiếp xuống cơ  sở  để  giám sát quá trình sản xuất kinh  
16



doanh của khách hàng, xem họ sử dụng tiền vay có đúng mục đích như  cam kết khi vay 
không…Làm tốt các công việc trên, ngân hàng sẽ khắc phục và hạn chế được rủi ro, nhờ 
đó mà tăng được lợi nhuận cho ngân hàng, cũng có nghĩa là giải quyết tốt được mâu  
thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro, (mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng 
ở méc phát triển hơn) đó la làm cho ngân hàng ngày một phát triển, điều này phù hợp với  
quy luật khách quan đó là; mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển.
Thực hiện sáp nhập bắt buộc các TCTD yếu kém, hoặc cho phá sản (sau khi xây 
dựng được hệ  thống bảo hiểm tiền gửi phát triển để  bảo vệ  quyền lợi của người gửi 
tiền, hệ thống phát luật, kiểm soát hoàn thiện hơn), buộc giảm, rút vốn cổ  phần tại các 
TCTD để khắc phục tình trạng chi phối, sở hữu chéo giữa các Ngân hàng.
Tuy nhiên như trên chúng ta đã nghiên cứu, khi giải quyết được mâu thuẫn rồi không 
có nghĩa là không còn tồn tại mâu thuẫn, mà ngược lại, mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn  
khác lại xuất hiện. Khi chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ tín dụng với trình độ cao, công  
tác thẩm định tốt nhưng rủi ro trên thương trường không phải là không xảy ra nữa mà trái 
laị  khi trình độ  sản xuất càng phát triển thì mức độ  rủi ro nếu gặp phải sẽ  rất lớn và 
thiệt hại cũng rất nặng nề, do vậy nó lại tiếp tục là động lực để  cho ngân hàng phát  
triển. Như thế mới là phù hợp với quy luật khách quan.

17



×