CÂU HỎI THỰC TIỄN
1. Vai trò của TTCK?
2. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp ở
VN? (ôn tập lý thuyết trang 1)
3. Tính minh bạch của thông tin trên TTCKVN?
4. Các chủ thể
5. Nhận xét về thị trường sơ cấp?
- Trái phiếu DN
- Cổ phiếu
- TP chính phủ
- TP (DN + CP)
6. Nhận xét về tính thanh khoản của chứng khoán trên thị
trường?
7. Bình luận về giao dịch chứng khoán? ( HASTC, HoSE,
UPCOM)
8. Bình luận về giao dịch TPCP ( Hà nội – thị trường chuyên
biệt..)
9. Các lệnh mua bán ở VN? Các hình thức khớp lệnh ở VN?
10. Bình luận “ OTC là thị trường dành cho DN vừa và nhỏ,
công nghệ cao và có tiềm năng phát triển”
11. Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của Sở giao dịch chứng
khoán.
12. Liên hệ Việt nam các vấn đề cơ bản của thị trường OTC
13. Các phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán. (ôn tập
lý thuyết trang 11)
14. P/b cổ phiếu thường và quỹ đầu tư
15. Các vấn đề cơ bản trong định giá trái phiếu (ôn tập lý thuyết
trang 12)
16. Ý nghĩa – nội dung – phương pháp xác định tỷ lệ lợi tức yêu
cầu
17. Ý nghĩa của việc xác định độ co giãn của trái phiếu.
18. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán.
19. Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán( liên hệ VN).
20. Thực trạng hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán
tại Việt Nam
C âu 1: Vai trò của TTCK
* Tích cực
1. TTCK với việc tạo ra công cụ có tính thanh khoản cao,
có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của
vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Nếu như trong 5 năm 2000-2004 giá trị giao dịch bình quân
của TTCK chỉ là 55 tỷ đồng/phiên thì 5 năm tiếp theo đạt 1300 tỷ
đồng/phiên, gấp gần 25 lần. Số lượng công ty niêm yết tăng từ 2 lên
550 công ty với mức vốn hóa trên 700 nghìn tỷ đồng, chiếm 40%
GDP.
Tổng giá trị vốn huy động trong 5 năm gần đây đạt gần 300
nghìn tỷ đồng, chiếm 20% GDP, riêng năm 2007, tổng giá trị huy
động vốn qua TTCK đạt 127 nghìn tỷ đồng. Số lượng các tổ chức
trung gian tăng từ 7 công ty chứng khoán và 1 công ty quản lý quỹ
lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ. Số lượng tài
khoản nhà đầu tư tăng mạnh, từ 3000 tài khoản năm 2000 lên gần
950 nghìn tài khoản. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường được mở rộng với danh mục đầu tư đạt gần 7 tỷ USD và trên
12.000 tài khoản, trong đó có trên 1300 tài khoản là của các tổ
chức... Thời gian tới, UBCKNN sẽ tăng năng lực, hiệu quả giám sát
thị trường để hoạt động trên TTCK công khai, minh bạch; đồng thời
mở rộng quy mô thị trường, sản phẩm mới, hướng tới mục tiêu đạt
mức vốn hóa 50-100% GDP.
2. TTCK thu hút mạnh mẽ sự đầu tư từ các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài
tăng mạnh, từ 2997 tài khoản vào năm 2000 (24 tài khoản NĐT NN)
đến 822869 vào tháng 3/2010 với gần 13000 tài khoản là của
NĐTNN. Giá trị giao dịch tăng mạnh theo sự phát triển của thị
trường. Tổng giá trị giao dịch năm 2000 chỉ đạt 92,36 tỉ đồng nhưng
tới năm 2009 đạt hàng trăm tỷ đồng. Với gần 13000 tài khoản đầu
tư, lượng vốn gián tiếp do các NĐTNN cung cấp cho nền kinh tế VN
là không nhỏ và sẽ ngày càng tăng khi thị trường phát triển, lượng
hàng hóa dồi dào với chất lượng cao.
3. TTCK là kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp
và của chính phủ. Với hơn 1000 loại chứng khoán được giao dịch,
giá trị niêm yết trên hàng trăm tỷ đồng, TTCKVN đã thu hút được
1
lượng vốn rất lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp cũng
như của ngân sách đầu tư. TTCKVN đã giúp doanh nghiệp và chính
phủ huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu doanh
nghiệp, đấu thầu trái phiếu chính phủ,.. TTCK đã góp phần làm cho
thị trường tài chính phong phú, sôi động hơn, giúp các doanh nghiệp
có nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn doanh nghiệp.
4. TTCK giúp minh bạch hóa hoạt động của nền kinh tế
thông qua việc các công ty cổ phần phải công khai tình hình hoạt
động, đồng thời công bố các báo cáo tài chính hàng năm cho các
cổ đông. Điều này đòi hỏi việc quản trị và điều hành của các công ty
phải chuyên nghiệp và hiệu quả hơn. Việc minh bạch thông tin sẽ tác
động tích cực tới các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, giúp
các DNVN phải thay đổi, phát triển theo hướng dần dần đáp ứng các
yêu cầu và tổ chức trong quá trình hội nhập.
5. Sự phát triển của TTCK giúp cho hoạt động cổ phần hóa
của các DNNN được công khai và minh bạch. Hiện nay, việc bán
đấu giá cổ phần các DNNN được tổ chức công khai với nhiêu đối
tượng là nhà đầu tư tham gia, tránh trường hợp đấu giá khép kín nội
bộ gây thất thoát tài sản nhà nước. Theo đó, việc định giá DNNN để
cổ phần hóa cũng chính xác và thực tế hơn. TTCK VN thúc đẩy quá
trình cổ phần hóa DNNN diễn ra nhanh hơn, tăng lượng cung hàng
hóa chất lượng cao cho thị trường.
* Tiêu cực
Ngoài những tác động tích cực trên đây, TTCKVN vẫn còn
nhiều hạn chế, tác động tiêu cực nhất định tới nền kinh tế:
- Tăng trưởng thị trường trong thời gian qua vẫn còn chứa
đựng những yếu tố chưa bền vững. Tâm lí mua bán theo phong trào
góp phần làm cho thị trường lên xuống thất thường. Tỷ trọng tham
gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, Quỹ
đầu tư, công ty bảo hiểm) chỉ xấp xỉ 20%thị phần, chủ yếu vẫn là
những nhà đầu tư cá nhân.
- Các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn hạn chế về
năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ. Mạng lưới
công ty chứng khoán có quy mô lớn mặc dù đã tăng lên nhưng lại
chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, hạn chế cung cấp dịch vụ cho nhà
đầu tư rộng khắp toàn quốc. Hệ thống công nghệ thông tin, đội ngũ
nhân viên hành nghề hạn chế về cả số lượng và chất lượng, kiểm
soát nội bộ, quản trị công ty còn yếu.
- Hoạt động TTCK tự do còn ở phạm vi khá rộng, thiếu tính
công khai, minh bạch, thiếu sự quản lí và giám sát, khả năng xảy ra
rủi ro cao như: mất khả năng thanh toán, lừa đảo.. gây bất ổn cho thị
trường chính thức và hệ thống tài chính.
- Công tác quản lí, giám sát và tuân thủ pháp luật trên TTCK
còn nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp đồng bộ trong điều hành và
quản lí, giám sát hoạt động TTCK và chính sách tiền tệ. Thiếu cơ
chế phối hợp trong điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá, thiếu chuẩn
mực trong công bố thông tin theo thông lệ quốc tế về quản trị doanh
nghiệp.
- Năng lực trình độ của cán bộ quản lí, cán bộ hoạch định
chính sách, các nhân viên hành nghề còn ở trình độ thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển của thị trường trong tương lai.
Những hạn chế này đã tiếp tay cho các hành vi thao túng thị
trường, đầu cơ, làm giá chứng khoán… khiến cho giá cả chứng
khoán dễ bị “thổi phồng” hoặc “ dìm nén”, không phản ánh đúng
giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân
bố hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.
Câu 3: Tính minh bạch của thông tin trên
TTCKVN
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên
tắc công khai nhằm tạo sự công bằng cho các chủ thể tham gia
TTCK, ngăn chặn các gian lận trong giao dịch và đây cũng là một
trong những đk cần thiết để phát triển ttck. Theo đó, thông tin trên
ttck cần minh bạch, đầy đủ, chính xác. Điều này được thể hiện trong
các quy định về đăng kí và báo cáo định kì.
Hiện nay ở VN, tính minh bạch của ttck thể hiện ở một số nội
dung như Quy định của pháp luật về công bố thông tin; Chế độ kế
toán, kiểm toán trên thị trường chứng khoán; Quản trị công ty và
trách nhiệm công bố thông tin của các doanh nghiệp… Những nội
dung này có liên quan trực tiếp đến nhau. Ngày 15/1/2010, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về công
bố thông tin trên thị trường chứng khoán, thay thế Thông tư
38/2007/TT-BTC. Một số quy định mới trong thông tư này là :
2
Đối tượng công bố thông tin được bổ sung “tổ chức đăng ký
giao dịch,” bao gồm công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện
chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức niêm yết, đăng ký giao
dịch, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư
chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán và người có liên quan. Các
đối tượng công bố thông tin nêu trên (trừ cá nhân) phải lập trang
thông tin điện tử với đầy đủ các chuyên mục về quan hệ cổ đông,
trong đó phải có điều lệ công ty, quy chế quản trị nội bộ, báo cáo
thường niên, báo cáo tài chính định kỳ phải công bố theo quy định và
các vấn đề liên quan đến kỳ họp Đại hội đồng cổ đông. Các đối
tượng khi thực hiện công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Ủy ban
chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán.
Đối với việc công bố báo cáo tài chính, tổ chức niêm yết phải
công bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán, báo cáo tài chính
bán niên (6 tháng đầu năm) đã được soát xét bởi tổ chức kiểm toán
và báo cáo tài chính quý. Trong trường hợp lợi nhuận sau thuế của
kỳ báo cáo biến động từ 10% trở lên so với cùng kỳ năm trước,
doanh nghiệp niêm yết phải giải trình thay vì doanh nghiệp phải giải
trình khi kết quả kinh doanh giữa 2 kỳ báo cáo biến động từ 5% trở
lên như Thông tư 38.
Các tổ chức niêm yết phải báo cáo giải trình khi cổ phiếu
tăng trần hoặc giảm sàn 10 phiên liên tiếp hoặc là tăng trần hoặc
giảm sàn 5 phiên liên tiếp mà không theo xu thế chung của thị
trường, thay vì các tổ chức niêm yết phải giải trình khi cố phiếu tăng
trần hoặc giảm sàn 5 phiên liên tiếp như trước đây.
Đối với công ty chứng khoán, quy định hàng quý, các công
ty chứng khoán phải công bố thông tin về danh mục và giá các loại
chứng khoán chưa niêm yết mà công ty làm môi giới giao dịch trong
vòng 10 ngày đầu tháng tiếp theo trên trang thông tin điện tử và các
ấn phẩm của công ty.
Quy định công ty đại chúng phải công bố thông tin về việc
chào bán chứng khoán và tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư có thể
giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn huy động.
Quy định là như vậy, nhưng thực tế thì ttck vn vẫn hoạt động
với rất nhiều bất cập. Những tin đồn thiếu cơ sở, những thông tin
nội gián và sự rò rỉ có ý đồ đã trở thành điều nhức nhối của thị
trường. Quan sát nhiều phiên giao dịch, người ta không hiểu sao
một số loại cổ phiếu tự nhiên được mua nhiều, tăng bất thường qua
các phiên. Rồi chỉ một thời gian ngắn sau, chính các cổ phiếu đó
được công bố thông tin tốt, doanh thu lợi nhuận tăng trưởng ngoài
dự kiến… giá các cổ phiếu đó tăng vùn vụt. Và như vậy, người ta
cũng phải đặt ra một câu hỏi là minh bạch thông tin đến mức nào và
những gì cần công khai, những gì không được công khai.
Công ty chứng khoán là một ví dụ điển hình. Hoạt động tự
doanh và môi giới ở công ty ck xung đột lợi ích với nhau khi bộ phận
môi giới nắm giữ thông tin giao dịch của khách hàng, chiến lược
đầu tư của các tổ chức lớn, có thể sinh lợi cho bộ phận tự doanh
(mua bán trái chiều với khách hàng). Hiếm có công ty quản lý quỹ
nào như VinaCapital có CTCK riêng (VinaSecurities) để bảo mật
thông tin cho việc giao dịch của các quỹ trực thuộc. Không chỉ riêng
môi giới, giữa bộ phận tự doanh và tư vấn cũng cần đảm bảo tính
độc lập, không được phép chia sẻ thông tin lẫn nhau nhằm đảm bảo
công bằng, chất lượng cho hoạt động tư vấn. Đồng thời, CTCK phải
công khai chi tiết việc mua cổ phần công ty đang tư vấn như: giá,
khối lượng, thời gian hạn chế chuyển nhượng để không gây thiệt hại
cho nhà đầu tư nhỏ lẻ.
Những thông tin có liên quan tới doanh nghiệp niêm yết
(DNNY) như tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư,
hoạt đông mua/bán của cổ đông lớn, có tác động rất mạnh đến tâm
lý nhà đầu tư và đặc biệt là giá cổ phiếu. Xét trường hợp của FDC
(Công ty cổ phần Ngoại thương và Phát triển Đầu tư TPHCM), tin
tức lợi nhuận đột biến trong quý II/2010 gấp đôi cùng kỳ năm ngoái
khiến cho giá cổ phiếu FDC tăng giá 66%. Do vậy, cơ chế minh
bạch thông tin từ phía DNNY sẽ làm cho thị trường lành mạnh hóa
và giảm thiểu giao dịch nội gián.
Rất nhiều DNNY cố tình trì hoãn việc nộp báo cáo tài
chính (cho dù kết quả kinh doanh tốt hay xấu) hay chậm công bố
các thông tin quan trọng (dự án, yếu tố đột biến) để có đủ thời
gian cho cổ đông nội bộ “chạy nước rút” trước khi thông tin được
công bố. Sự chậm trễ có chủ đích đã phát sinh nhiều tiêu cực nhằm
kiếm lời cho những cá nhân có liên quan. Giữa tháng 6 năm nay, 4
công ty có cổ phiếu niêm yết trên sàn HNX (HLC, AMV, HNM, VSP)
đã bị UBCKNN “tuýt còi” xử phạt hành chính vì chậm nộp BCTC
3
quý IV/2009. Nếu không có những chế tài xử phạt nghiêm khắc, nhà
đầu tư nhỏ lẻ sẽ vẫn còn nhiều bức xúc vì sự thiếu minh bạch của
các DNNY trong việc chậm trễ công bố thông tin.
Đa phần nhà đầu tư nghĩ rằng nên mua vào khi có tin tốt và
bán ra khi có tin xấu. Tuy nhiên, rất khó cho nhà đầu tư để có thể
kiểm chứng được chất lượng thông tin. Hiện tượng phổ biến xảy ra
gần đây là việc công bố thông tin mua vào hàng triệu cổ phiếu
quỹ hay việc thoái vốn hàng loạt ở các công ty con/liên kết của
DNNY hoặc nhà đầu tư tổ chức, nhưng ngay sau đó thông báo
hủy bỏ quyết định giao dịch trên. Điển hình như Tổng công ty Xây
lắp dầu khí (PVX) công bố bán 1,2 triệu cổ phần PHH (Công ty cổ
phần Hồng Hà Dầu khí), sau đó hủy việc bán với lý do thị trường
không tốt. Giá chứng khoán biến đổi rất nhanh khi hấp thụ thông tin
“nóng” kể trên và ngay sau khi các DNNY công bố “không thực
hiện việc mua/bán do thời điểm thị trường không thuận lợi”, giá thị
trường thường sẽ đảo chiều. Thiếu cơ chế giám sát đảm bảo việc
thực hiện giao dịch được công bố, tổn thất phần nhiều sẽ thuộc về
nhà đầu tư nhỏ lẻ do “trò chơi” thông tin (rao tin mua thực chất là
bán và ngược lại). Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng phải đặt ra
quy tắc nghiêm ngặt: đảm bảo việc thực hiện giao dịch tối thiểu (từ
10 - 15%) khối lượng đã đăng ký mua/bán, để gắn trách nhiệm công
bố thông tin đi đôi với việc thực thi.
Các thủ đoạn trục lợi bất chính và xâm hại quyền lợi của các
cổ đông nhỏ cũng đang ngày càng nở rộ trên TTCK và đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải khẩn trương chấn chỉnh tình trạng này. Các thông
tin không minh bạch có hậu quả khôn lường. Hậu quả xấu không
những chỉ ảnh hưởng đến các NĐT (cả cá nhân và tổ chức) mà còn
có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp niêm yết nói riêng và TTCK nói
chung.
Thời gian qua, UBCKNN đã tăng cường việc giám sát, thanh
tra và xử phạt trên TTCK, nhiều lần xử lý các vi phạm "làm giá" của
các công ty chứng khoán. Mới đây, ngày 15-1, Bộ Tài chính ban
hành Thông tư 09 hướng dẫn về công bố thông tin trên TTCK đã
được giới đầu tư hoan nghênh và kỳ vọng về một thị trường minh
bạch. Tuy nhiên, mức phạt còn quá nhẹ: phạt hành chính cao nhất
cho mọi vi phạm vẫn dưới 70 triệu đồng nên chưa đủ tính răn đe, do
đó cần thiết phải có hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực chứng khoán nặng hơn, mức độ răn đe nghiêm khắc hơn.
Các chuyên gia cũng cho rằng, việc cần làm của cơ quan
quản lý, giám sát thị trường là phải hệ thống hóa được dấu hiệu của
các tình huống giao dịch bất lợi cho thị trường để tiến hành kiểm tra
ngay khi thấy có dấu hiệu vi phạm; đồng thời cơ quan quản lý nhà
nước liên quan cần tăng cường công tác cung cấp thông tin, định
hướng nhận thức để giúp người dân hiểu đúng bản chất và các diễn
biến của nền kinh tế nhằm giúp họ có những quyết định đúng đắn.
NĐT cũng nên thận trọng với tất cả các thông tin, nhất là những
thông tin phát ra từ kênh không chính thức.
Câu 5 : Nhận xét thị trường sơ cấp
I. Khái niệm, chức năng:
1. Khái niệm thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là nơi tập trung diễn ra quá trình mua bán
lần đầu đối với các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp
còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
2. Chức năng của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của
thị trường chứng khoán, đó là huy động nguồn vốn cho đầu tư. Thị
trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn
nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ
nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp,
các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ
tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm
được.
Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh
nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần giúp Nhà
nước giải quyết các vấn đề về tình trạng thiếu hụt ngân sách thông
qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ
tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng
cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình một cách
tốt hơn.
II. Các phương pháp phát hành chứng khoán:
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ
cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
4
1. Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được
bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các
nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện (khối lượng phát hành)
hạn chế.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự
điều chỉnh của Luật công ty. Chứng khoán phát hành theo phương
thức này không phảI là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng
khoán.
2. Phát hành ra công chúng
Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán
được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn từ những
người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất
định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được
một mức độ nhất định.
Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được
gọi là các công ty đại chúng.
Có sự khác nhau giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái
phiếu ra công chúng:
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một
trong hai hình thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành
trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho
công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ
phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng
một hình thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi
phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý
nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép.
Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải
thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin một cách công khai
và chịu sự giám sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán.
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết
tại Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo các qui định tại
Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của luật CK và nghị định 84/2010/NĐ-CP sửa
đổi bổ sung NĐ 14.
III. Thực trạng thị trường sơ cấp ở Việt Nam:
1.Trái phiếu doanh nghiệp
Năm 2009 không khí mua bán TPDN rất sôi động, nhộn
nhịp. Đặc biệt TPDN được phát hành trong năm 2009 đã đa dạng và
phong phú về chủ thể.Các DN thuộc tập đoàn kinh tế tư nhân, công
ty cổ phần, Công ty TNHH như Vincom, FPT, Hoàng Anh Gia Lai…
đã lần lượt phát hành trái phiếu DN thành công. Có thể coi năm 2009
là năm bùng nổ của thị trường TPDN. Rất nhiều đợt phát hành
TPDN vừa thông báo bán lập tức các nhà đầu tư mua hết sau đó
không lâu. Tiêu biểu là đợt phát hành 1000 tỷ đồng của Vinpearl:
3000 tỷ đồng của Vinashin, 3500 tỷ đồng của EVN… Tổng giá trị
trái phiếu huy động được lên đến gần 20 000 tỷ đồng.Đặc biệt là
trường hợp của công ty CP Vincom _ DNVN đầu tiên đã phát hành
thành công trái phiếu chuyển đổi quốc tế vào tháng 11/2009 và niêm
yết trái phiếu trên sàn giao dịch trái phiếu Singapore. TP được phát
hành với tổng giá trị huy động là 100 triệu USD, có kỳ hạn 5 năm và
lãi suất huy động hàng năm 16%/năm, thanh toán 6 tháng 1 lần vào
cuối kỳ.
Năm 2010, khi kinh tế bắt đầu hồi phục, để tài trợ cho các dự
án và tăng quy mô vốn hoạt động trong bối cảnh hệ thống NH không
có đủ vốn trung - dài hạn để đáp ứng, nhiều DN có phương án phát
hành TP và đã thành công. Tập đoàn Sông Đà là DN phát hành
TPDN bằng tiền VND đầu tiên trên thị trường vốn nợ VN trong năm
2010, với tổng giá trị 1.500 tỉ đồng (tương đương 79 triệu USD);
Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát hành 2.000 tỉ đồng trái phiếu;
TCty cổ phần XNK và Xây dựng VN (VCG) phát hành 2.000 tỉ
đồng;...
Có lẽ nguyên nhân chính, đầu tiên dẫn đến thành công của
việc phát hành TPDN là LS cao. Trong khi mặt bằng LS huy động
của NH đang giảm từ khoảng 12,5% xuống 11,5%/năm thì LS
TPđược chào ở mức rất cao. LS TP trong năm đầu tối thiểu từ
14%-15%/năm và thả nổi từ năm thứ hai, nhưng bao giờ cũng bằng
LS tiết kiệm 12 tháng của NHTM cộng với biên độ từ
4%-5,5%/năm.
5
Một nguyên nhân nữa khiến phát hành thành công TPDN
trong 6 tháng đầu năm là bối cảnh của thị trường tài chính với những
diễn biến như: TTCK lình sình, bất ổn; LS ngân hàng và LS TPchính
phủ giảm; thị trường bất động sản ở nhiều vùng khởi sắc, nên việc
phát hành TPđể thực hiện các dự án trở nên khá dễ dàng
Tiếp theo là Dn đã có những chiêu hút khách tốt như sử dụng
trái phiếu chuyển đổi hoặc kèm ưu đãi mua thêm cổ phiếu. Ví dụ
như, Hoàng Anh Gia Lai đã huy động thành công 1450 tỷ đồng trái
phiếu có kỳ hạn một năm, lãi suất 0%. Trái phiếu của Hoàng Anh
Gia Lai thu hút nhà đầu tư bởi có thêm quyền mua cổ phiếu.
Tuy nhiên, thị trường TPDN còn những mặt hạn chế như:
- Quy mô thị trường TPDN còn quá nhỏ và chưa tương xứng
với tiềm năng; khối lượng vốn huy động còn hạn chế, chưa đáp ứng
được nhu cầu vốn đầu tư phát triển và mở rộng quy mô sán xuất của
các DN.
- TPDN chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư do mức độ tin
cậy của nhà đầu tư đối với các DN chưa cao và không đồng nhất
giữa các DN. Thêm vào đó một số DN chưa đủ khả năng hoàn thiện
báo cáo tài chính nên chưa sẵn sàng cho việc phát hành TP ra thị
trường, nhất là các DN có quy mô nhỏ và vừa. Đây chính là nguyên
nhân làm hạn chế nguồn cung TP trên thị trường khiến cho nhà đầu
tư có ít sự lựa chọn.
- Hình thức TPDN chưa phong phú, cấu trúc sản phẩm
TPDN còn nghèo nàn về kỳ hạn và các loại lãi suất.
- Tính thanh khoản của thị trường TPDN Việt Nam rất thấp
và mức tín nhiệm của các DN Việt Nam chưa cao.
Như vậy có thể thấy rằng, TP nói chung và TPDN nói riêng
chưa thật sự đảm bảo được tính thanh khoản vốn có của nó. Khi thị
trường thứ cấp hoạt động còn kém hiệu quả, dân chúng và các tổ
chức kinh tế còn xa lạ với loại hình đầu tư chứng khoán, thì việc
phát hành TP của các DN sẽ còn gặp khó khăn và nguồn vốn huy
động cũng sẽ bị hạn chế.
2. Trái phiếu chính phủ.
Hiện nay phát hành TPCP thông qua 2 phương thức: phương
thức đấu thầu qua TTCK và bảo lãnh phát hành. TPCP được Kho
bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng băn
với khối lượng chủ yếu thông qua thông qua các kênh bảo lãnh phát
hành và đấu thầu qua TTCK. TPCP niêm yết tại các TTGDCK chiếm
khoảng 82% thị trường trái phiếu Việt Nam.
Năm 2009 lần đầu tiên, Chính phủ thực hiện việc phát hành
TPCP ngoại tệ qua TTCK Việt Nam và hệ thống giao dịch trái phiếu
chính phủ chuyên biệt chính thức hoạt động tại Sở GDCK Hà Nội.
Tính đến ngày 30/11/2009, Sở GDCK Hà Nội (HNX) đã tổ
chức 58 phiên đấu thầu, trong đó, đấu thầu trái phiếu bằng VND tổ
chức 52 phiên, huy động được 2.578,5 tỷ đồng/khối lượng gọi thầu
62.700 tỷ đồng, tỷ lệ thành công 4,11%; đấu thầu trái phiếu chính
phủ phát hành bằng ngoại tệ (USD) 6 phiên, huy động được 387,11
triệu USD, tương đương 6.774 tỷ đồng (ước tỷ giá 17.500
đồng)/khối lượng gọi thầu 550 triệu USD, tương đương 9.625 tỷ
đồng, tỷ lệ thành công là 70,38%. Tổng nguồn vốn huy động được từ
đấu thầu trái phiếu bằng USD và VND là 9.352 tỷ đồng/khối lượng
gọi thầu 72.325 tỷ đồng.
Nhận xét thị trường trái phiếu chính phủ 2009.
Trong năm 2009 biết khối lượng trái phiếu chính phủ phát
hành thành công là 15.000 tỉ đồng, tính cả giá trị quy đổi của đợt
phát hành bằng ngoại tệ.Tuy nhiên, năm 2009 có khoảng 15.000 tỉ
đồng trái phiếu chính phủ đến hạn, như vậy về cơ bản Chính phủ
không huy động thêm được vốn trong năm qua.
Một điều dễ nhận thấy là năm qua việc phát hành các loại trái
phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh trên thị trường sơ cấp
khá ảm đạm. Tính chung trong năm 2009 có khoảng 70 đợt phát
hành bao gồm trái phiếu Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát triển,
Ngân hàng Chính sách xã hội và trái phiếu TPHCM, tuy nhiên chỉ có
khoảng 5.000 tỉ đồng trái phiếu huy động được trên tổng số 71.400 tỉ
đồng đưa ra gọi thầu.
Loại trái phiếu phát hành thành công nhất trong năm qua là
trái phiếu Kho bạc nhưng tỷ lệ bán được cũng chỉ ở mức 15%, còn
đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế hoạch. Đặc
biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được
sự quan tâm của nhà đầu tư, còn trái phiếu của Ngân hàng Phát triển
cũng chỉ bán được 2% so với tổng khối lượng chào bán.
Nguyên nhân của tình trạng này
- Do sự chênh lệch quá lớn về lãi suất giữa hai thị trường sơ
cấp và thứ cấp, trung bình từ 100-200 điểm.
6
- Do Chính phủ không phải chịu áp lực lớn trong việc huy
động vốn vì một phần trái phiếu phát hành thành công trong các năm
trước được chuyển sang giải ngân trong năm nay (khoảng 8.000 tỉ
đồng), đồng thời bản thân các dự án sử dụng vốn trái phiếu cũng có
tiến độ giải ngân chậm.
- Về mặt kỹ thuật, việc có quá nhiều mã trái phiếu, số lượng
manh mún, thiếu chuẩn mực về kỳ hạn,… cũng là nguyên nhân
khiến mức độ hấp dẫn của thị trường trái phiếu Việt Nam kém hơn
các nước trong khu vực.Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam nhìn
chung còn khá nhỏ, dưới 15% GDP. Tỷ trọng giá trị thị trường trái
phiếu chính phủ còn lớn (gấp hơn 15 lần) so với thị trường trái phiếu
doanh nghiệp Năm 2010
Tính từ đầu năm 2010, trong tổng khối lượng 15.400 tỷ đồng
trái phiếu chính phủ chào bán, qua đấu thầu 16 lô trái phiếu, thì chỉ
có 2.760 tỷ đồng được mua, một tỷ lệ không phải là cao. Tuy nhiên,
điều đáng nói ở đây là có 3 lô trái phiếu phát hành giữa tháng 4 vừa
qua đã được mua hết. Riêng 3 lô này đã mang lại 2.000 tỷ đồng.
Ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ
USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế
với lợi tức 6,95%. Số tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái
phiếu quốc tế này được tập trung vào các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn
ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp Bộ
Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu
khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và
Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc hóa
dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy
thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển). Trước đó, vào tháng
10/2005, Việt Nam cũng đã hoàn thành đợt chào bán trái phiếu quốc
tế đầu tiên với giá trị phát hành là 750 triệu USD, thời hạn 10 năm và
lợi suất 7,125% sau đó cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt
Nam vay lại.
Theo kế hoạch của Chính phủ, năm nay vốn trái phiếu chính
phủ giao cho các bộ, ngành, địa phương là 56.000 tỉ đồng, trong đó
cho năm bộ Quốc phòng, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Y tế, Công an là 20.200 tỉ đồng. Phần còn lại bố trí
cho các địa phương. Căn cứ vào số trên, Bộ Tài chính phải phát hành
ít nhất 56.000 tỉ đồng trái phiếu cho ngân sách, chưa kể số lượng
phải phát hành thêm để trả các khoản tạm ứng của Kho bạc và một
số tập đoàn, tổng công ty trong năm ngoái vì năm 2009 lượng trái
phiếu phát hành không đạt chỉ tiêu đề ra. Từ đầu năm đến nay, tổng
số trái phiếu phát hành mới được 3.297 tỉ đồng, tương ứng 5,8% vốn
giao cho các bộ, địa phương, một tỷ lệ quá thấp so với kế hoạch.
3. Cổ phiếu
Năm 2009
Trái ngược với sự sôi động của TTCK, hoạt đồng chào bán
CP lần đầu ra công chúng (IPO) lại rơi vào cảnh “chợ chiều”.
Theo SGDCKHCM và SGDCKHN trong năm 2009 hai đơn
vị đã tiến hành IPO cho khoảng 30 DN song lượng cổ phần bán được
cho NĐT không bao nhiêu.
Với sự thờ ở của NĐT, nhiều DN gặp khó khăn trong việc
IPO mặc dù lượng cổ phần chào bán ko quá lớn. Điển hình là cty cổ
phần Bến bãi Sài Gòn chỉ bán được 22000 cổ phần trong tổng số hơn
600000 cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày 16/10, tại
SGDCKHCM. Các DN tiến hành IPO với số lượng lớn cũng ko khá
hơn. Chẳng hạn cty Dây và cáp điện Việt Nam bán được hơn 50000
cổ phần so với lượng chào bán 2,4 tr, cty Nông sản thực phẩm xuất
khẩu Cần Thơ bán được 39000 cổ phần trong 10,3 tr cổ phần chào
bán.
Nguyên nhân của sự ảm đạm này là do cơ chế IPO và bán
cho NĐT chiến lược còn nhiều bất hợp lý nên ko thu hút sự quan
tâm của NĐT tổ chức nước ngoài, thiếu hàng “khủng” của các DN
“đại gia”, đặc biệt là có phần bị vạ lây bơi sự ảm đạm của thị trường
OTC.
Năm 2010
Báo cáo của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong
quý 3 cho thấy chỉ có 6 đợt IPO mới và 2 đợt bán nốt số cổ phần ế từ
đợt đấu giá tháng 6. Trong 6 đợt đấu giá mới, chỉ có 3 doanh nghiệp
bán hết được ngay trong lần đầu tiên là Công ty Tài chính Cổ phần
HANDICO, Công ty Cổ phần TASCO và Công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Số doanh nghiệp còn lại đều có tỉ lệ cổ phần ế rất cao. Chẳng
hạn Công ty Môi trường và Dịch vụ Đô thị Vĩnh Yên chào bán gần
1,34 triệu cổ phần thì chỉ có 118.700 cổ phần được đăng ký mua và
7
bán được, chiếm 8,9% khối lượng. Công ty Cấp thoát nước và Môi
trường số 2 Vĩnh Phúc chỉ bán được hơn 6% lượng chào.
Mới nhất là cuộc đấu giá hơn 7,32 triệu cổ phần của Công ty
Cổ phần Kinh doanh khí hóa lỏng miền Bắc ngày 2/11/2010. Chỉ có
đúng 5 nhà đầu tư cá nhân đăng ký mua 45.000 cổ phần, chiếm tỉ lệ
0,6% khối lượng. Giá khởi điểm của đợt đấu này là 14.000 đồng/cổ
phần nhưng không hiểu sao với lượng đặt mua thấp như vậy, vẫn có
giá chào lên 14.500 đồng/cổ phần. Đợt đấu giá hơn 3,2 triệu cổ phần
của Công ty Cảng Mỹ Thới An Giang trong Sở Giao dịch chứng
khoán TP.HCM (HOSE) cũng ế khoảng 18% khối lượng.
Câu 6: Nhận xét về tính thanh khoản của chứng
khoán trên thị trường?
* Năm 2009 là một năm tăng trưởng bất ngờ và ấn tượng của thị
trường chứng khoán Việt Nam..
Nếu tính từ ngày 1/1/2009 đến 31/12/2009 thì VN-Index đã
tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm lên 494,77 điểm tương đương
với mức tăng là 58%. Tương tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong
năm 2009 của HNX-Index là 61%. Điều đặc biệt của thị trường
chứng khoán VN năm nay là là giai đoạn thị trường hồi phục từ đáy
234,66 điểm chủ yếu được dẫn dắt nhờ khối nhà đầu tư cá nhân. Sau
đó nhà đầu tư tổ chức mới bắt đầu tham gia thị trường. Thị trường
trong năm 2009 hình thành hai đợt sóng tăng lớn là từ đầu tháng 3
đến đầu tháng 6, đầu tháng 8 đến cuối tháng 10. Sóng giảm là từ đầu
năm đến cuối tháng 2, trong tháng 7 và từ cuối tháng 10 đến giữa
tháng 12.
So với các kênh đầu tư khác như vàng, USD, bất động sản,
tiết kiệm có thể nói kênh đầu tư chứng khoán rất hấp dẫn và có thế
nói đem lại lợi nhuận lớn nhất ở VN trong năm 2009.
Các nguyên nhân giúp thị trường tăng điểm mạnh trong năm
2009 là:Nền kinh tế VN nói riêng và của thế giới nói chung đã thoát
khỏi suy thoái và xác lập đáy trong quý II/2009.Chính phủ Vn thực
hiện nới lỏng tiền tệ nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế nên
lượng tiền được bơm vào nền kinh tế khá nhiều. Dư nợ tín dụng của
hệ thống ngân hàng tăng trưởng mạnh, đặc biệt là tháng 5 và 6, có
thể một phần số tiền từ gói hỗ trợ kích cầu của chính phủ đã chảy
vào thị trường chứng khoán.Bên cạnh đó, một số chứng khoán tăng
cường hỗ trợ công cụ đòn bẩy tài chính cho khách hàng, thậm chí có
công ty còn cho sử dụng đòn bẩy với tỷ lệ 1:3 hay 1:5. Bên cạnh đó
sự hồi phục chứng khoán Mỹ nhất là mỗi lần chỉ số Dow Jones vượt
các mốc quan trọng 8000, 9000, 10000 điểm đã có tác động lớn đến
tâm lý nhà đầu tư trong nước.
* Năm 2010
Trong tháng 1/2010 các chỉ số của TTCK đi ngang, khối
lượng giao dịch giảm mạnh. Kết thúc tháng 1, VN-Index kết thúc ở
mức 481,96 điểm, giảm 12,8 điểm( giảm 2,6%) so với cuối tháng
trước. Đây là tháng giảm thứ ba liên tiếp của VN-index kể từ khi chỉ
số này lập đỉnh 633, 21 điểm ngày 23/10/2009. Tương tự trên sàn Hà
Nội, chỉ số HNX-Index kết thúc ở mức 160,35 điểm, giảm 4,7% so
với tháng trước đó.Và một điều đáng chú ý là trong tháng có những
ngày khối lượng giao dịch khớp lệnh giảm dưới mức 20 triệu đơn vị/
phiên, là mức thấp nhất trong vòng 8 tháng qua.
Xu hướng này vẫn còn tiếp tục kéo dài cho đến hết nửa đầu
năm 2010 khi mà TTCK tăng trưởng không mạnh. Chỉ số Index dao
động trong biên độ hẹp do chịu sự chi phối của những biện pháp ổn
định kinh tế thông qua chính sách tiền tệ. Mặc dù nguồn hàng mới
vào thị trường lớn nhưng thanh khoản tăng thêm không đáng kể kéo
theo kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán không có
nhiều đột biến so với năm 2009. Bên cạnh đó, áp lực tăng vốn điều
lệ của các công ty chứng khoán cũng đè nặng lên sức hấp dẫn của
ngành khi NĐT đang dần dần bội thực với việc chia tách cổ phiếu.
Trong khi dòng tiền vẫn chưa chảy vào thị trường một cách mạnh mẽ
thì việc công ty chứng khoán tăng thêm vốn khiến cho nhà đầu tư
băn khoăn và giảm sức hút của cố phiếu. Đây cũng là những nguyên
nhân khiến cho các cổ phiếu nhỏ, vốn hóa thị trường thấp tăng mạnh
trong tháng 4.
Và đáng buồn hơn cả là diễn biến đi ngang của thị trường
chứng khoán vẫn tiếp tục tái diễn trong tháng 7-tháng đầu tiên của
quý 3. Tuy đã qua 7 tháng đầu tiên của năm 2010 nhưng chỉ số VN-
Index chỉ dao động trong khoảng 480-550 điểm, diễn biến giao dịch
luôn ảm đạm với tính thanh khoản thấp do tâm lý khá thận trọng của
NĐT. Trên hai sàn, chỉ có những điểm sáng le lói ở những cổ phiếu
thị giá nhỏ và vừa. Cũng trong tháng 7, phương thức khớp lệnh liên
tục được bắt đầu áp dụng trên sàn UpCom vào ngày 19/7. Hầu hết
8
các mã cổ phiếu trên UpCom đều tăng, thậm chí có mã tăng kịch trần
là 10% trong vài phiên liên tiếp. Tuy nhiên đây chỉ là sự tăng điểm
không bền vững.
VN-Index tháng 8/2010: Khép lại một tháng giao dịch không
thành công, VN-Index đóng cửa phiên giao dịch ngày 31/8/2010 tại
mức 455,08 điểm. Như vậy, so với mức đóng cửa của tháng 7/2010,
VN-Index tháng 8/2010 đã để mất thêm 48,83 điểm. Rất nhiều phiên,
thị trường rơi vào tình trạng giao dịch trong hoảng loạn và chỉ số
VN-Index lao dốc không phanh khi nhà đầu tư đẩy mạnh cắt lỗ bằng
mọi giá, khiến cổ phiếu giảm sàn hàng loạt. Tổng cộng cả tháng, thị
trường chỉ có 8 phiên tăng điểm, trong khi có tới 22 phiên giảm
điểm. Đặc biệt, phiên giao dịch ngày 25/8, VN-Index đã lùi xuống
mức điểm thấp nhất trong vòng một năm trở lại đây là 423,89 điểm.
Thanh khoản hạn chế. Tính trung bình, tháng 8/2010, giá trị giao
dịch tại sàn HOSE chỉ đạt 970 tỷ/phiên, tương đương 36,72 triệu cổ
phiếu được chuyển nhượng thành công/phiên (giảm 15% về giá trị
và 7,3% về khối lượng so với tháng 7/2010).
Trong tháng 9, trước những triển vọng hồi phục của nền kinh
tế toàn cầu, thị trường chứng khoán thế giới biến động khởi sắc với
nhiều phiên giao dịch tăng điểm, ghi dấu một tháng giao dịch tốt
nhất trong 71 năm và có quý tăng điểm mạnh nhất trong một năm
qua của chứng khoán phố Wall. Trong khi đó, tại thị trường chứng
khoán VN, quan sát các phiên giao dịch có thể thấy sự trầm lắng của
thị trường biểu hiện rõ ràng nhất là sự sụt giảm trong tính thanh
khoản và tâm lý thờ ơ của nhà đầu tư. Theo số liệu thống kê của
Hose, tháng 9 giá trị giao dịch bình quân chỉ đạt 1200 tỷ đồng. Sự lo
lắng của nhà đầu tư còn bắt nguồn từ việc TTCK vẫn chưa thể hiện
rõ xu hướng mà vẫn loanh quanh ở mức 450 điểm của VN Index như
hiện nay. Nhiều nhà đầu tư vẫn giữ tỷ lệ tiền mặt và chứng khoán ở
mức thích hợp chứ không tích cực giao dịch. Điều này giải thích tại
sao thanh khoản của thị trường trên hai sàn HNX và HOSE chỉ loanh
quanh ở mức trung bình 2000 tỷ đồng/phiên. Trong khi đó hai kênh
đầu tư cạnh tranh lớn với chứng khoán là vàng và ngoại tệ lại chiếm
thế thượng phong khi giá vàng thế giới lần đầu tiên trong lịch sử
vượt ngưỡng 1300USD/ounce còn trong nước giá vàng là vượt qua
mốc 3 triệu đồng/lượng. Đối với USD, tỷ giá trên thị trường chợ đen
vượt ngưỡng 19700 đồng/USD. Dòng vốn đang chảy sang vàng và
ngoại tệ. Nhà đầu tư có vẻ đã thận trọng hơn với đầu tư chứng khoán
vì CPI được công bố trong tháng 9 đã tăng 6.46% so với đầu năm.
Mặc dù nhiều nhà đầu tư (NĐT) kỳ vọng vào sự khởi sắc của
VN-Index trong quý IV, nhưng cơ hội bứt phá khả năng xảy ra ngay
trong tháng 10 lại rất thấp. Thông tư 13 hầu như không sửa đổi so
với kỳ vọng của NĐT. GDP quý III tăng trưởng đạt mức tích cực
7,16% trong điều kiện lạm phát tăng cao đột biến trong tháng 9
(1,13%), đặt dấu hỏi đối với chất lượng tăng trưởng thực. Bên cạnh
đó, dòng tiền chủ đạo từ Chính phủ vẫn đổ về các dự án lớn như
Dung Quất hay để xử lý tình hình tài chính của Vinashin nên DN và
thị trường tài chính chưa thực sự có cơ hội tiếp cận nguồn vốn dồi
dào, khơi thông nguồn cung tiền trong ngắn hạn...Kết thúc tháng 10
Vn-Index đã giảm 0.42% xuống còn 152.63, trong khi đó HNX-
Index lại mất tới 11.34% chỉ còn 112.86. Thanh khoản của hai sàn
tiếp tục giảm. Trên Hose giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên đạt
775 tỷ đồng, trong khi đó trên HNX, giá trị giao dịch trung bình mỗi
phiên đạt 443 tỷ đồng. Tuy nhiên tháng 10 là một trong những tháng
khối ngoại mua ròng nhiều nhất trong năm. Tổng giá trị mua ròng
khối ngoại trên Hose đạt 1470 tỷ đồng, và trên HNX đạt 102 tỷ
đồng.
Vào 2 tháng cuối cùng của năm, hi vọng thanh khoản của thị
trường sẽ được cải thiện. Kết thúc những tuần giao dịch cuối cùng
của tháng 11 tính thanh khoản đã được cải thiện với những sóng
penystock đã được xuất hiện nhiều phiên liên tiếp. Tâm lý nhà đầu tư
đã ổn định trở lại và cùng với đó là những dòng tiền bắt đáy các cổ
phiếu đã giảm điểm mạnh trong thời gian qua. Hoạt động mua bán
của nhà đầu tư nước ngoài( NĐTNN) cũng cho thấy, bên cạnh những
mã blue-chips quen thuộc, họ tập trung vào nhiều mã cổ phiếu nóng,
đặc biệt là các mã có sóng lớn tại HNX. Hàng loạt cổ phiếu nóng lao
dốc thời gian qua đã bắt đầu quay trở lại quỹ đạo tăng trần quen
thuộc. Kết thúc tuần giao dịch cuối cùng tháng 11, VN-Index bật dậy
3.15% lên mức 339.94 điểm. Trong khi đó, HNX-Index tăng 2.59%
lên mức 101.58 điểm.
Vào những ngày đầu tiên của tháng 12, thông tin vĩ mô trong
nước chưa có nhiều cải thiện, khi lãi suất đang ở mức cao, giá hàng
hóa liên tục lên cơn sốt và tỷ giá trong tuần tăng nhẹ. Trên thị trường
chứng khoán, VN-Index đã phục hồi ấn tượng lên vùng khá nhạy
9
cảm là 440 điểm. Thanh khoản của thị trường tăng là nhờ đóng góp
của khối ngoại. Tâm lý nhà đầu tư đã tỏ ra khá vững vàng, “miễn
dịch” với các tin xấu. Hi vọng trong những phiên giao dịch cuối
cùng của tháng, khi mà các thông tin vĩ mô đang dần dần được công
bố, sẽ không có nhiều thông tin vĩ mô tiêu cực ảnh hưởng mạnh đến
tâm lý NĐT. Khả năng thị trường trong tháng cuối cùng của năm “
thẳng tiến” sẽ không cao, thay vào đó là những phiên giao dịch giằng
co. Để thị trường tiếp tục phục hồi vững chắc thì sẽ cần thêm các
dòng tiền mới và liên tục – điều mà chúng ta khó có thể kỳ vọng vào
lúc này.
Câu 7: Bình luận về giao dịch chứng khoán?
( HASTC, HoSE, UPCOM)
A. Giao dịch chứng khoán trên thị trường UpCom
Được chính thức khai trương vào ngày 24/6/2009 với 10 mã
chứng khoán chào sàn có tổng giá trị đăng kí giao dịch theo mệnh
giá là 1231 tỷ đồng, đến nay thị trường giao dịch chứng khoán
(GDCK) công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) đã thu hút được
43 DN. Mặc dù chưa sôi động, nhưng sàn UPCoM được đánh giá là
"sân chơi an toàn" giúp nhà đầu tư tránh được rủi ro trên thị trường
giao dịch tự do…
Hệ thống giao dịch trên UPCoM:
+ Thời gian giao dịch: Thời gian thành viên hệ thống đăng ký
giao dịch nhập lệnh vào hệ thống đăng ký giao dịch hàng ngày từ
08h30 đến 15h00. Thời gian nghỉ từ 11h30 đến 13h30.
+ Phương thức giao dịch: Áp dụng 2 phương thức là phương
thức khớp lệnh liên tục và phương thức giao dịch thỏa thuận.
+ Giá tham chiếu:Giá tham chiếu của cổ phiếu đang giao
dịch là bình quân gia quyền của các giá giao dịch thực hiện theo
phương thức khớp lệnh liên tục của ngày giao dịch gần nhất trước
đó.
Trường hợp cổ phiếu mới đăng ký giao dịch, trong ngày giao
dịch đầu tiên, SGDCKHN chỉ nhận lệnh giao dịch khớp lệnh liên tục
và không áp dụng biên độ dao động giá. Nếu trong ngày giao dịch
đầu tiên không có giá thực hiện thì giá tham chiếu sẽ được xác định
trong ngày giao dịch kế tiếp cho đến khi giá giao dịch được xác lập
trên hệ thống.
+ Đơn vị giao dịch, khối lượng giao dịch, đơn vị yết giá và
biên độ dao động giá
- Đơn vị GD: Đơn vị giao dịch khớp lệnh liên tục là 100 cổ
phiếu hoặc 100 trái phiếu. Không quy định đơn vị giao dịch đối với
giao dịch thoả thuận. Áp dụng khối lượng giao dịch tối thiểu đối với
giao dịch thoả thuận là mười (10) cổ phiếu hoặc mười (10) trái
phiếu.
- Đơn vị yết giá: CP: 100; không quy định với TP;
- Biên độ giao động giá: ±10% với CP; không áp dụng đối
với TP;
+ Nguyên tắc giao dịch:
- NĐT mở tài khoản giao dịch chứng khoán và đặt lệnh mua/
bán chứng khoán tại công ty chứng khoán thành viên thị trường
UPCoM. Trong trường hợp NĐT đã có tài khoản giao dịch chứng
khoán niêm yết thì không cần mở thêm tài khoản giao dịch trên thị
trường UPCoM.
- Ký quỹ giao dịch: Khi đặt lệnh bán chứng khoán, nhà đầu
tư phải có đủ số lượng chứng khoán đặt bán trong tài khoản giao
dịch chứng khoán. Khi đặt lệnh mua chứng khoán, nhà đầu tư thực
hiện ký quỹ tiền giao dịch theo mức thoả thuận với CTCK thành
viên.
- NĐT đặt lệnh giao dịch chứng khoán, giá đặt mua/đặt bán
của NĐT phải nằm trong phạm vi biên độ dao động giá của ngày
giao dịch.
- Trường hợp đã tìm được đối tác giao dịch, NĐT thực hiện
phương thức thoả thuận và CTCK nhập kết quả giao dịch vào hệ
thống.
- Trường hợp chưa tìm được đối tác giao dịch, NĐT tham
khảo thông tin chào mua/chào bán tốt nhất trên thị trường qua hệ
thống thông tin giao dịch trực tuyến tại các CTCK, và đặt lệnh
mua/bán cho mình theo giá tốt nhất có thể thông qua hệ thống giao
dịch của các CTCK theo phương thức khớp lệnh liên tục.
Thực trạng của thị trường UpCom
Năm 2009, diễn biến giao dịch trên Upcom cho thấy: Hàng
hóa trên thị trường còn ít, chưa đa dạng về số lượng và chủng loại,
dẫn tới tính thanh khoản còn chưa cao, kết quả giao dịch còn khiêm
tốn và chưa đạt được như kỳ vọng. Giá trị vốn hóa của thị trường
10
vẫn còn là những con số rất khiêm tốn so với hai sàn niêm yết chính
thức là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu thống kê từ
phía Sở GDCK HN cho hay, cuối tháng 12/2009, chỉ có 33 mã cố
phiếu giao dịch trên UPcom, giá trị đăng kí giao dịch theo mệnh giá
là 2940 tỷ đồng. Những hạn chế của thị trường Upcom có thể kể ra
như
Thứ nhất, thị trường Upcom vẫn thực hiện phương thức giao
dịch thỏa thuận điện tử và thỏa thuận thông thường được thiết kế
nhằm phát huy vai trò của các CTCK trong việc phục vụ nhà đầu tư
với vai trò là nhà tạo lập thị trường. Tuy nhiên giao dịch thỏa thuận
điện tử là phương thức giao dịch mới, nhiều CTCK và NĐT chưa kịp
làm quen nên còn lúng túng thực hiện. Việc thúc đẩy CTCK trở
thành nhà tạo lập thị trường còn nhiều khó khăn, bởi để trở thành
một nhà tạo lập thị trường, CTCK phải có hoạt động tự doanh tốt
trong khi đa số CTCK trên thị trường, đặc biệt là các CTCK nhỏ và
vừa lại chưa đủ năng lực và quy mô vốn còn hạn chế. Ngay cả
phương thức giao dịch vẫn chưa có tính ưu việt. Việc hệ thống
Upcom không thể tự động khớp lệnh đã khiến các CTCK mất nhiều
thời gian để có thể đáp ứng nhập lệnh cho khách hàng, có những
lệnh mua và bán có thể khớp với nhau nhưng vẫn phải chờ CTCK
thành viên xác nhận một cách thủ công.
Thứ hai, Upcom mới ra đời nên sự quan tâm và hiểu biết của
công chúng đầu tư và DN còn chưa nhiều. Hàng hoá chưa đa dạng,
chưa có nhiều công ty có vốn lớn, kết quả kinh doanh tốt tham gia,
nên không ít NĐT cho rằng, thị trường UPCoM chỉ có chứng khoán
của các công ty nhỏ, chất lượng thấp. Vì vậy, cả doanh nghiệp và
NĐT đều có tâm lý e ngại, thăm dò khi tham gia thị trường này. Đặc
biệt, cơ chế giao dịch yêu cầu giá và khối lượng mua - bán phải
giống nhau đã không thu hút nhiều NĐT tham gia. Biên độ giao dịch
thấp (10%); khó khớp lệnh do lệnh mua và lệnh bán phải tương
đương về khối lượng và giá giao dịch; thời gian thanh toán khá dài
(T+3)…, là những “điểm nghẽn” chính đang bộc lộ trên sàn UPCoM
sau nửa năm đi vào hoạt động. Những ách tắc trên khiến sàn giao
dịch này thường xuyên rơi vào tình trạng trầm lắng, kém thu hút nhà
đầu tư tham gia. Nhiều công ty đại chúng còn quan niệm thị trường
UPCoM là thị trường của các công ty chất lượng thấp, do đó không
muốn tham gia vì sợ ảnh hưởng đến hình ảnh chứng khoán của đơn
vị. Ngoài ra, các công ty chứng khoán chưa tận dụng được ưu thế
của phương thức giao dịch thỏa thuận một cách hiệu quả, nên chưa
phát huy vai trò trung tâm của mình trong việc giao dịch cho nhà đầu
tư, ảnh hưởng đáng kể đến tính thanh khoản trên thị trường. Vì thế,
trong nhiều phiên liên tiếp, chỉ số UPCoM giảm điểm, với khối
lượng giao dịch đạt ở mức thấp. Sau gần một năm hoạt động, chỉ số
UPCoM-Index không những không tăng điểm, mà còn giảm tới hơn
50%. Đóng cửa phiên ngày 17-3-2010, chỉ số UPCoM-Index đạt
44,29 điểm, với khối lượng giao dịch chỉ đạt 341.031 CP, tương
đương giá trị 4,268 tỷ đồng.
Bước sang năm 2010, niềm vui lớn đã đến với các NĐT tham
gia trên thị trường Upcom. Ngày 30/6/2010, Bộ Tài chính đã ban
hành Thông tư số 95/2010/TT-BTC về việc sửa đổi, bổ sung Quy
chế Tổ chức và Quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng
chưa niêm yết tại HNX ban hành kèm theo Quyết định số 108/2008/
QĐ-BTC ngày 20/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. HNX cho
biết, việc áp dụng các thay đổi trong Thông tư 95/2010/TT-BTC nằm
trong mục tiêu xuyên suốt trong việc xây dựng và phát triển thị
trường UPCoM là mở rộng thị trường có tổ chức, thu hẹp thị trường
tự do. Việc mở rộng thời gian giao dịch, có giờ bắt đầu cùng với thị
trường niêm yết là tạo điều kiện cho nhà đầu tư thuận tiện tham gia
trên cả hai thị trường và đáp ứng nhu cầu giao dịch linh hoạt của nhà
đầu tư trong ngày giao dịch. Việc giảm thiểu điều kiện đăng ký giao
dịch là một bước để tạo điều kiện cho tất cả các công ty đại chúng có
thể đăng ký tham gia thị trường UPCoM.Các điều chỉnh trên thị
trường UPCoM sẽ chính thức được áp dụng từ ngày 19/7/2010.
Việc thay đổi phương thức giao dịch sang khớp lệnh liên tục
nhằm làm tăng sự sôi động của thị trường, tăng tính thanh khoản cho
chứng khoán và từ đó tăng tính hấp dẫn của UPCoM, thu hút được
sự tham gia của ngày càng nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư. Giá trị
giao dịch chứng khoán bình quân tăng từ 4 tỷ đồng/phiên lên 13 tỷ
đồng /phiên. Đặc biệt, có phiên giao dịch UPCoM giá trị giao dịch
lên tới 86 tỷ đồng. Giá trị thị trường của các cổ phiếu giao dịch trên
thị trường UPCoM tính đến ngày 15/7/2010 là gần 14.000 tỷ đồng.
Tính đến ngày 01/12/2010, thị trường đăng ký giao dịch cổ phiếu
(UPCoM) có phiên tăng điểm thứ 3 liên tiếp. Tổng khối lượng giao
dịch đạt 510.674 đơn vị (giảm 57,44%), với giá trị đạt hơn 11,22 tỷ
11
đồng (giảm 52,31%).Toàn thị trường có 19 mã tăng giá, 18 mã giảm
giá, 2 mã đứng giá và 66 mã không có giao dịch.
B. Giao dịch chứng khoán trên SGDCKHN và SGDCKHCM
1. Các quy định chung
NỘI
DUNG
TRUNG TÂM GIAO
DỊCH CHỨNG
KHOÁN TP. HCM
TRUNG TÂM GIAO
DỊCH CHỨNG
KHOÁN HÀ NỘI
GHI CHÚ
Ngày
giao dịch
Từ thứ 2 đến thứ 6
hàng tuần, trừ các
ngày nghỉ lễ theo quy
định.
Từ thứ 2 đến thứ 6
hàng tuần, trừ các ngày
nghỉ lễ theo quy định
Thời gian
giao dịch
Phiên 1: Từ 8h30 đến
9h00
Phiên 2: Từ 9h00 đến
10h15
Phiên 3: Từ 10h15
đến 10h30
Liên tục từ 8h30 đến
11h00
Phiên 1& 3 là
khớp lệnh định
kỳ và phiên 2
là khớp lệnh
liên tục.
Phiên 4: Từ 10h30 đến 11h
Riêng đối với trái phiếu giao dịch theo phương
thức thoả thuận.
Các giao dịch được thực hiện liên tục từ 8h30
đến 11h00
Thực hiện theo
phương thức
thỏa thuận
Lô giao
dịch
Giao dịch lô chẵn: 10
đến 19.990 cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ đầu
tư.
Giao dịch lô chẵn:
Từ 100 cổ phiếu trở
lên và là bội số của
100.
Giao dịch lô lớn: 20.000
cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư.
Riêng đối với trái phiếu
từ 3.000 trái phiếu trở
lên.
Từ 5.000 cổ phiếu
trở lên, kể cả lô lẻ
(VD 5.001 CP)
Riêng đối với trái
phiếu từ 100 triệu
tính theo mệnh giá
trở lên
Thực hiện theo
phương thức
thỏa thuận
Loại lệnh
giao dịch
Lệnh giới hạn: Khách
hàng đặt lệnh mua bán
chứng khoán chấp nhận
tới giá mua cao nhất hoặc
giá bán thấp nhất bằng
với mức giá mà mình đã
đưa ra.
Lệnh ATO: lệnh giao
dịch tại mức giá xác định
giá mở cửa
Lệnh ATC: lệnh giao
dịch tại mức giá xác định
giá đóng cửa
Lệnh giới hạn:
Khách hàng đặt lệnh
mua bán chứng
khoán chấp nhận tới
giá mua cao nhất
hoặc giá bán thấp
nhất bằng với mức
giá mà mình đã đưa
ra.
Lệnh thoả thuận: do
khách hàng tự thoả thuận
với đối tác rồi thông báo
thực hiện qua Công ty
Chứng khoán hoặc yêu
cầu Công ty chào
mua/bán trên thị trường
và thực hiện giao dịch.
Lệnh thoả thuận: do
khách hàng tự thoả
thuận với đối tác rồi
thông báo thực hiện
qua Công ty Chứng
khoán hoặc yêu cầu
Công ty chào
mua/bán trên thị
trường và thực hiện
giao dịch.
Thực hiện theo
phương thức
thỏa thuận
Biên độ
giao động
giá
/-5% đối với giao dịch cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ
đầu tư, nghĩa là giá giao
dịch trong ngày chỉ có
thể dao động trong
khoảng cộng/trừ 5% so
với giá tham chiếu (giá
đóng cửa của ngày giao
dịch trước đó)
/-7% đối với giao
dịch cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ đầu
tư, nghĩa là giá giao
dịch trong ngày chỉ
có thể dao động
trong khoảng
cộng/trừ 7% so với
giá tham chiếu (giá
đóng cửa của ngày
giao dịch trước đó)
Không áp dụng
biên độ dao
động giá đối
với trái phiếu
Đơn vị
yết giá
o Đối với các mức giá từ
10.000đ đến 49.900đ thì
Đơn vị yết giá là
100đ
Không quy
định đơn vị yết
12