Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Đề cương luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh và ý nghĩa của nó đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 135 trang )

aaaaaa
TRƯỜNG ĐẠI HỌ
C SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
­­­­­         ­­­­­

 
                                                                                     

DƯƠNG VĂN LĨNH

TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA 
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN      
Ở TỈNH SƠN LÀ HIỆN NAY

ĐÊ C
̀ ƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIÊT HOC
́
̣

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
­­­­­         ­­­­­

                                                                                     

DƯƠNG VĂN LĨNH
      PHÊ



TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA 
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN      
Ở TỈNH SƠN LÀ HIỆN NAY

Chuyên nganh
̀
Ma sô
̃ ́

: Triêt hoc
́ ̣
: 60.22.03.01

ĐÊ C
̀ ƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIÊT HOC
́
̣
2

Ngươi h
̀ ương dân khoa hoc
́
̃
̣ : PGS.TS

LÊ VĂN ĐOÁN


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ  tịch Hồ  Chí Minh là biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc 
Việt Nam. Yêu nước, thương dân, cả  cuộc đời người đấu tranh không mệt mỏi 
vì tự do hạnh phúc của nhân dân.
Tư  tưởng Hồ Chí Minh là hệ  thống quan điểm toàn diện và phong phú về 
cách mạng Việt Nam, là sự  hun đúc, kết tinh từ  những tinh hoa  ưu tú nhất của  
lịch sử  tư  tưởng dân tộc, thời đại và nhân loại; được trí tuệ, nhân cách Hồ  Chí 
Minh làm cho thăng hoa, trở  thành giá trị  văn hóa Việt Nam hiện đại. Hồ  Chí 
Minh không những nắm lấy cái tinh thần, phương pháp biện chứng của chủ 
nghĩa Mác ­ Lênin, hòa quyện với tinh hoa biện chứng phương Đông vào thực 
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam để phát hiện, giải quyết những vấn đề của lịch 
sử cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo mà còn bổ sung mới, phát 
triển và làm phong phú hơn chủ nghĩa Mác ­ Lênin trong thời đại mới để tạo nên  
cái riêng trong tư tưởng biện chứng của mình. 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ được phản ánh trong các bài nói, bài  
viết mà còn thể  hiện qua quá trình chỉ  đạo thực tiễn cách mạng phong phú, đa  
dạng, hiệu quả  trong phong cách lối sống của Người và trên nhiều lĩnh vực.  
Trong đó quan điểm nổi bật nhất là tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc kết hợp 
3


giải phóng giai cấp mà cốt lõi là tinh thần  đoàn kết dân tộc  “Sự  nghiệp cách  
mạng là sự  nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân và chỉ  có thể  thực hiện  
được bằng sức mạnh của khối thống nhất toàn dân,…”. 
Trong tinh thần đoàn kết, công tác vận động quần chúng nhân dân đoàn kết, 
thống nhất, chung sức một lòng thực hiện cách mạng, điều đó thể  hiện rõ nhất 
sự  phát triển tổng hợp của tư  duy biện chứng, khoa học chính trị, nghệ  thuật,  
tinh tế  và sâu sắc bởi nó chứa đựng những tinh hoa của lịch sử  tư  tưởng biện  
chứng nhân loại nhưng không hề  bị  gò bó, máy móc mà Người vận dụng một  
cách linh hoạt, sáng tạo trong mọi hoàn cảnh cụ thể, ở mọi lĩnh vực và ngày càng  

phổ  biến hơn trong quá trình cùng nhân dân thực hiện chèo lái con thuyền cách 
mạng. 
Trong hoàn cảnh kháng chiến công tac vân đông quân chung 
́ ̣
̣
̀
́ là vấn đề cấp 
bách, còn trong sự  phát triển lâu dài của cách mạng, đây là vấn đề  mang tinh
́  
chiến lược. 
Đảng ta xác định:  “Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ  có ý nghĩa  
chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta; là điều kiện quan  
trọng đảm bảo có sự  lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ  
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã chỉ  rõ: 
“Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc  
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Bước vào công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được trong 
lĩnh vực vận động quần chúng của Đảng. Song cũng bộc lộ những khuyết điểm 
hạn chế. Tại Hội nghị  triển khai chương trình hành động thực hiện nghị  quyết 
Đại hội XII (27­5­2016) của Đảng về công tác dân vận. Tổng Bí thư Nguyễn Phú 
Trọng chỉ rõ: “Đảng ta và Bác Hồ luôn xác định dân vận và công tác dân vận là  
nhiệm vụ  có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ  sự  nghiệp cách mạng nước  
ta…”.
4


“Bên cạnh những thành tích, tiến bộ công tác dân vận cũng còn những mặt  
hạn chế, yếu kém mà Đại hội XII đã chỉ  ra. Đó là: Việc cụ  thể hóa và tổ  chức  
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận quyết định của Đảng về công tác dân  
vận hiệu quả  chưa cao; chưa đánh giá, dự  báo kịp thời những diễn biến tư  

tưởng nhân dân; chậm đổi mới nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần  
chúng trong tình hình mới…”
Dân vận là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng 
chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Công tác Dân vận không chỉ là vận  
động nhân dân thực hiện các chủ  trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mà 
còn là phương thức thu hút nhân dân vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, 
chính sách đó. Trong những hoạt động này vấn đề  cốt lõi là phải quan tâm đến  
lợi ích chính đáng của nhân dân. Vấn đề tưởng như đơn giản, dễ làm nhưng thực 
tế đến nay nhiều lúc, nhiều nơi vẫn làm chưa tốt. Bên cạnh số đông cán bộ đảng 
viên vẫn giữ được phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận  
không nhỏ cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần  
chúng, nạn tham ô, hối lộ  vẫn còn xảy ra. Không ít đoàn thể  cũng bị  quan liêu  
hoá, hành chính hoá, không chịu đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tập 
hợp các tầng lớp nhân dân, làm giảm sự  gắn bó của nhân dân với Đảng và Nhà  
nước... những hiện tượng đó là tiếng chuông cảnh báo để  chúng ta phải làm tốt 
hơn nữa công tác dân vận. Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận bên cạnh  
việc hoàn thiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn đang đặt ra còn  
phụ thuộc rất lớn vào phương thức tiến hành dân vận. 
Vì thế trong nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy  
tư  duy biện chứng trong phương pháp dân vận của Người trong giai đoạn hiện 
nay còn giữ nguyên giá trị to lớn đôi v
́ ơi s
́ ự nghiêp cach mang n
̣
́
̣
ươc ta
́ . “Củng cố  
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc  
và mối quan hệ  máu thịt giữa Đảng và nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân  

5


thực hiện tốt các chủ chương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;  
phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng  
lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Sơn La là tỉnh rừng núi nằm  ở  phía Tây Bắc của Tổ  quốc,   co diên tich
́ ̣ ́  
14.174 km2 (đứng thứ 3 toan quôc), 
̀
́ là nơi cùng sinh sống của 12 dân tộc thiểu vơí 
gân 1,2 triêu dân
̀
̣
. Việc phát triển bền vững kinh tế  ­ xã hội và quốc phòng ­ an 
ninh ở tỉnh Sơn La có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển chung của 
cả  nước. Tuy nhiên, trong những năm qua, cùng với các tỉnh của Tây Nam Bộ,  
Tây Nguyên thì Sơn La thuộc vùng Tây Bắc cũng là điểm nóng về  bất ổn chính 
trị, kinh tế  ­ xã hội cần được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc hơn. Chính  
những lý do đó đã thôi thúc tác giả chọn đề tài  “Tư duy biện chứng của Hồ Chí  
Minh và ý nghĩa của nó đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay” để 
làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu tư tưởng triết học và công tác dân vận của Hồ  Chí Minh 
đã được nhiều nhà khoa học đề  xuất về  hướng nghiên cứu và nội dung nghiên 
cứu nên cũng đã có một số công trình như sau: 
Thứ nhất, Nhóm các công trình về Phương pháp và phong cách của Hồ Chí  
Minh:
Tiêu biểu nhất là cuốn  Phương pháp và phong cách Hồ  Chí Minh  ­ GS 
Đặng Xuân Kỳ  chủ  biên, Nxb Lý luận chính trị, 2004. Tác giả  đã trình bày một 

cách có hệ thống các lý luận về phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh và phân 
tích khá cặn kẽ  nội dung, ý nghĩa của phương pháp, phong cách Hồ  Chí Minh. 
Tuy nhiên, tác giả  chưa chỉ  ra và phân tích rõ tính biện chứng trong các phương 
pháp cách mạng trên. Đây là một trong số những tài liệu đầu tiên nghiên cứu về 
phương pháp và phong cách Hồ  Chí Minh từ  đó mở  đường và đưa việc nghiên 
cứu phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh lên tầm cao mới.
6


Cuốn sách thứ hai cũng liên quan đến đề  tài này là cuốn Tìm hiểu phương  
pháp Hồ  Chí Minh  của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Nxb Lý luận Chính trị  ­ Hành 
Chính, Hà Nội (2011). Cuốn sách là công trình đầy đặn, công phu thể  hiện tâm 
huyết của một nhà khoa học đã có sự thấu hiểu sâu sắc về con người và phương  
pháp Hồ  Chí Minh. Từ  những quan điểm mang tính chất gợi mở, GS.TS Hoàng 
Chí Bảo đã chỉ ra sự hình thành phương pháp Hồ  Chí Minh, bước đầu nêu ra và  
phân tích những đặc điểm chủ  yếu của phương pháp Hồ  Chí Minh, từ  đó bước 
đầu vận dụng vào tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh chứ chưa đi vào tìm  
hiểu và phân tích tính biện chứng trong các phương pháp cách mạng. Về cơ bản, 
cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống phương pháp Hồ Chí Minh và bước 
đầu gợi mở cho các nhà nghiên cứu về phương pháp Hồ Chí Minh sau này.
Thứ hai, Nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng và tư tưởng triết học  
Hồ Chí Minh:
Các cuốn sách tiêu biểu là Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh của Viện Hồ 
Chí Minh, Hà Nội, 1993, tập 3;  Tư  tưởng triết học Hồ  Chí Minh  do  Lê Hữu 
Nghĩa (Chủ biên), Nxb Lao Động, Hà Nội, 2000; Góp phần tìm hiểu tư duy đặc  
sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh  của tác giả Hồ Kiếm Việt, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội, 2004; Hồ  Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh của tác giả Bùi 
Đình Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Hồ Chí Minh, nhà cách mạng  
sáng tạo  của Mạch Quang Thắng, Nxb Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 2009; Giáo 
trình tư  tưởng Hồ  Chí Minh  của Phạm Ngọc Anh, Nxb Chính trị  quốc gia, Hà 

Nội, 2010; và tiêu biểu nhất là cuốn Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài của GS. 
Trần Nhâm, Nxb Lý luận Chính trị quốc gia, Hà Nội (2011).  
Các công trình trên đã mở  rộng nghiên cứu tư tưởng Hồ  Chí Minh trên các 
vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng. Nắm rõ tình hình thực tiễn của thế 
giới và Việt Nam những năm 1930, vận dụng sáng tạo chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, 
Hồ Chí Minh đã khởi thảo và chỉ rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam  
7


trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ 
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tầm cao về tư duy chiến lược của Hồ 
Chí Minh và Đảng ta chính là tầm nhìn bao quát, hiểu được bản chất ẩn náu bên 
trong những vấn đề  cơ bản đề từ đó đề ra các chiến lược, chuyển hướng chiến  
lược hợp lý. Đặc biệt chiến lược xuyên suốt trong quá trình kết hợp độc lập dân  
tộc và chủ  nghĩa xã hội, nổi lên trong hệ  thống tư  tưởng Hồ  Chí Minh là tư 
tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Sự thiên tài trong tư tưởng Hồ Chí Minh ­ vấn đề 
được tác giả  xem như  là trung tâm phân tích trong hệ  tư  tưởng Hồ  Chí Minh  
được thể  hiện rõ trong tư  duy mới về  Đảng cầm quyền. Theo Hồ  Chí Minh, 
Đảng, Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ  chặt chẽ, không thể  tách rời. Xây  
dựng Đảng ta thành một đảng trí tuệ, một đảng trong sạch, vững mạnh, xứng  
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ  trung thành của nhân dân. Điểm mới  
cuốn sách “Hồ  Chí Minh nhà tư  tưởng thiên tài” là đi sâu làm rõ tư  tưởng triết  
học và nhận thức luận Hồ Chí Minh. Mặc dù Hồ Chí Minh không đi sâu vào tìm  
hiểu các vấn đề triết học nhưng không thể nói rằng toàn bộ hệ thống tư tưởng, 
lý luận của Người không mang dấu ấn của quan điểm duy vật triệt để trong triết  
học. Đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn 
và nhân sinh, triết học giải phóng và phát triển.
Hệ  thống tư  tưởng Hồ  Chí Minh không chỉ  làm nổi bật phép biện chứng  
được hình thành một cách tự nhiên, sáng tạo từ nhiều nguồn, nhiều hướng, nhiều 
cơ  sở  khác nhau mà còn nhấn mạnh nhận thức luận của Người qua quá trình 

thực tiễn hóa lý luận và lý luận hóa thực tiễn. “Thực tiễn không có lý luận 
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ  với thực 
tiễn là lý luận suông”.
Thứ  ba, Nhóm các công trình nghiên cứu về  công tác dân vận của Hồ  Chí  
Minh: 
8


Tác phẩm “Dân vận” của chính trực tiếp Hồ  Chí Minh viết được in 
trong Bộ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr. 232.
Về  hình thức: Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề  (chỉ  vỏn vẹn 2 
từ), đến dung lượng (chỉ có 573 từ); được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, gần  
gũi với quần chúng; văn phong súc tích, có tính khái quát cao. 
Về  nội dung: Giản dị, ngắn gọn mà không hề  sơ  lược. Tác phẩm “Dân 
vận” đã gói ghém một cách đầy đủ  và sâu sắc những quan điểm, tư  tưởng của 
Hồ Chí Minh về công tác này.
Về  tầm quan trọng của công tác dân vận: Hồ  Chí Minh chỉ  rõ rằng: “Dân 
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. 
Về  mục đích của công tác dân vận: Cái đích chung và cao nhất của sự 
nghiệp cách mạng mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương trước sau vẫn là “từ 
dân, vì dân, cho dân”. 
Về  bản chất của công tác dân vận: Theo Hồ  Chí Minh, thực chất hay bản 
chất của công tác dân vận, chính là nhằm “vận động tất cả  lực lượng của mỗi  
một người dân không để  sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, 
để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể 
đã giao cho...”. 
Về lực lượng làm công tác dân vận: Chỉ rõ ai là người làm công tác dân vận
Về  cách thức, phương pháp làm công tác dân vận: Óc nghĩ, mắt trông, tai 
nghe, miệng nói, tay làm, chân đi.
 Tác phẩm Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân  

của Đỗ Mười trong bài phát biểu tại hội thảo tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đăng trên tạp chí dân vận số  12­1993, NXB Chính trị  Quốc gia – Sự 
thật 2014. 
Tiêu biểu là cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt  
Nam của Trường Chinh, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1991 và cuốn sách Tư 
9


tưởng Hồ  Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam  của Võ Nguyên Giáp, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. 
Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ:
­ Lương Văn Kham: Tư  tưởng biện chứng Hồ  Chí Minh trong cách mạng  
giải phóng dân tộc Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 
2001.
­ Nguyễn Đức Đạt: Một số  quan điểm biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí  
Minh, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2002.
Tuy nhiên, các công trình, giáo trình, luận án, bài viết chỉ  mới "gợi mở",  
"khái quát" hoặc chỉ mới đề cập đến phương pháp cách mạng, triết lý phát triển,  
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa giai cấp và dân tộc... Xin trích 
dẫn "Lời Nhà xuất bản Lao động Hà Nội" viết cho bản in lần thứ 2 năm 2000 tác 
phẩm  Tư  tưởng triết học Hồ  Chí Minh": "Riêng về  tư  tưởng triết học Hồ  Chí 
Minh thì hầu như  rất ít người nghiên cứu, đề  tài này hầu như  còn mới mẻ  sơ 
khai" Vì vậy, việc nghiên cứu tư  tưởng triết học Hồ  Chí Minh cũng như  Tư 
tưởng biện chứng trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh chưa có điều kiện  
đề cập một cách có hệ thống và phân tích cặn kẽ đến những nội dung của những 
vấn đề đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở  nghiên cứu tư duy biện chứng của Hồ  Chí Minh, từ  đó tác giả 
hệ  thống hóa, khái quát hóa những quan điểm, tư  tưởng biện chứng của Người  
trong công tác dân vận trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến đề xuất mang lại hiệu  

quả cho công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
4.2. Đối tượng nghiên cứu 
10


Tư duy biện chứng trong công tác dân vận của Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết khoa học
Nghiên cứu khai quat hoa nh
́
́ ́ ưng quan điêm biên ch
̃
̉
̣
ứng cua 
̉ Người. Trên cơ 
sở đó đề xuất một số giải pháp vào thực tiễn trong công tác dân vận đối với tỉnh  
Sơn La hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Những vấn đề lý luận chung về tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
­ Nội dung công tác dân vận trong tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
­ Rút ra ý nghĩa thực tiễn đưa ra các giải pháp đối với tỉnh Sơn La hiện nay.
  7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư duy biện chứng Hồ  Chí Minh; ý nghĩa của nó đối 
với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay. 
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề  tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ  nghĩa duy vật biện  
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích – tổng hợp, logic  

– lịch sử, khái quát hóa, thống kê, so sánh,…
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ  lục luận  
văn dự kiến gồm 2 chương 7 tiết.  
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản 
Từ mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn tập trung chủ yếu vào  
một số luận điểm cơ bản sau:
Một là, Tư  duy biện chứng Hồ  Chí Minh là sự  vận dụng, phát triển sáng  
tạo tư  tưởng biện chứng phương Đông, phương Tây mà tiêu biểu là tư  tưởng 
biện chứng cua 
̉ Trung Hoa và tư  tưởng biện chứng của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin 
11


vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hai là,  hệ  thống tư  duy biện chứng Hồ  Chí Minh trong công tác dân vận 
mang tính khoa học và cách mạng.
Ba là, vận dụng tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh có vai trò, ý nghĩa to 
lớn đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay.
10.2.  Đóng góp mới của tác giả
­ Vê ly luân: H
̀ ́ ̣
ệ thống hóa tư duy biện chứng Hồ Chí Minh.
­ Vê th
̀ ực tiên: Y
̃ ́ nghĩa của nó đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện  
nay.

12



Chương 1
 TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
­ Tư duy
  Tư  duy là phạm trù triết học dùng để  chỉ  những hoạt động của tinh thần, 
đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế  giới thông qua hoạt  
động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự  vật và ứng xử  tích  
cực với nó.
Theo cuốn Từ  điển Bách khoa toàn thư  Việt Nam, tập 4 (Nhà xuất bản Từ 
điển bách khoa. Hà Nội. 2005); Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ 
chức một cách đặc biệt ­ bộ não con người. Tư  duy phản ánh tích cực hiện thực 
khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận.v.v...
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật 
chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng:  “Vận  
động kiểu tư  duy chỉ  là sự  vận động của hiện thực khách quan được di chuyển  
vào và được cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh”.
  ­ Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối 
liên hệ  và quan hệ  bên trong có tính quy luật của sự  vật, hiện tượng trong hiện  
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
­ Biện chứng: Biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng 
và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của 
chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
­ Tư duy biện chứng:  Tư duy biện chứng là quá trình tâm lý được xây dựng 
trên cơ sở xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ  qua lại, tác động lẫn  
nhau  ảnh hưởng, chi phối vừa thống nhất vừa đấu tranh, luôn vận động và phát 
triển.
13



Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh: Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là sản 
phẩm tổng hợp của sự kế thừa những tư tưởng biện chứng trong l ịch s ử v ới vi ệc  
tổng kết những tính chất biện chứng của cách mạng Việt Nam và vận dụng sáng 
tạo vào thực tiễn xã hội Việt Nam. 
­ Dân vân
̣ : Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi 
người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật  
của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước dân.
Theo   Hồ   Chủ   tịch,   “dân   vận là vận động   tất   cả   lực   lượng   của   mỗi 
người dân, không để  sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để  thực 
hành những công việc nên làm, những công việc mà đoàn thể  và Chính phủ  đã 
giao cho” (bài báo “Dân vận” của Người đăng trên Báo Sự  Thật với bút danh 
X.Y.Z (ngày 15­10­1949).
­ Công tac dân vân
́
̣ : Công tác dân vận là toàn bộ  các hoạt động của Đảng  
đối với quần chúng nhằm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo cho lợi  
ích thiết thực của nhân dân, huy động tối đa lực lượng toàn dân thực thắng lợi 
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.
­ Hồ Chí Minh đưa ra quy trình công tác dân vận:
+ Phải cho dân biết: Quyền làm chủ của nhân dân, đường lối, chính sách của 
Đảng, Nhà nước, thông tin thời sự, chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý mình.
+ Giải thích cho dân hiểu: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho 
mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ 
phải hăng hái làm cho kỳ được".
+ Bày cách cho dân làm: "phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm 
của dân, cùng với dân đặt kế  hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,  
rồi động viên và tổ  chức toàn dân ra thi hành".  Và "Trong lúc thi hành phải theo 
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân".

14


+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soát: “Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm  
thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
Theo Hồ  Chí Minh, mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng, tâm mới  
đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm, thì làm mới chóng. Đó chính là khẩu 
hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà ngày nay chúng ta thường đề 
cập tới.
1.2. Qua trinh
́ ̀  hình thành tư duy biện chứng Hồ Chí Minh
1.2.1. Truyền thống cách mạng Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ  rất sớm, trải qua mấy nghìn  
năm dựng nước và giữ  nước đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống quân  
xâm lược, dân tộc ta đã xây dựng nên rất nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp trong  
đó có truyền thống yêu nước phát triển đến đỉnh cao, trở  thành chủ  nghĩa yêu  
nước. Chủ  nghĩa yêu nước là sản phẩm cao quý của dân tộc ta, nó trở  thành đạo 
lý, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, là động lực to lớn tạo nên sức mạnh để 
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.  
Nội dung cơ  bản của chủ  nghĩa yêu nước là tình yêu quê hương đất nước, tinh  
thần đoàn kết gắn bó cộng đồng, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân 
tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần bất khuất, tự cường, đạo lý uống nước 
nhớ nguồn... trên tinh thần nhân văn, nhân ái…
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam chứa đựng những yếu tố biện chứng sâu sắc. 
Trong đó, một số yếu tố đã ảnh hưởng đến tư duy biện chứng Hồ Chí Minh.
Một là, đoàn kết gắn bó cộng đồng dân tộc.
Đây là sự  thống nhất, đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc để  tạo  
thành sức mạng tổng hợp chống lại mọi khó khăn, gian khổ, mọi kẻ thù xâm lược.
Đất nước Việt Nam nhỏ bé từ xa xưa đã phải chống chọi với thiên tai lũ lụt 
khắp nơi, để chống chọi với thiên tai, ngoại xâm đòi hỏi mọi người dân phải đoàn 

kết đồng lòng, góp sức mới có thể thực hiện được. Do vậy, tinh thần đoàn kết của 
15


nhân dân ta bắt nguồn từ  ấy, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày 
càng được phát triển mạnh mẽ hơn đặc biệt là trong công cuộc kháng chiến chống  
quân xâm lược, tinh thần đoàn kết  ấy càng phát triển rực rỡ  hơn, trở  thành một 
truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Với vị  trí địa lý luận lợi, giàu có về  nguồn lợi tài nguyên, là trung tâm giao  
lưu kinh tế, văn hóa của các vùng, miền của khu vực nên các thế lực ngoại xâm đã 
thực hiện nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Tuy là một quốc gia nhỏ bé, ít về  số 
lượng, yếu về  sức mạnh, thô sơ về  vũ khí nhưng bằng tinh thần đoàn kết, quyết 
tâm chống lại mọi kẻ thù xâm lược, cha ông ta đã làm nên những chiến thắng oai  
hùng. 
Nhà Trần  ở  thế  kỷ  thứ  XIII đã ba lần đánh thắng quân Nguyên ­ Mông và 
Trần Quốc Tuấn đã chỉ  rõ nguyên nhân là do:  “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa  
thuận, cả nước góp sức” [23, tr.215]. Để có được sức mạnh to lớn từ sự đoàn kết  
đó, Trần Quốc Tuấn đã chủ trương: “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế  
bền sâu gốc rễ, đó là thượng sách giữ nước” [23, tr.215]. 
Đầu thế kỷ XV, nhà Hồ cũng kháng chiến chống quân Minh xâm lược, dù đã 
xây dựng được lực lương quân thường trực khá mạnh nhưng cũng đã thất bại vì 
không đoàn kết được toàn dân. Cũng trong thắng lợi của kháng chiến chống quân 
Minh, Nguyễn Trãi đã chỉ  rõ nguyên nhân là do đã đoàn kết, tập hợp được lực 
lượng dân chúng: “Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng” [23, 
tr.259]. Ông đã nhìn thấy công lao, sức mạnh của dân chúng cũng như vai trò quyết 
định sự thịnh suy của dân tộc.
Thấy được sức mạnh của đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói:  “Sử ta dạy  
bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự  
do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [32, tr.217]. 
Để rồi, trong tiến trình đấu tranh cách mạng của mình, Người luôn kêu gọi: 

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
16


                                Thành công, thành công, đại thành công” [39, tr. 607].
Người luôn kêu gọi toàn dân thống nhất, đoàn kết trên cùng một mặt trận.  
Người kêu gọi tất cả  mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, 
đảng phái, dân tộc, không phân biệt già trẻ, gái trai. Ai có tài, có đức, có sức, có  
lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân thì đoàn kết với họ. Với tinh thần đó 
trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế  quốc Mỹ  xâm lược, dân 
tộc ta đã làm nên những thắng lợi vĩ đại, vang dội khắp năm châu, chấn động địa  
cầu.
Hai là, Kết hợp giữa kiên định mục tiêu của cuộc kháng chiến với linh hoạt,  
sáng tạo trong các hình thức và phương pháp tiến hành chiến tranh giữ nước.
Để chiến thắng nhiều kẻ thù khác nhau, ông cha ta đã sáng tạo và vận dụng  
linh hoạt nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng phù hợp với điều  
kiện hoàn cảnh thực tế   ở  nước ta, giải quyết thành công vấn đề  lấy nhỏ  thắng  
lớn, “lấy ít địch nhiều”, tùy thời cơ mà dùng mưu lược để thắng địch.
Trần Quốc Tuấn đã nhận định: “Tóm lại, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản  
binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến  
ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế  ngự. Nếu chúng đi chậm như cách tầm ăn,  
không cần của dân, không cần được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét  
quyền biến như đánh cờ vậy, tùy thời mà làm”  [23, tr. 215]. Trần Quốc Tuấn luôn 
bám sát thế trận để đề ra nhiều phương pháp tác chiến, cách đánh với nội dung và  
hình thức phù hơp: lúc đánh du kích, khi đánh lẻ  tẻ  phân tán, khi tập trung công 
kích, khi lại rút lui, lợi dụng khí hậu, địa hình hiểm trở, dùng mưu trí lừa địch... 
với hình thức, quy mô khác nhau để  giành thắng lợi. Tư  tưởng biện chứng trong  
phương pháp đánh giặc ấy đã được thể hiện rất rõ ràng.
Đến thế kỷ XV, Nguyễn Trãi cũng đưa ra nhiều cách đánh sáng tạo, độc đáo 
là tránh chỗ mạnh, đánh chỗ  yếu, dùng quân mai phục để  đánh bất ngờ, phát huy  

mọi thế  mạnh của ta đánh vào chỗ  sơ  hở  của địch, đánh vào chỗ  mà địch không  
17


ngờ tới, tạo điều kiện để chỗ mạnh của địch không thể phát huy, còn chỗ yếu của 
ta thì được bù đắp, không những thế  còn chuyển thành chỗ  mạnh, ít có thể  địch 
được nhiều, yếu có thể thắng được mạnh. Từ thực tế cách mạng, Nguyễn Trãi đã 
khái quát: 
“Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
                            Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ” [23, tr.65].
Bên cạnh việc đánh địch trên mặt trận quân sự, cha ông ta còn đánh địch trên 
các mặt mặt chính trị, ngoại giao... Sự  kết hợp nhiều cách đánh trên nhiều mặt 
trận sẽ  tạo ra một sức mạnh tổng hợp chiến thắng moị kẻ  thù. Tiêu biểu là Lý 
Thường Kiệt, khi quân giặc lâm vào tình thế  quẫn bách, ông đã chủ  động điều  
đình trên mặt trận ngoại giao để mở lối thoát cho quân giặc nhằm chấm dứt chiến 
tranh trong điều kiện có lợi nhất cho ta. Trên mặt trận chính trị, ông đã đánh địch  
qua bài thơ bất hủ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, 
                     Như đẳng hành khan thủ bại hư [23, tr. 181].
Đến Nguyễn Trãi, sự kết hợp đánh giặc bằng quân sự, chính trị, ngoại giao  
đã đạt đến trình độ mới. Một mặt, ông cùng Lê Lợi hoạch định âm mưu, mặt khác,  
ông đấu tranh với kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng và lý luận. Ông coi đấu tranh trên 
mặt trận tư  tưởng và lý luận cũng góp phần rất quan trọng cho thắng lợi của  
kháng chiến. Tư tưởng ấy thể hiện rất rõ trong tác phẩm Bình ngô đại cáo, khẳng  
định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nước Đại Việt ta, bất cứ kẻ nào 
xâm phạm đều bị đánh bại.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tư tưởng đánh giặc của cha ông, vận dụng sáng 
tạo và phát triển cách đánh  ấy vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đề  ra  

phương pháp tác chiến rất sáng tạo:  “Dụ  giặc vào bẫy để  đánh”  [32, tr.475]; 
18


Người đòi hỏi phải “Thiên biến vạn hóa, xuất quỷ nhập thần” [32, tr.470]; “Náo 
phía đông, đánh phía tây”  [32, tr.474]... Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ  Chí 
Minh có sự kết hợp linh hoạt đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp 
giữa khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, đánh địch trên cả ba vùng 
chiến lược, đánh địch bằng ba mũi giáp công, vừa đánh vừa đàm... Thực tiễn cách  
mạng Việt Nam đã chứng minh sự  kết hợp  ấy hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo,  
làm nên sức mạnh to lớn đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành công.
1.2.2 Bản thân Hồ Chí Minh và quá trình tìm đường cứu nước
Việt Nam là một quốc gia phong kiến nhỏ  bé và lạc hậu  ở  Đông Dương, 
cũng không thoát khỏi thân phận là thuộc địa của thực dân Pháp. Sau Cách Mạng 
Tháng Mười Nga, Việt Nam cũng là nơi hội tụ hầu hết những mâu thuẫn lớn của  
thời đại. Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng liên tiếp nổ ra 
nhưng đều lần lượt bị  thất bại vì bế  tắc về  đường lối, khủng hoảng lực lượng  
lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Nhưng, cũng vì vậy mà tư 
tưởng chống Pháp, nguyện vọng giải phóng dân tộc ngày càng trở  nên thiết tha 
mãnh liệt, nhất là đối với những tầng lớp tri thức có lòng yêu nước nồng nàn. Đa  
số  họ  xuất thân từ  tầng lớp khoa bảng, thấm nhuần học thuyết Nho giáo và các 
học thuyết phương Đông khác, đồng thời lại được tiếp thu ít nhiều tri thức mới  
của phương Tây, nhất là văn minh Pháp. Tuy nhiên, tất cả những con đường giải  
phóng dân tộc mà họ  tìm kiếm vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn trước 
đây…
     Trong bối cảnh lịch sử ấy của đất nước và của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí  
Minh sinh ra và lớn lên, nhận sứ  mệnh lịch sử  giải phóng dân tộc, thực hiện dân 
chủ, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường mà Cách mạng tháng  
mười Nga đã vạch ra. Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng ấy là nguồn gốc  
đầu tiên quy định mục tiêu, khơi nguồn động lực cho việc hình thành và phát triển 

những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh.
19


     Hồ Chí Minh sinh ra ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ­ một  
vùng quê giàu truyền thống yêu nước, thương người. Ông và cha của Người ở cả 
hai bên nội, ngoại đều đỗ đạt cao trong các kỳ thi Nho giáo. Họ đều là những nho 
sĩ tiến bộ, có ý nguyện an dân dựng nước. Tiêu biểu nhất là người cha đáng kình  
của Người. Người cũng được học tập khá kĩ lưỡng những tri thức phù hợp với 
truyền thống dân tộc của nho giáo, Lão giáo, Phật giáo. Mặc gia, Pháp gia và nhiều  
học thuyết phương Đông. Cuộc sống vất vả   ở  quê hương đã nuôi dưỡng những 
tình cảm ban đầu của Hồ Chí Minh. Đó là lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, kính 
trọng người già, có nghĩa khí, nhất là đối với các nghĩa sỹ chống Pháp; thương yêu 
và giúp đỡ  mọi người; căm ghét bọn thực dân Pháp xâm lược và thờ   ơ  với triều  
đình nhà Nguyễn. Ở đâu người cũng thấy sự bóc lột dã man tàn bạo của thực dân  
Pháp, sự thối nát, hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn. Ở đâu, Người cũng thấy nỗi 
đau mất nước đầy ắp trong tâm khảm mỗi người Việt Nam yêu nước. Người còn 
chứng kiến tận mắt sự thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp lúc 
bấy giờ.
      Thực tế  cuộc sống đã thúc đẩy Hồ  Chí Minh tích lũy thêm những kiến 
thức khác nhau, sàng lọc những tư tưởng tiến bộ, loại bỏ dần những tư tưởng l ạc  
hậu, lỗi thời, nhất là sau khi được tiếp xúc với những tư  tưởng mới của các nhà 
cải cách Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy và Tôn Trung Sơn. Có  
lẽ đó cũng là cái cầu nối khiến người lưu ý đến các nhà triết học khai sáng Pháp. 
Với vốn thực tế  và tri thức mới, Hồ  Chí Minh không đồng ý đi theo con đường  
“bạo động”, “duy tân”… mà để  tâm tìm con đường khác cứu dân, cứu nước Hồ 
Chí Minh đã quyết định sang Pháp để  thực hiện mục tiêu đó. Năm 1911, với hai 
bàn tay trắng, Người lên một chuyến tàu buôn sang Pháp.
     Dân tộc Việt Nam có những tư tưởng triết học sâu sắc và độc đáo, được 
hình thành sớm, được bổ sung và tích lũy qua nhiều thế hệ cũng với sự thăng trầm  

của lịch sử. Rõ ràng nhất là tư  tưởng nhân văn sâu sắc của Việt Nam với những  
20


triết lí như  “thương người như  thể  thương thân”, “lá lành đùm lá rách” , “ba cây 
chụm lại” “lao động là tiêu chuẩn đạo đức”, “một dân tộc độc lập và một quốc gia 
có chủ quyền”… luôn luôn được Hồ Chí Minh trân trọng, nuôi dưỡng và vận dụng 
trong mọi quá trình cách mạng, dưới những hình thức mới như  “lao động là vẻ 
vang”, “nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn”, “đoàn kết, đoàn 
kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, “không có gì quý hơn  
độc lập tự  do”… Có thể  nói, những tư  tưởng triết học truyền thống của dân tộc  
Việt Nam là cội nguồn, là yếu tố nội sinh được tích tụ một cách tự nhiên trong tư 
tưởng triết học của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã biết hội tụ trong mình hầu như tất cả những giá trị triết học 
của dân tộc, biết phát triển, và nâng chúng lên  ở  trình độ  mới với hình thức mới. 
Trước hết là tư  tưởng “trời, đất và con người hòa hợp”. Trong đó, con người có  
thể  “đội đá vá trời” , “dời núi, lấp sông, lấp biển” ­ “nhân địch thắng thiên”. Tư 
tưởng này càng được củng cố  và  ổn định khi được bổ  sung bởi tư  tưởng “thiên  
nhân hợp nhất” của triết học Nho, Phật, Lão du nhập vào Việt nam những năm 
đầu công nguyên. 
Là một nước nhỏ   ở  gần hai nền văn hóa lớn là  Ấn Độ  và Trung Hoa nên  
Việt Nam đã tiếp thu hai nền văn hóa đó để  làm giàu cho tư tưởng cũng như  nền 
văn hóa của mình. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng từ hai  
nền văn hóa đó đặc biệt là biện chứng của Nho giáo, biện chứng trong tác phẩm  
Kinh Dịch và biện chứng của Phật giáo. 
Ảnh hưởng của Nho giáo
Nho giáo chủ  trương “Nhập thế”, “chính danh”, “hành đạo”, phải có hành 
động tích cự  với đời, phải “tận lực”... Người quân tử  phải xả  thân vì Nhân, vì  
Nghĩa... Triết lý Nho giáo là triết lý hành động, giúp đời, cứu người.
Nho giáo vào Việt Nam đã kết hợp với chủ nghĩa yêu nước truyền thống tạo  

thành những tiêu chuẩn cụ thể của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng... Là đánh giặc giữ 
21


nước, cứu dân khỏi vòng nô lệ. Hồ Chí Minh đã sử dụng nhưng phát triển sáng tạo 
các giá trị của học thuyết chính trị ­ đạo đức của Nho giáo. 
Nho giáo chủ  trương xây dựng một “Thế  giới đại đồng”, “thiên nhân hợp 
nhất” một “Xã hội bình trị” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, một xã hội mà 
“mọi nhà ban đêm không cần đóng cửa”. Đặc biệt, với tư  tưởng “Tam tài thống 
nhất” Nho giáo đã chỉ rõ con người là một yếu tố trong tam giác thiên, địa, nhân. Ở 
đó, con người có vai trò là chủ thể tác động vào trời đất. Tuân Tử đã khẳng định:  
“Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị” [18, tr.104].
Nhận thấy mối quan hệ thiên, địa, nhân trong Nho giáo, Hồ Chí Minh khẳng 
định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi  
và nhân hòa” [34, tr.479]. Người luôn coi trọng sự  kết hợp giữa ba yếu tố đó để 
tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Người cũng thấy rõ vai trò, vị trí của ba yếu 
tố  đó:  “Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan  
trọng bằng nhân hòa” [34, tr.479]. Người khẳng định có hòa thuận, đoàn kết, nhất 
trí giữa mọi người thì mới có lực lượng vững mạnh, mới khơi dậy được tiềm  
năng, sức mạnh, mới tạo được thời cơ và tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi cho  
sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Bên cạnh đó, Hồ  Chí Minh còn chịu  ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng dùng 
đức trị quốc của Nho giáo. Các phạm trù: “nhân”, “trung”, “hiếu” hay “tài”, “đức” 
và mối quan hệ biện chứng của những phạm trù đó trong lối sống của người quân  
tử, người cách mạng đã thể hiện một cốt cách hiếm có của Hồ Chí Minh. Người  
không chỉ đã biết loại bỏ ở đạo đức cũ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực mà còn kế 
thừa và phát triển những mặt tích cực của đạo đức truyền thống phương Đông để 
xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục cho nhân dân nhằm phục vụ  cho sự 
nghiệp cứu nước, cứu nhà của dân tộc ta.
Nho giáo chủ  trương “Nhập thế”, “Hành đạo”, “Nhân nghĩa”, còn Đạo gia 

thì chủ trương “Xuất thế”, “Vô vi”, “Lấy nhu thắng cương”. Nho gia và Đạo gia là 
22


hai hệ  tư tưởng đối lập nhau. Nhưng Hồ  Chí Minh đã tìm ra được sự  thống nhất 
của hai cái “đối lập” đó, khi dân khổ, mất nước thì phải xả  thân vì nước, vì dân,  
đến khi nước đã giành được độc lập, nhân dân được âm no thì “thân thoái”, trở về 
sống cảnh điền viên, gần gũi với thiên nhiên và người dân lao động. Người tâm  
sự: “Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để  
câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ  già hái củi, em trẻ  chăn trâu,  
không dính líu gì với vòng danh lợi” [33, tr.161].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo mối quan hệ giữa 
lực, thế, thời trong tư tưởng biện chứng Phương Đông. Đó là cơ  sở cho tư tưởng 
chỉ đạo chiến lược tạo lực, lập thế, tranh thời sáng suốt của Người. Điều đó được 
chứng minh qua hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế  quốc 
Mỹ.
Bên cạnh Nho gia Đạo gia, Hồ  Chí Minh còn chịu  ảnh hưởng từ  tư  tưởng 
biện chứng trong phương pháp dùng binh của Tôn Tử. Với tác phẩm “Tôn tử binh 
pháp”, Tôn Tử đã đề cập hết các vấn đề lý luận quân sự thời Xuân thu, được phân 
tích với quan điểm biện chứng. Dù còn thô sơ  nhưng đã tổng két kinh nghiệm  
chiến tranh hơn một nghìn năm trước đó, trong đó trọng tâm là bàn đến phương 
pháp để giành thắng lợi trong chiến tranh. Tôn Tử đã chỉ ra quy luật: “Biết mình,  
biết người, trăm trận không nguy” [53, tr.78], “Việc binh là thuật dối trá, đánh vào  
nơi địch không phòng bị, ra quân lúc địch không ngờ”  [53, tr.61]. Hồ  Chí Minh 
nhận xét: “ ... Phép ông Tôn Tử  tuy đã lâu đời nhưng nguyên tắc đến nay vẫn là  
rất đúng. Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về quân sự đúng, mà dùng về  
chính trị  cũng rất hay”  [32, tr.513]. Người cũng đã vận dụng:  “Biết mình, biết  
giặc, trăm trận, trăm thắng” [34, tr.475]. Trong chỉ đạo tác chiến, Người cũng rất 
coi trọng việc nắm quyền chủ  động trông chiến đấu và phải  “tránh chỗ  mạnh,  
đánh chỗ  yếu” [34, tr.474]. Người cũng luôn chú ý đến nghệ  thuật lừa địch, đánh 

địch một cách bất ngờ để giành thắng lợi: “Về việc quân, không thể đường đường  
23


chính chính được mà bao giờ cũng phải áp dụng chiến dịch lừa dối... muốn thắng  
quân địch phải bầy mưu kế làm sao lừa được quân địch vào cạm bẫy, nên không  
thể không dùng chiến thuật giả dối được” [33, tr. 251­252].
Kế  thừa có chọn lọc, vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn 
cách mạng Việt Nam, trong khi binh pháp Tôn Tử lấy nhiều đánh ít “Có binh lực  
gấp mười lần địch thì bao vây nó, gấp năm lần địch thì tiến công... binh lực ít hơn  
địch thì nên tránh xa nó, điều kiện không bằng địch thì tránh giao chiến” [53, tr.81­
82]   thì   Hồ   Chí   Minh   dùng   phương   pháp   “lấy   ít   địch   nhiều”,   “lấy   yếu   chống 
mạnh”, không thể  là một đối một, không thể  bày thế  trận như  bên địch để  đánh. 
Kết quả dù quân ta ít và yếu hơn địch nhưng vẫn giành thắng lợi.
Ảnh hưởng của Kinh Dịch
Ở  Việt Nam, qua các triều đại và thời kỳ  luôn có người nghiên cứu Kinh 
Dịch. Các nhà nghiên cứu Việt Nam thường quan tâm đến nghĩa lý trong Kinh Dịch 
nhằm  ứng về  tư  tưởng đạo đức hay dùng vào việc binh pháp như  các tác phẩm: 
Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Dịch kinh phu thuyết của Lê Quý Đôn, 
Quốc văn Chu Dịch diễn giải của Phan Bội Châu, Lịch sử triết học Đông Phương 
của Nguyễn Đăng Thục, Kinh Dịch ­ Đạo của người quân tử  của Nguyễn Hiến 
Lê... Tiêu biểu của tư tưởng biện chứng trong kinh dịch là mối quan hệ giữa âm và  
dương.
Kinh dịch cho rằng: Trời đất, con người và xã hội luôn thay đổi. Sự  vận 
động của thế  giới là sự  tương tác, sự  đồng nhất và bài trừ  lẫn nhau của hai mặt  
đối lập: âm và dương, động và tĩnh, ngày và đêm, nóng và lạnh, cương và nhu,  
giống đực và giống cái, thịnh và suy, họa và phúc.., là sự  “tương sinh”, “tương 
khắc” của thủy, mộc, hỏa thổ, kim, là sự  tương tác giữa thiên ­ địa ­ nhân, sự 
thống nhất, đối lập và tác động qua lại đó là phổ  biến, khách quan và vận động,  
phát triển không ngừng, rằng con người sống giữa trời đất phải hành sự  sao cho 

phù hợp với quy luật của đất trời, phải có sự  giao hòa giữa con người và thiên 
24


nhiên “thiên nhân tương cảm”. 
Kinh dịch đề cập đến sự vận động và phát triển của vạn vật: trong “hệ từ 
thượng truyện” (Chương XI) có đoạn: “Dịch hữu thái cực, thị  sinh lưỡng nghi,  
lưỡng nghi sinh tứ  tượng, tứ  tượng sinh ra bát quái... Nghĩa là dịch có thái cực,  
thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ  tượng, tứ  tượng sinh ra bát  
quái” [24, tr.563].
Châu Liêm Khê giảng thêm  “Vô cực nhi sinh thái cực. Thái cực động nhi  
sinh Dương; động cực nhi tĩnh; tĩnh nhi sinh Âm; tĩnh cực phục động; nhất động  
nhất tĩnh, hỗ  vi kỳ  căn. Phân Âm phân Dương, Lưỡng nghi lập yên. Dương biến  
Âm hợp nhi sinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, Ngũ khí thuận bố, tứ  thời hành yên.  
Ngũ hành, nhất, Âm dương dã. Âm dương, nhất, Thái cực dã. Thái cực bản vô cực  
dã. Ngũ hành chi sinh dã, các nhất kỳ tính. Vô cực chi chân, nhị ngũ chi tinh, diệu  
hợp chi ngưng. Kiền đạo thành nam, Khôn đọa thành nữ; nhị  khí giao cảm, hóa  
sinh vạn vật; vạn vật sinh, sinh nhi biến hóa vô cùng yên. Nghĩa là: Vô cực mà là  
thái cực. Thái cực động thì sinh Dương; động cực thì tĩnh; tĩnh thì sinh Âm; tĩnh  
cực lại động; một động một tĩnh, cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi phân chia ra  
Âm dương thì Lưỡng nghi thành lập. Và đến lúc Dương biến, Âm hợp thì Thủy,  
Hỏa, Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm khí đó nếu được xếp đặt thuận hợp với nhau thì  
bốn mùa sẽ  vận hành đều đặn. Ngũ hành nếu hợp nhất thì thành Thái cực. Thái  
cực có gốc là vô cực. Ngũ hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. Cái Chân  
không của vô cực, cái tính chất của Âm dương và Ngũ hành, tất cả phối hợp một  
cách kỳ diệu và kết tụ với nhau. Thế rồi Đạo Kiền làm thành trai, Đạo Khôn làm  
thành gái; hai khí giao cảm mà sinh ra muôn vật; muôn vật sinh, rồi lại sinh, sinh  
sinh mãi và biến hóa vô cùng” [28, tr.32].
Sự  vận động trong Kinh Dịch luôn diễn ra liên tục theo một chu trình tuần 
hoàn, xuất phát từ  hai quẻ  Càn ­ Khôn (tượng trưng cho Âm ­ Dương), từng cặp 

đôi chuyển hóa lẫn nhau cho đến kết thúc vòng tuần hoàn 64 quẻ. Quá trình vận 
25


×