aaaaaa
TRƯỜNG ĐẠI HỌ
C SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
DƯƠNG VĂN LĨNH
TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN
Ở TỈNH SƠN LÀ HIỆN NAY
ĐÊ C
̀ ƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIÊT HOC
́
̣
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
DƯƠNG VĂN LĨNH
PHÊ
TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN
Ở TỈNH SƠN LÀ HIỆN NAY
Chuyên nganh
̀
Ma sô
̃ ́
: Triêt hoc
́ ̣
: 60.22.03.01
ĐÊ C
̀ ƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIÊT HOC
́
̣
2
Ngươi h
̀ ương dân khoa hoc
́
̃
̣ : PGS.TS
LÊ VĂN ĐOÁN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Việt Nam. Yêu nước, thương dân, cả cuộc đời người đấu tranh không mệt mỏi
vì tự do hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và phong phú về
cách mạng Việt Nam, là sự hun đúc, kết tinh từ những tinh hoa ưu tú nhất của
lịch sử tư tưởng dân tộc, thời đại và nhân loại; được trí tuệ, nhân cách Hồ Chí
Minh làm cho thăng hoa, trở thành giá trị văn hóa Việt Nam hiện đại. Hồ Chí
Minh không những nắm lấy cái tinh thần, phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa Mác Lênin, hòa quyện với tinh hoa biện chứng phương Đông vào thực
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam để phát hiện, giải quyết những vấn đề của lịch
sử cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo mà còn bổ sung mới, phát
triển và làm phong phú hơn chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại mới để tạo nên
cái riêng trong tư tưởng biện chứng của mình.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ được phản ánh trong các bài nói, bài
viết mà còn thể hiện qua quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng phong phú, đa
dạng, hiệu quả trong phong cách lối sống của Người và trên nhiều lĩnh vực.
Trong đó quan điểm nổi bật nhất là tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc kết hợp
3
giải phóng giai cấp mà cốt lõi là tinh thần đoàn kết dân tộc “Sự nghiệp cách
mạng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân và chỉ có thể thực hiện
được bằng sức mạnh của khối thống nhất toàn dân,…”.
Trong tinh thần đoàn kết, công tác vận động quần chúng nhân dân đoàn kết,
thống nhất, chung sức một lòng thực hiện cách mạng, điều đó thể hiện rõ nhất
sự phát triển tổng hợp của tư duy biện chứng, khoa học chính trị, nghệ thuật,
tinh tế và sâu sắc bởi nó chứa đựng những tinh hoa của lịch sử tư tưởng biện
chứng nhân loại nhưng không hề bị gò bó, máy móc mà Người vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo trong mọi hoàn cảnh cụ thể, ở mọi lĩnh vực và ngày càng
phổ biến hơn trong quá trình cùng nhân dân thực hiện chèo lái con thuyền cách
mạng.
Trong hoàn cảnh kháng chiến công tac vân đông quân chung
́ ̣
̣
̀
́ là vấn đề cấp
bách, còn trong sự phát triển lâu dài của cách mạng, đây là vấn đề mang tinh
́
chiến lược.
Đảng ta xác định: “Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta; là điều kiện quan
trọng đảm bảo có sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Bước vào công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được trong
lĩnh vực vận động quần chúng của Đảng. Song cũng bộc lộ những khuyết điểm
hạn chế. Tại Hội nghị triển khai chương trình hành động thực hiện nghị quyết
Đại hội XII (2752016) của Đảng về công tác dân vận. Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng chỉ rõ: “Đảng ta và Bác Hồ luôn xác định dân vận và công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước
ta…”.
4
“Bên cạnh những thành tích, tiến bộ công tác dân vận cũng còn những mặt
hạn chế, yếu kém mà Đại hội XII đã chỉ ra. Đó là: Việc cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận quyết định của Đảng về công tác dân
vận hiệu quả chưa cao; chưa đánh giá, dự báo kịp thời những diễn biến tư
tưởng nhân dân; chậm đổi mới nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần
chúng trong tình hình mới…”
Dân vận là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng
chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Công tác Dân vận không chỉ là vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, mà
còn là phương thức thu hút nhân dân vào việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách đó. Trong những hoạt động này vấn đề cốt lõi là phải quan tâm đến
lợi ích chính đáng của nhân dân. Vấn đề tưởng như đơn giản, dễ làm nhưng thực
tế đến nay nhiều lúc, nhiều nơi vẫn làm chưa tốt. Bên cạnh số đông cán bộ đảng
viên vẫn giữ được phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng, nạn tham ô, hối lộ vẫn còn xảy ra. Không ít đoàn thể cũng bị quan liêu
hoá, hành chính hoá, không chịu đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tập
hợp các tầng lớp nhân dân, làm giảm sự gắn bó của nhân dân với Đảng và Nhà
nước... những hiện tượng đó là tiếng chuông cảnh báo để chúng ta phải làm tốt
hơn nữa công tác dân vận. Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận bên cạnh
việc hoàn thiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn đang đặt ra còn
phụ thuộc rất lớn vào phương thức tiến hành dân vận.
Vì thế trong nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy
tư duy biện chứng trong phương pháp dân vận của Người trong giai đoạn hiện
nay còn giữ nguyên giá trị to lớn đôi v
́ ơi s
́ ự nghiêp cach mang n
̣
́
̣
ươc ta
́ . “Củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân
5
thực hiện tốt các chủ chương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng
lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Sơn La là tỉnh rừng núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, co diên tich
́ ̣ ́
14.174 km2 (đứng thứ 3 toan quôc),
̀
́ là nơi cùng sinh sống của 12 dân tộc thiểu vơí
gân 1,2 triêu dân
̀
̣
. Việc phát triển bền vững kinh tế xã hội và quốc phòng an
ninh ở tỉnh Sơn La có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển chung của
cả nước. Tuy nhiên, trong những năm qua, cùng với các tỉnh của Tây Nam Bộ,
Tây Nguyên thì Sơn La thuộc vùng Tây Bắc cũng là điểm nóng về bất ổn chính
trị, kinh tế xã hội cần được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc hơn. Chính
những lý do đó đã thôi thúc tác giả chọn đề tài “Tư duy biện chứng của Hồ Chí
Minh và ý nghĩa của nó đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay” để
làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu tư tưởng triết học và công tác dân vận của Hồ Chí Minh
đã được nhiều nhà khoa học đề xuất về hướng nghiên cứu và nội dung nghiên
cứu nên cũng đã có một số công trình như sau:
Thứ nhất, Nhóm các công trình về Phương pháp và phong cách của Hồ Chí
Minh:
Tiêu biểu nhất là cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh GS
Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, 2004. Tác giả đã trình bày một
cách có hệ thống các lý luận về phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh và phân
tích khá cặn kẽ nội dung, ý nghĩa của phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra và phân tích rõ tính biện chứng trong các phương
pháp cách mạng trên. Đây là một trong số những tài liệu đầu tiên nghiên cứu về
phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh từ đó mở đường và đưa việc nghiên
cứu phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh lên tầm cao mới.
6
Cuốn sách thứ hai cũng liên quan đến đề tài này là cuốn Tìm hiểu phương
pháp Hồ Chí Minh của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Nxb Lý luận Chính trị Hành
Chính, Hà Nội (2011). Cuốn sách là công trình đầy đặn, công phu thể hiện tâm
huyết của một nhà khoa học đã có sự thấu hiểu sâu sắc về con người và phương
pháp Hồ Chí Minh. Từ những quan điểm mang tính chất gợi mở, GS.TS Hoàng
Chí Bảo đã chỉ ra sự hình thành phương pháp Hồ Chí Minh, bước đầu nêu ra và
phân tích những đặc điểm chủ yếu của phương pháp Hồ Chí Minh, từ đó bước
đầu vận dụng vào tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh chứ chưa đi vào tìm
hiểu và phân tích tính biện chứng trong các phương pháp cách mạng. Về cơ bản,
cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống phương pháp Hồ Chí Minh và bước
đầu gợi mở cho các nhà nghiên cứu về phương pháp Hồ Chí Minh sau này.
Thứ hai, Nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng và tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh:
Các cuốn sách tiêu biểu là Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh của Viện Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1993, tập 3; Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh do Lê Hữu
Nghĩa (Chủ biên), Nxb Lao Động, Hà Nội, 2000; Góp phần tìm hiểu tư duy đặc
sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh của tác giả Hồ Kiếm Việt, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh của tác giả Bùi
Đình Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Hồ Chí Minh, nhà cách mạng
sáng tạo của Mạch Quang Thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Phạm Ngọc Anh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010; và tiêu biểu nhất là cuốn Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài của GS.
Trần Nhâm, Nxb Lý luận Chính trị quốc gia, Hà Nội (2011).
Các công trình trên đã mở rộng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên các
vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng. Nắm rõ tình hình thực tiễn của thế
giới và Việt Nam những năm 1930, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin,
Hồ Chí Minh đã khởi thảo và chỉ rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam
7
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tầm cao về tư duy chiến lược của Hồ
Chí Minh và Đảng ta chính là tầm nhìn bao quát, hiểu được bản chất ẩn náu bên
trong những vấn đề cơ bản đề từ đó đề ra các chiến lược, chuyển hướng chiến
lược hợp lý. Đặc biệt chiến lược xuyên suốt trong quá trình kết hợp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, nổi lên trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là tư
tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Sự thiên tài trong tư tưởng Hồ Chí Minh vấn đề
được tác giả xem như là trung tâm phân tích trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh
được thể hiện rõ trong tư duy mới về Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí Minh,
Đảng, Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Xây
dựng Đảng ta thành một đảng trí tuệ, một đảng trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Điểm mới
cuốn sách “Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài” là đi sâu làm rõ tư tưởng triết
học và nhận thức luận Hồ Chí Minh. Mặc dù Hồ Chí Minh không đi sâu vào tìm
hiểu các vấn đề triết học nhưng không thể nói rằng toàn bộ hệ thống tư tưởng,
lý luận của Người không mang dấu ấn của quan điểm duy vật triệt để trong triết
học. Đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn
và nhân sinh, triết học giải phóng và phát triển.
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ làm nổi bật phép biện chứng
được hình thành một cách tự nhiên, sáng tạo từ nhiều nguồn, nhiều hướng, nhiều
cơ sở khác nhau mà còn nhấn mạnh nhận thức luận của Người qua quá trình
thực tiễn hóa lý luận và lý luận hóa thực tiễn. “Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông”.
Thứ ba, Nhóm các công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Hồ Chí
Minh:
8
Tác phẩm “Dân vận” của chính trực tiếp Hồ Chí Minh viết được in
trong Bộ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr. 232.
Về hình thức: Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề (chỉ vỏn vẹn 2
từ), đến dung lượng (chỉ có 573 từ); được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, gần
gũi với quần chúng; văn phong súc tích, có tính khái quát cao.
Về nội dung: Giản dị, ngắn gọn mà không hề sơ lược. Tác phẩm “Dân
vận” đã gói ghém một cách đầy đủ và sâu sắc những quan điểm, tư tưởng của
Hồ Chí Minh về công tác này.
Về tầm quan trọng của công tác dân vận: Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Về mục đích của công tác dân vận: Cái đích chung và cao nhất của sự
nghiệp cách mạng mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương trước sau vẫn là “từ
dân, vì dân, cho dân”.
Về bản chất của công tác dân vận: Theo Hồ Chí Minh, thực chất hay bản
chất của công tác dân vận, chính là nhằm “vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân,
để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể
đã giao cho...”.
Về lực lượng làm công tác dân vận: Chỉ rõ ai là người làm công tác dân vận
Về cách thức, phương pháp làm công tác dân vận: Óc nghĩ, mắt trông, tai
nghe, miệng nói, tay làm, chân đi.
Tác phẩm Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
của Đỗ Mười trong bài phát biểu tại hội thảo tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đăng trên tạp chí dân vận số 121993, NXB Chính trị Quốc gia – Sự
thật 2014.
Tiêu biểu là cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam của Trường Chinh, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1991 và cuốn sách Tư
9
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ Nguyên Giáp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ:
Lương Văn Kham: Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2001.
Nguyễn Đức Đạt: Một số quan điểm biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2002.
Tuy nhiên, các công trình, giáo trình, luận án, bài viết chỉ mới "gợi mở",
"khái quát" hoặc chỉ mới đề cập đến phương pháp cách mạng, triết lý phát triển,
quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa giai cấp và dân tộc... Xin trích
dẫn "Lời Nhà xuất bản Lao động Hà Nội" viết cho bản in lần thứ 2 năm 2000 tác
phẩm Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh": "Riêng về tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh thì hầu như rất ít người nghiên cứu, đề tài này hầu như còn mới mẻ sơ
khai" Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh cũng như Tư
tưởng biện chứng trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh chưa có điều kiện
đề cập một cách có hệ thống và phân tích cặn kẽ đến những nội dung của những
vấn đề đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh, từ đó tác giả
hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm, tư tưởng biện chứng của Người
trong công tác dân vận trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến đề xuất mang lại hiệu
quả cho công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
4.2. Đối tượng nghiên cứu
10
Tư duy biện chứng trong công tác dân vận của Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết khoa học
Nghiên cứu khai quat hoa nh
́
́ ́ ưng quan điêm biên ch
̃
̉
̣
ứng cua
̉ Người. Trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp vào thực tiễn trong công tác dân vận đối với tỉnh
Sơn La hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những vấn đề lý luận chung về tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
Nội dung công tác dân vận trong tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh
Rút ra ý nghĩa thực tiễn đưa ra các giải pháp đối với tỉnh Sơn La hiện nay.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư duy biện chứng Hồ Chí Minh; ý nghĩa của nó đối
với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích – tổng hợp, logic
– lịch sử, khái quát hóa, thống kê, so sánh,…
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn dự kiến gồm 2 chương 7 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Từ mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn tập trung chủ yếu vào
một số luận điểm cơ bản sau:
Một là, Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng, phát triển sáng
tạo tư tưởng biện chứng phương Đông, phương Tây mà tiêu biểu là tư tưởng
biện chứng cua
̉ Trung Hoa và tư tưởng biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin
11
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hai là, hệ thống tư duy biện chứng Hồ Chí Minh trong công tác dân vận
mang tính khoa học và cách mạng.
Ba là, vận dụng tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh có vai trò, ý nghĩa to
lớn đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện nay.
10.2. Đóng góp mới của tác giả
Vê ly luân: H
̀ ́ ̣
ệ thống hóa tư duy biện chứng Hồ Chí Minh.
Vê th
̀ ực tiên: Y
̃ ́ nghĩa của nó đối với công tác dân vận ở tỉnh Sơn La hiện
nay.
12
Chương 1
TƯ DUY BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Tư duy
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần,
đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt
động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích
cực với nó.
Theo cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (Nhà xuất bản Từ
điển bách khoa. Hà Nội. 2005); Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ
chức một cách đặc biệt bộ não con người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực
khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận.v.v...
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật
chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lý thuyết, Karl Marx cho rằng: “Vận
động kiểu tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển
vào và được cải tạo/tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh”.
Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Biện chứng: Biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng
và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của
chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Tư duy biện chứng: Tư duy biện chứng là quá trình tâm lý được xây dựng
trên cơ sở xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại, tác động lẫn
nhau ảnh hưởng, chi phối vừa thống nhất vừa đấu tranh, luôn vận động và phát
triển.
13
Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh: Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là sản
phẩm tổng hợp của sự kế thừa những tư tưởng biện chứng trong l ịch s ử v ới vi ệc
tổng kết những tính chất biện chứng của cách mạng Việt Nam và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn xã hội Việt Nam.
Dân vân
̣ : Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi
người dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước dân.
Theo Hồ Chủ tịch, “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
người dân, không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực
hành những công việc nên làm, những công việc mà đoàn thể và Chính phủ đã
giao cho” (bài báo “Dân vận” của Người đăng trên Báo Sự Thật với bút danh
X.Y.Z (ngày 15101949).
Công tac dân vân
́
̣ : Công tác dân vận là toàn bộ các hoạt động của Đảng
đối với quần chúng nhằm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo cho lợi
ích thiết thực của nhân dân, huy động tối đa lực lượng toàn dân thực thắng lợi
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh đưa ra quy trình công tác dân vận:
+ Phải cho dân biết: Quyền làm chủ của nhân dân, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, thông tin thời sự, chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý mình.
+ Giải thích cho dân hiểu: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho
mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ
phải hăng hái làm cho kỳ được".
+ Bày cách cho dân làm: "phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm
của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành". Và "Trong lúc thi hành phải theo
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân".
14
+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soát: “Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm
thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
Theo Hồ Chí Minh, mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng, tâm mới
đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm, thì làm mới chóng. Đó chính là khẩu
hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà ngày nay chúng ta thường đề
cập tới.
1.2. Qua trinh
́ ̀ hình thành tư duy biện chứng Hồ Chí Minh
1.2.1. Truyền thống cách mạng Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm, trải qua mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược, dân tộc ta đã xây dựng nên rất nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp trong
đó có truyền thống yêu nước phát triển đến đỉnh cao, trở thành chủ nghĩa yêu
nước. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm cao quý của dân tộc ta, nó trở thành đạo
lý, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, là động lực to lớn tạo nên sức mạnh để
nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước là tình yêu quê hương đất nước, tinh
thần đoàn kết gắn bó cộng đồng, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân
tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần bất khuất, tự cường, đạo lý uống nước
nhớ nguồn... trên tinh thần nhân văn, nhân ái…
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam chứa đựng những yếu tố biện chứng sâu sắc.
Trong đó, một số yếu tố đã ảnh hưởng đến tư duy biện chứng Hồ Chí Minh.
Một là, đoàn kết gắn bó cộng đồng dân tộc.
Đây là sự thống nhất, đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc để tạo
thành sức mạng tổng hợp chống lại mọi khó khăn, gian khổ, mọi kẻ thù xâm lược.
Đất nước Việt Nam nhỏ bé từ xa xưa đã phải chống chọi với thiên tai lũ lụt
khắp nơi, để chống chọi với thiên tai, ngoại xâm đòi hỏi mọi người dân phải đoàn
kết đồng lòng, góp sức mới có thể thực hiện được. Do vậy, tinh thần đoàn kết của
15
nhân dân ta bắt nguồn từ ấy, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày
càng được phát triển mạnh mẽ hơn đặc biệt là trong công cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược, tinh thần đoàn kết ấy càng phát triển rực rỡ hơn, trở thành một
truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Với vị trí địa lý luận lợi, giàu có về nguồn lợi tài nguyên, là trung tâm giao
lưu kinh tế, văn hóa của các vùng, miền của khu vực nên các thế lực ngoại xâm đã
thực hiện nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Tuy là một quốc gia nhỏ bé, ít về số
lượng, yếu về sức mạnh, thô sơ về vũ khí nhưng bằng tinh thần đoàn kết, quyết
tâm chống lại mọi kẻ thù xâm lược, cha ông ta đã làm nên những chiến thắng oai
hùng.
Nhà Trần ở thế kỷ thứ XIII đã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông và
Trần Quốc Tuấn đã chỉ rõ nguyên nhân là do: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa
thuận, cả nước góp sức” [23, tr.215]. Để có được sức mạnh to lớn từ sự đoàn kết
đó, Trần Quốc Tuấn đã chủ trương: “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế
bền sâu gốc rễ, đó là thượng sách giữ nước” [23, tr.215].
Đầu thế kỷ XV, nhà Hồ cũng kháng chiến chống quân Minh xâm lược, dù đã
xây dựng được lực lương quân thường trực khá mạnh nhưng cũng đã thất bại vì
không đoàn kết được toàn dân. Cũng trong thắng lợi của kháng chiến chống quân
Minh, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ nguyên nhân là do đã đoàn kết, tập hợp được lực
lượng dân chúng: “Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng” [23,
tr.259]. Ông đã nhìn thấy công lao, sức mạnh của dân chúng cũng như vai trò quyết
định sự thịnh suy của dân tộc.
Thấy được sức mạnh của đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói: “Sử ta dạy
bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự
do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [32, tr.217].
Để rồi, trong tiến trình đấu tranh cách mạng của mình, Người luôn kêu gọi:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
16
Thành công, thành công, đại thành công” [39, tr. 607].
Người luôn kêu gọi toàn dân thống nhất, đoàn kết trên cùng một mặt trận.
Người kêu gọi tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, không phân biệt già trẻ, gái trai. Ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân thì đoàn kết với họ. Với tinh thần đó
trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dân
tộc ta đã làm nên những thắng lợi vĩ đại, vang dội khắp năm châu, chấn động địa
cầu.
Hai là, Kết hợp giữa kiên định mục tiêu của cuộc kháng chiến với linh hoạt,
sáng tạo trong các hình thức và phương pháp tiến hành chiến tranh giữ nước.
Để chiến thắng nhiều kẻ thù khác nhau, ông cha ta đã sáng tạo và vận dụng
linh hoạt nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh thực tế ở nước ta, giải quyết thành công vấn đề lấy nhỏ thắng
lớn, “lấy ít địch nhiều”, tùy thời cơ mà dùng mưu lược để thắng địch.
Trần Quốc Tuấn đã nhận định: “Tóm lại, giặc cậy trường trận, ta cậy đoản
binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến
ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu chúng đi chậm như cách tầm ăn,
không cần của dân, không cần được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét
quyền biến như đánh cờ vậy, tùy thời mà làm” [23, tr. 215]. Trần Quốc Tuấn luôn
bám sát thế trận để đề ra nhiều phương pháp tác chiến, cách đánh với nội dung và
hình thức phù hơp: lúc đánh du kích, khi đánh lẻ tẻ phân tán, khi tập trung công
kích, khi lại rút lui, lợi dụng khí hậu, địa hình hiểm trở, dùng mưu trí lừa địch...
với hình thức, quy mô khác nhau để giành thắng lợi. Tư tưởng biện chứng trong
phương pháp đánh giặc ấy đã được thể hiện rất rõ ràng.
Đến thế kỷ XV, Nguyễn Trãi cũng đưa ra nhiều cách đánh sáng tạo, độc đáo
là tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, dùng quân mai phục để đánh bất ngờ, phát huy
mọi thế mạnh của ta đánh vào chỗ sơ hở của địch, đánh vào chỗ mà địch không
17
ngờ tới, tạo điều kiện để chỗ mạnh của địch không thể phát huy, còn chỗ yếu của
ta thì được bù đắp, không những thế còn chuyển thành chỗ mạnh, ít có thể địch
được nhiều, yếu có thể thắng được mạnh. Từ thực tế cách mạng, Nguyễn Trãi đã
khái quát:
“Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ” [23, tr.65].
Bên cạnh việc đánh địch trên mặt trận quân sự, cha ông ta còn đánh địch trên
các mặt mặt chính trị, ngoại giao... Sự kết hợp nhiều cách đánh trên nhiều mặt
trận sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp chiến thắng moị kẻ thù. Tiêu biểu là Lý
Thường Kiệt, khi quân giặc lâm vào tình thế quẫn bách, ông đã chủ động điều
đình trên mặt trận ngoại giao để mở lối thoát cho quân giặc nhằm chấm dứt chiến
tranh trong điều kiện có lợi nhất cho ta. Trên mặt trận chính trị, ông đã đánh địch
qua bài thơ bất hủ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Như đẳng hành khan thủ bại hư [23, tr. 181].
Đến Nguyễn Trãi, sự kết hợp đánh giặc bằng quân sự, chính trị, ngoại giao
đã đạt đến trình độ mới. Một mặt, ông cùng Lê Lợi hoạch định âm mưu, mặt khác,
ông đấu tranh với kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng và lý luận. Ông coi đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng và lý luận cũng góp phần rất quan trọng cho thắng lợi của
kháng chiến. Tư tưởng ấy thể hiện rất rõ trong tác phẩm Bình ngô đại cáo, khẳng
định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nước Đại Việt ta, bất cứ kẻ nào
xâm phạm đều bị đánh bại.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tư tưởng đánh giặc của cha ông, vận dụng sáng
tạo và phát triển cách đánh ấy vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đề ra
phương pháp tác chiến rất sáng tạo: “Dụ giặc vào bẫy để đánh” [32, tr.475];
18
Người đòi hỏi phải “Thiên biến vạn hóa, xuất quỷ nhập thần” [32, tr.470]; “Náo
phía đông, đánh phía tây” [32, tr.474]... Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí
Minh có sự kết hợp linh hoạt đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp
giữa khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược, đánh địch bằng ba mũi giáp công, vừa đánh vừa đàm... Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã chứng minh sự kết hợp ấy hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo,
làm nên sức mạnh to lớn đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành công.
1.2.2 Bản thân Hồ Chí Minh và quá trình tìm đường cứu nước
Việt Nam là một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc hậu ở Đông Dương,
cũng không thoát khỏi thân phận là thuộc địa của thực dân Pháp. Sau Cách Mạng
Tháng Mười Nga, Việt Nam cũng là nơi hội tụ hầu hết những mâu thuẫn lớn của
thời đại. Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng liên tiếp nổ ra
nhưng đều lần lượt bị thất bại vì bế tắc về đường lối, khủng hoảng lực lượng
lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Nhưng, cũng vì vậy mà tư
tưởng chống Pháp, nguyện vọng giải phóng dân tộc ngày càng trở nên thiết tha
mãnh liệt, nhất là đối với những tầng lớp tri thức có lòng yêu nước nồng nàn. Đa
số họ xuất thân từ tầng lớp khoa bảng, thấm nhuần học thuyết Nho giáo và các
học thuyết phương Đông khác, đồng thời lại được tiếp thu ít nhiều tri thức mới
của phương Tây, nhất là văn minh Pháp. Tuy nhiên, tất cả những con đường giải
phóng dân tộc mà họ tìm kiếm vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn trước
đây…
Trong bối cảnh lịch sử ấy của đất nước và của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh sinh ra và lớn lên, nhận sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, thực hiện dân
chủ, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường mà Cách mạng tháng
mười Nga đã vạch ra. Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng ấy là nguồn gốc
đầu tiên quy định mục tiêu, khơi nguồn động lực cho việc hình thành và phát triển
những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh.
19
Hồ Chí Minh sinh ra ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An một
vùng quê giàu truyền thống yêu nước, thương người. Ông và cha của Người ở cả
hai bên nội, ngoại đều đỗ đạt cao trong các kỳ thi Nho giáo. Họ đều là những nho
sĩ tiến bộ, có ý nguyện an dân dựng nước. Tiêu biểu nhất là người cha đáng kình
của Người. Người cũng được học tập khá kĩ lưỡng những tri thức phù hợp với
truyền thống dân tộc của nho giáo, Lão giáo, Phật giáo. Mặc gia, Pháp gia và nhiều
học thuyết phương Đông. Cuộc sống vất vả ở quê hương đã nuôi dưỡng những
tình cảm ban đầu của Hồ Chí Minh. Đó là lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, kính
trọng người già, có nghĩa khí, nhất là đối với các nghĩa sỹ chống Pháp; thương yêu
và giúp đỡ mọi người; căm ghét bọn thực dân Pháp xâm lược và thờ ơ với triều
đình nhà Nguyễn. Ở đâu người cũng thấy sự bóc lột dã man tàn bạo của thực dân
Pháp, sự thối nát, hèn hạ của triều đình nhà Nguyễn. Ở đâu, Người cũng thấy nỗi
đau mất nước đầy ắp trong tâm khảm mỗi người Việt Nam yêu nước. Người còn
chứng kiến tận mắt sự thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp lúc
bấy giờ.
Thực tế cuộc sống đã thúc đẩy Hồ Chí Minh tích lũy thêm những kiến
thức khác nhau, sàng lọc những tư tưởng tiến bộ, loại bỏ dần những tư tưởng l ạc
hậu, lỗi thời, nhất là sau khi được tiếp xúc với những tư tưởng mới của các nhà
cải cách Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy và Tôn Trung Sơn. Có
lẽ đó cũng là cái cầu nối khiến người lưu ý đến các nhà triết học khai sáng Pháp.
Với vốn thực tế và tri thức mới, Hồ Chí Minh không đồng ý đi theo con đường
“bạo động”, “duy tân”… mà để tâm tìm con đường khác cứu dân, cứu nước Hồ
Chí Minh đã quyết định sang Pháp để thực hiện mục tiêu đó. Năm 1911, với hai
bàn tay trắng, Người lên một chuyến tàu buôn sang Pháp.
Dân tộc Việt Nam có những tư tưởng triết học sâu sắc và độc đáo, được
hình thành sớm, được bổ sung và tích lũy qua nhiều thế hệ cũng với sự thăng trầm
của lịch sử. Rõ ràng nhất là tư tưởng nhân văn sâu sắc của Việt Nam với những
20
triết lí như “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” , “ba cây
chụm lại” “lao động là tiêu chuẩn đạo đức”, “một dân tộc độc lập và một quốc gia
có chủ quyền”… luôn luôn được Hồ Chí Minh trân trọng, nuôi dưỡng và vận dụng
trong mọi quá trình cách mạng, dưới những hình thức mới như “lao động là vẻ
vang”, “nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn”, “đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, “không có gì quý hơn
độc lập tự do”… Có thể nói, những tư tưởng triết học truyền thống của dân tộc
Việt Nam là cội nguồn, là yếu tố nội sinh được tích tụ một cách tự nhiên trong tư
tưởng triết học của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã biết hội tụ trong mình hầu như tất cả những giá trị triết học
của dân tộc, biết phát triển, và nâng chúng lên ở trình độ mới với hình thức mới.
Trước hết là tư tưởng “trời, đất và con người hòa hợp”. Trong đó, con người có
thể “đội đá vá trời” , “dời núi, lấp sông, lấp biển” “nhân địch thắng thiên”. Tư
tưởng này càng được củng cố và ổn định khi được bổ sung bởi tư tưởng “thiên
nhân hợp nhất” của triết học Nho, Phật, Lão du nhập vào Việt nam những năm
đầu công nguyên.
Là một nước nhỏ ở gần hai nền văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Hoa nên
Việt Nam đã tiếp thu hai nền văn hóa đó để làm giàu cho tư tưởng cũng như nền
văn hóa của mình. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng từ hai
nền văn hóa đó đặc biệt là biện chứng của Nho giáo, biện chứng trong tác phẩm
Kinh Dịch và biện chứng của Phật giáo.
Ảnh hưởng của Nho giáo
Nho giáo chủ trương “Nhập thế”, “chính danh”, “hành đạo”, phải có hành
động tích cự với đời, phải “tận lực”... Người quân tử phải xả thân vì Nhân, vì
Nghĩa... Triết lý Nho giáo là triết lý hành động, giúp đời, cứu người.
Nho giáo vào Việt Nam đã kết hợp với chủ nghĩa yêu nước truyền thống tạo
thành những tiêu chuẩn cụ thể của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng... Là đánh giặc giữ
21
nước, cứu dân khỏi vòng nô lệ. Hồ Chí Minh đã sử dụng nhưng phát triển sáng tạo
các giá trị của học thuyết chính trị đạo đức của Nho giáo.
Nho giáo chủ trương xây dựng một “Thế giới đại đồng”, “thiên nhân hợp
nhất” một “Xã hội bình trị” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, một xã hội mà
“mọi nhà ban đêm không cần đóng cửa”. Đặc biệt, với tư tưởng “Tam tài thống
nhất” Nho giáo đã chỉ rõ con người là một yếu tố trong tam giác thiên, địa, nhân. Ở
đó, con người có vai trò là chủ thể tác động vào trời đất. Tuân Tử đã khẳng định:
“Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị” [18, tr.104].
Nhận thấy mối quan hệ thiên, địa, nhân trong Nho giáo, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi
và nhân hòa” [34, tr.479]. Người luôn coi trọng sự kết hợp giữa ba yếu tố đó để
tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Người cũng thấy rõ vai trò, vị trí của ba yếu
tố đó: “Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan
trọng bằng nhân hòa” [34, tr.479]. Người khẳng định có hòa thuận, đoàn kết, nhất
trí giữa mọi người thì mới có lực lượng vững mạnh, mới khơi dậy được tiềm
năng, sức mạnh, mới tạo được thời cơ và tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi cho
sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng dùng
đức trị quốc của Nho giáo. Các phạm trù: “nhân”, “trung”, “hiếu” hay “tài”, “đức”
và mối quan hệ biện chứng của những phạm trù đó trong lối sống của người quân
tử, người cách mạng đã thể hiện một cốt cách hiếm có của Hồ Chí Minh. Người
không chỉ đã biết loại bỏ ở đạo đức cũ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực mà còn kế
thừa và phát triển những mặt tích cực của đạo đức truyền thống phương Đông để
xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục cho nhân dân nhằm phục vụ cho sự
nghiệp cứu nước, cứu nhà của dân tộc ta.
Nho giáo chủ trương “Nhập thế”, “Hành đạo”, “Nhân nghĩa”, còn Đạo gia
thì chủ trương “Xuất thế”, “Vô vi”, “Lấy nhu thắng cương”. Nho gia và Đạo gia là
22
hai hệ tư tưởng đối lập nhau. Nhưng Hồ Chí Minh đã tìm ra được sự thống nhất
của hai cái “đối lập” đó, khi dân khổ, mất nước thì phải xả thân vì nước, vì dân,
đến khi nước đã giành được độc lập, nhân dân được âm no thì “thân thoái”, trở về
sống cảnh điền viên, gần gũi với thiên nhiên và người dân lao động. Người tâm
sự: “Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để
câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu,
không dính líu gì với vòng danh lợi” [33, tr.161].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo mối quan hệ giữa
lực, thế, thời trong tư tưởng biện chứng Phương Đông. Đó là cơ sở cho tư tưởng
chỉ đạo chiến lược tạo lực, lập thế, tranh thời sáng suốt của Người. Điều đó được
chứng minh qua hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ.
Bên cạnh Nho gia Đạo gia, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng từ tư tưởng
biện chứng trong phương pháp dùng binh của Tôn Tử. Với tác phẩm “Tôn tử binh
pháp”, Tôn Tử đã đề cập hết các vấn đề lý luận quân sự thời Xuân thu, được phân
tích với quan điểm biện chứng. Dù còn thô sơ nhưng đã tổng két kinh nghiệm
chiến tranh hơn một nghìn năm trước đó, trong đó trọng tâm là bàn đến phương
pháp để giành thắng lợi trong chiến tranh. Tôn Tử đã chỉ ra quy luật: “Biết mình,
biết người, trăm trận không nguy” [53, tr.78], “Việc binh là thuật dối trá, đánh vào
nơi địch không phòng bị, ra quân lúc địch không ngờ” [53, tr.61]. Hồ Chí Minh
nhận xét: “ ... Phép ông Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng nguyên tắc đến nay vẫn là
rất đúng. Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về quân sự đúng, mà dùng về
chính trị cũng rất hay” [32, tr.513]. Người cũng đã vận dụng: “Biết mình, biết
giặc, trăm trận, trăm thắng” [34, tr.475]. Trong chỉ đạo tác chiến, Người cũng rất
coi trọng việc nắm quyền chủ động trông chiến đấu và phải “tránh chỗ mạnh,
đánh chỗ yếu” [34, tr.474]. Người cũng luôn chú ý đến nghệ thuật lừa địch, đánh
địch một cách bất ngờ để giành thắng lợi: “Về việc quân, không thể đường đường
23
chính chính được mà bao giờ cũng phải áp dụng chiến dịch lừa dối... muốn thắng
quân địch phải bầy mưu kế làm sao lừa được quân địch vào cạm bẫy, nên không
thể không dùng chiến thuật giả dối được” [33, tr. 251252].
Kế thừa có chọn lọc, vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam, trong khi binh pháp Tôn Tử lấy nhiều đánh ít “Có binh lực
gấp mười lần địch thì bao vây nó, gấp năm lần địch thì tiến công... binh lực ít hơn
địch thì nên tránh xa nó, điều kiện không bằng địch thì tránh giao chiến” [53, tr.81
82] thì Hồ Chí Minh dùng phương pháp “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống
mạnh”, không thể là một đối một, không thể bày thế trận như bên địch để đánh.
Kết quả dù quân ta ít và yếu hơn địch nhưng vẫn giành thắng lợi.
Ảnh hưởng của Kinh Dịch
Ở Việt Nam, qua các triều đại và thời kỳ luôn có người nghiên cứu Kinh
Dịch. Các nhà nghiên cứu Việt Nam thường quan tâm đến nghĩa lý trong Kinh Dịch
nhằm ứng về tư tưởng đạo đức hay dùng vào việc binh pháp như các tác phẩm:
Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Dịch kinh phu thuyết của Lê Quý Đôn,
Quốc văn Chu Dịch diễn giải của Phan Bội Châu, Lịch sử triết học Đông Phương
của Nguyễn Đăng Thục, Kinh Dịch Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến
Lê... Tiêu biểu của tư tưởng biện chứng trong kinh dịch là mối quan hệ giữa âm và
dương.
Kinh dịch cho rằng: Trời đất, con người và xã hội luôn thay đổi. Sự vận
động của thế giới là sự tương tác, sự đồng nhất và bài trừ lẫn nhau của hai mặt
đối lập: âm và dương, động và tĩnh, ngày và đêm, nóng và lạnh, cương và nhu,
giống đực và giống cái, thịnh và suy, họa và phúc.., là sự “tương sinh”, “tương
khắc” của thủy, mộc, hỏa thổ, kim, là sự tương tác giữa thiên địa nhân, sự
thống nhất, đối lập và tác động qua lại đó là phổ biến, khách quan và vận động,
phát triển không ngừng, rằng con người sống giữa trời đất phải hành sự sao cho
phù hợp với quy luật của đất trời, phải có sự giao hòa giữa con người và thiên
24
nhiên “thiên nhân tương cảm”.
Kinh dịch đề cập đến sự vận động và phát triển của vạn vật: trong “hệ từ
thượng truyện” (Chương XI) có đoạn: “Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi,
lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái... Nghĩa là dịch có thái cực,
thái cực sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát
quái” [24, tr.563].
Châu Liêm Khê giảng thêm “Vô cực nhi sinh thái cực. Thái cực động nhi
sinh Dương; động cực nhi tĩnh; tĩnh nhi sinh Âm; tĩnh cực phục động; nhất động
nhất tĩnh, hỗ vi kỳ căn. Phân Âm phân Dương, Lưỡng nghi lập yên. Dương biến
Âm hợp nhi sinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, Ngũ khí thuận bố, tứ thời hành yên.
Ngũ hành, nhất, Âm dương dã. Âm dương, nhất, Thái cực dã. Thái cực bản vô cực
dã. Ngũ hành chi sinh dã, các nhất kỳ tính. Vô cực chi chân, nhị ngũ chi tinh, diệu
hợp chi ngưng. Kiền đạo thành nam, Khôn đọa thành nữ; nhị khí giao cảm, hóa
sinh vạn vật; vạn vật sinh, sinh nhi biến hóa vô cùng yên. Nghĩa là: Vô cực mà là
thái cực. Thái cực động thì sinh Dương; động cực thì tĩnh; tĩnh thì sinh Âm; tĩnh
cực lại động; một động một tĩnh, cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi phân chia ra
Âm dương thì Lưỡng nghi thành lập. Và đến lúc Dương biến, Âm hợp thì Thủy,
Hỏa, Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm khí đó nếu được xếp đặt thuận hợp với nhau thì
bốn mùa sẽ vận hành đều đặn. Ngũ hành nếu hợp nhất thì thành Thái cực. Thái
cực có gốc là vô cực. Ngũ hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. Cái Chân
không của vô cực, cái tính chất của Âm dương và Ngũ hành, tất cả phối hợp một
cách kỳ diệu và kết tụ với nhau. Thế rồi Đạo Kiền làm thành trai, Đạo Khôn làm
thành gái; hai khí giao cảm mà sinh ra muôn vật; muôn vật sinh, rồi lại sinh, sinh
sinh mãi và biến hóa vô cùng” [28, tr.32].
Sự vận động trong Kinh Dịch luôn diễn ra liên tục theo một chu trình tuần
hoàn, xuất phát từ hai quẻ Càn Khôn (tượng trưng cho Âm Dương), từng cặp
đôi chuyển hóa lẫn nhau cho đến kết thúc vòng tuần hoàn 64 quẻ. Quá trình vận
25