Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đáp ứng nội tiết của xạ phẫu cho u tuyến yên chế tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.61 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học

ĐÁP ỨNG NỘI TIẾT CỦA XẠ PHẪU CHO U TUYẾN YÊN CHẾ TIẾT
Nguyễn Văn Đô*, Nguyễn Văn Khôi**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Để kiểm tra kết quả điều trị của xạ phẫu Gamma cho u tuyến yên chế tiết.
Vật liệu và phương pháp: 29 bệnh nhân có u tuyến yên chế tiết được điều trị bằng xạ phẫu Gamma với
thời gian theo dõi hơn 12 tháng.
Kết quả: Đối với loại u tiết Prolactin, 4 trong 8 bệnh nhân (50%) bình thường hóa nồng độ Prolactin huyết
thanh với thời gian trung bình là 18 tháng. Hai trong tám trường hợp đã có giảm hơn 50% nhưng vẫn còn ở mức
Prolactin cao bất thường. Đối với các u tiết Adrenocorticotrophic, 6 trong số 12 bệnh nhân (50%) nồng độ nội tiết
trở về mức bình thường trong thời gian trung bình 10 tháng. Trong đó 2 trường hợp đã giảm hơn 50%. Đối với
các u tiết hormon tăng trưởng, 4 trong số 9 bệnh nhân (44%) nồng độ nội tiết trở về mức bình thường trong thời
gian trung bình là 30 tháng. Hai bệnh nhân (22%) có hơn 50% mức độ nội tiết thấp hơn trước điều trị nhưng
chưa đạt mức bình thường.
Kết luận: Xạ phẫu Gamma rất hiệu quả trong việc điều trị các u tuyến yên chế tiết. Thời gian đáp ứng nội
tiết ngắn hơn, nguy cơ tổn thương thần kinh thị giác thấp hơn so với xạ trị đa phân liều.
Từ khóa: Xạ phẫu bằng dao Gamma, adenom tuyến yên chế tiết, đáp ứng nội tiết, đáp ứng khối u.

ABSTRACT
ENDOCRINE RESPONSE AFTER GAMMA-KNIFE FOR SECRETORY PITUITARY ADENOMA
Nguyen Van Do, Nguyen Van Khoi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 22 - 27
Purposes: To examine treatment outcomes of Gamma Knife based Stereotactic radiosurgery for secretory
pituitary adenomas.
Materials and Methods: 29 patients were treated with GK based SRS for secretory pituitary adenomas
with 12 months of follow-up.
Results: For prolactinomas, 4 of 8 patients (50%) showed normalization of serum prolactin at a mean time of


18 months. Two of 8 had a >50% decrease but still abnormal prolactin levels. For adrenocorticotrophic hormonesecreting tumors, 6 of 12 patients (50%) showed normalization of their endocrine levels at a mean of 10 months.
An additional 2 (17%) had a >50% decrease. For growth hormone-secreting tumors, 4 of 9 patients (44%) showed
normalization of endocrine levels at the median time of 30 months. Two patients (22%) had >50% lower but
abnormal endocrine levels.
Conclusions: GK-based SRS provides a reasonable rate of endocrine normalization of secretory pituitary
adenoma. The time to endocrine response is shorter than reported for fractionated externalbeam radiotherapy.
There is a low risk of optic neuropathy.
Keywords: Gamma Knife Stereotactic radiosurgery, Secretory pituitary adenoma, Endocrine response,
Tumor response.

*

Khoa Hóa xạ trị Bệnh Viện Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Đô

22

**

Bệnh Viện Chợ Rẫy.
ĐT: 0918198099

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Nghiên cứu Y học


GIỚITHIỆU

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

U tuyến tuyến yên là các u có đặc điểm mô
bệnh học lành tính(1,. Chúng có thể là không có
chức năng hoạt động nội tiết hoặc tăng tiết
hormon của tuyến yên. Đối với các khối u chế
tiết, ngoài việc kiểm soát khối u, mục tiêu quan
trọng của điều trị là kiểm soát được phản ứng
nội tiết. Tiết quá nhiều hormon tuyến yên có thể
dẫn đến biến chứng chuyển hóa tàn phá. Sản
xuất quá nhiều hormon tăng trưởng (GH) gây ra
bệnh to cực mà có thể dẫn đến bệnh đe dọa tính
mạng bởi các bệnh lý bệnh tim mạch, hô hấp, đái
tháo đường, và gia tăng nguy cơ ung thư đại
tràng. Tiết quá mức adrenocorticotrophic
hormone (ACTH) gây bệnh Cushing, có thể dẫn
đến cao huyết áp không kiểm soát được, bệnh
loãng xương, và các biến chứng chuyển hóa
khác. Tăng tiết Prolactin có thể dẫn đến bệnh
tăng tiết sữa và vô sinh(8).

Đối tượng

Các lựa chọn điều trị bao gồm phẫu thuật cắt
bỏ, điều trị nội khoa bằng thuốc, xạ trị phân liều
và xạ phẫu. Phẫu thuật cắt bỏ thường là cho kết
quả giải ép và giảm phản ứng nội tiết nhanh

chóng. Tuy nhiên, khi phẫu thuật lấy không hết
u, bệnh nhân có thể tiếp tục chịu hậu quả của sự
tăng nồng độ hormon. Tái phát u có thể xảy ra
sau khi thuyên giảm lúc đầu. Trước đây, xạ trị
phân liều đã được sử dụng cho bệnh nhân có u
tuyến yên với nồng độ hormon cao liên tục hoặc
bệnh nhân có u tuyến yên tăng tiết tái phát. Tuy
nhiên, có thể mất một thời gian dài mới kiểm
soát được nồng độ nội tiết trở về bình thường(14).
Hơn nữa, xạ trị phân liều mất thời gian điều trị
khoảng 5-6 tuần.
Theo y văn trong những năm gần đây, xạ
phẫu, đặc biệt là Gamma Knife (GK) được
xem là một trong những liệu pháp điều trị lựa
chọn cho bệnh nhân có u tuyến yên chế tiết(8).
Mục đích của nghiên cứu này nhằm kiểm tra
kết quả điều trị của các bệnh nhân bị u tuyến
yên chế tiết bằng xạ phẫu Gamma Knife tại
Bệnh viện Chợ Rẫy.

Đây là một đánh giá hồi cứu kết quả điều trị
Gamma Knife cho bệnh nhân u tuyến tuyến yên
chế tiết được điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Từ
năm 2011 đến năm 2015, 29 bệnh nhân có mô
bệnh học chứng minh là u tuyến tuyến yên được
điều trị bằng Gamma Knife được theo dõi ít nhất
12 tháng. Sử dụng phần mềm SPSS 13.0 để thu
thập và phân tích các dữ liệu cần thiết.
Trong số 29 bệnh nhân được điều trị, 14 bệnh
nhân nam và 15 nữ, có 8 trường hợp u tiết

prolactin, 12 trường hợp u tiết ACTH, và 9
trường hợp u tiết GH. Mười tám bệnh nhân có
bệnh tái phát sau khi phẫu thuật, 10 bệnh nhân
còn lại được phẫu thuật cắt bỏ một phần, ba
bệnh nhân đã được xạ trị qui ước với liều khác
nhau, từ 50-54 Gy. Độ tuổi trung bình của bệnh
nhân là 43 tuổi (từ 24-76 tuổi). Tổng trạng được
tính theo thang điểm Karnofsky Performance
Status dao động từ 80 đến 90.

Kỹ thuật điều trị
Kỹ thuật điều trị của chúng tôi là sử dụng
hệ thống xạ trị Leksell Gamma Knife C, hãng
Leksell Instrument AB, Thụy Điển. Vào ngày
điều trị, khung cố định đầu Stereotactic
Leksell được cố định ở một góc độ sao cho
khung là song song với trục của dây thần kinh
thị. Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) có tiêm
chất Gadolinium giúp xác định các dây thần
kinh thị giác, giao thoa thị, và những cấu trúc
liên quan dễ dàng hơn hình ảnh chụp cắt lớp
vi tính. Nên cắt lát mỏng (1,0-1,2 mm) và có
một lát cắt bao gồm các cấu trúc của dây thần
kinh thị giác. MRI có tiêm Gadolinium giúp
xác định được cấu trúc u dễ dàng hơn nếu là
macroadenomas, trường hợp microadenomas
đôi khi khó xác định được cấu trúc mô u khi
đó vùng điều trị nên được xác định bằng cách
so sánh các hình ảnh MRI chẩn đoán, thường
thì thể tích điều trị rộng rãi hơn dựa theo các

cấu trúc giải phẫu của xoang và hố yên nhằm
để giảm thiểu nguy cơ bỏ sót tổn thương.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

23


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

Liều chỉ định từ 20-25 Gy cho khối u, có thể
nâng lên đến 30 Gy nếu liều của giao thoa và
thần kinh thị chưa vượt quá 8 Gy. Đối với
Prolactinomas, liều trung bình là 19 Gy (từ 15-30
Gy) với đường đồng liều 50%; với u tiết ACTH,
liều trung bình là 25 Gy (từ 16-30 Gy) với đường
đồng liều 50%, và với các u tiết GH, liều trung
bình là 25 Gy (từ 16-30 Gy) với đường đồng liều
50%. Thể tích u dao động từ 0,1-9 ml. thể tích xạ
trị dao động từ 0,19 đến 10 ml.

Theo dõi
Sau khi điều trị Gamma Knife, tất cả các
bệnh nhân đều được tái khám và theo dõi mỗi 36 tháng về các triệu chứng lâm sàng, cận lâm
sàng. Đối với bệnh nhân Prolactinomas, nồng độ
prolactin được sử dụng để đánh giá phản ứng
nội tiết. Đối với bệnh nhân có khối u chế tiết
ACTH, đo mức độ cortisol niệu tự do 24 giờ và

nồng độ cortisol huyết thanh sáng hoặc ACTH
huyết thanh được sử dụng để đánh giá đáp ứng
nội tiết. Đối với những bệnh nhân có u chế tiết
GH, yếu tố tăng trưởng Insulin I (IGF-I) và nồng
độ GH huyết thanh được sử dụng để đánh giá
đáp ứng nội tiết. Chụp MRI não mỗi 6-12 tháng
để đánh giá mức độ đáp ứng của khối u.

Mục tiêu và các phương pháp phân tích.
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm
soát nội tiết.
Các mục tiêu phụ là kiểm soát khối u và các
tác dụng ngoại ý.

KẾT QUẢ
Thời gian theo dõi trung bình cho 29 bệnh
nhân là 21,7 tháng.
Đối với bệnh nhân có u chế tiết
Prolactinomas, thời gian theo dõi trung bình là
22,5 tháng (từ 12-58 tháng). Bốn trong số 8 bệnh
nhân (50%) đạt nồng độ của prolactin huyết
thanh bình thường (2 đã được ngưng dùng
thuốc nội khoa) với thời gian trung bình là 19,6
tháng (12-55 tháng). 2 trong 8 bệnh nhân đã giảm
hơn 50% lúc 9 tháng, nhưng nồng độ prolactin
huyết thanh vẫn còn bất thường. Hai trong 8

24

bệnh nhân có giảm ít hơn 50% nồng độ prolactin

huyết thanh 9 tháng mà không giảm thêm. Đáng
chú ý, cả bốn bệnh nhân bình thường hóa nồng
độ prolactin đã được ngưng dùng các thuốc ức
chế tuyến yên, và 1 bệnh nhân còn tiếp tục dùng
bromocriptine sau xạ trị Gamma Knifevì chưa
đạt được nồng độ nội tiết bình thường. Sáu bệnh
nhân (75%) có giảm kích thước của các khối u
trên MRI sau xạ trị với thời gian trung bình là 12
tháng,và hai bệnh nhân còn lại có hình ảnh
không thay đổi. Không có bệnh nhân nào bị tác
dụng phụ liên quan đến xạ trị.
Đối với các bệnh nhân có u tiết ACTH, với
thời gian theo dõi trung bình là 23,1 tháng (từ 1253 tháng). Sáu trong số 12 bệnh nhân (50%) đã
bình thường nồng độ của nội tiết với thời gian
trung bình là 10 tháng (4-28 tháng). Hai bệnh
nhân (17%), đã giảm hơn 50% nhưng nồng độ
nội tiết vẫn còn bất thường với thời gian trung
bình là 17 tháng. Hai bệnh nhân (17%) giảm
dưới 50% với thời gian trung bình là 21 tháng.
Hai bệnh nhân (17%) có nồng độ nội tiết bình
thường với thời gian trung bình là 33 tháng. Với
MRI theo dõi, 2 bệnh nhân (17%) có giảm kích
thước khối u lúc 16 và 36 tháng, 8 bệnh nhân
(67%) là ổn định, và 2 (17%) có tăng kích thước ở
thời gian trung bình 38 tháng. Sáu bệnh nhân
(50%) có suy giáp lâm sàng và/ hoặc thiểu năng
sinh dục sau khi xạ trị.
Đối với các bệnh nhân có u chế tiết GH, với
thời gian theo dõi trung bình là 35 tháng (từ 1473 tháng). Bốn trong số 9 bệnh nhân (44%) đã
bình thường hóa nồng độ GH huyết thanh với

thời gian trung bình là 30 tháng (từ 6-63 tháng). 2
bệnh nhân (22%) có nồng độ GH huyết thanh
giảm nhiều hơn 50% nhưng vẫn còn ở mức cao
tại thời gian trung bình là 18 tháng và còn dùng
thuốc kháng tiết tiếp tục. Một bệnh nhân có nồng
độ GH huyết thanh giảm ít hơn 50% với thời
gian trung bình là 18 tháng và còn dùng thuốc
kháng tiết tiếp tục. Hai bệnh nhân có tiến triển
giảm nội tiết tuần tự ở thời điểm 14 và 48 tháng.
Đáng chú ý, trong 4 bệnh nhân dùng thuốc ức
chế GH có 2 trường hợp (50%) tiến triển, và chỉ

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
có 1 trường hợp (25%) đạt nồng độ GH huyết
thanh ở mức bình thường. Trong số 5 bệnh nhân
ngưng dùng thuốc ức chế tiết GH, 3 trường hợp
(60%) có nồng độ GH bình thường, và không có
tiến triển. Kết quả theo dõi về hình ảnh, 1 bệnh
nhân (11%) có thu nhỏ kích thước khối u, và 8
trong 9 bệnh nhân (89%) có kết quả ổn định trên

Nghiên cứu Y học

hình ảnh MRI. Hai bệnh nhân (22%) bị suy giảm
chức năng tuyến giáp và thiểu năng sinh dục ở
thời gian theo dõi là 27 tháng. Một bệnh nhân đã
được phẫu thuật và xạ trị qui ước trước khi điều

trị Gamma Knife tiến triển liệt dây thần kinh số
III tại thời điểm 18 tháng.

Bảng 1: Tóm tắt các kết quả điều trị.
Đặc điểm
mô học
U tiết prolactin
U tiết ACTH
U tiết GH

Số BN
8
12
9

Xét nghiệm
sử dụng
Prolactin
Cortisol tự do niệu 24 giờ
IGF-1

Kiểm soát
nội tiết
4 (50%)
6 (50%)
4 (44%)

BÀN LUẬN
Mục đích của điều trị u tuyến tuyến yên chế
tiết là kiểm soát sự phát triển của khối u và bình

thường hóa sự chế tiết nội tiết(8). Phẫu thuật là
phương pháp điều trị chính trong hầu hết các u
tuyến tuyến yên. Ưu điểm của phẫu thuật bao
gồm giải phóng chèn ép nhanh chóng và kiểm
soát nhanh chóng sự tăng bài tiết hormon. Tuy
nhiên, việc phẫu thuật cắt bỏ triệt để khối u hoặc
kiểm soát hoàn toàn sự tăng bài tiết hormon
bằng phẫu thuật thì không dễ dàng đạt được kết
quả như mong đợi. Xạ trị qui ước cũng thường
được sử dụng như một liệu pháp điều trị bổ túc.
Xạ Gamma Knife cho thấy là một lựa chọn điều
trị an toàn và hiệu quả và chỉ với một lần điều trị
duy nhất cho các u tuyến tuyến yên. Có nhiều
bằng chứng và nhiều dữ liệu minh chứng tính
an toàn và hiệu quả của xạ phẫu trong việc kiểm
soát các u tuyến tuyến yên chế tiết.
Đối với prolactinomas, y văn cho thấy xạ
phẫu có thể kiểm soát hoàn toàn khoảng 30% và
giảm đáng kể nồng độ prolactin huyết thanh
trong khoảng từ 29-100% bệnh nhân(1,5). Tỷ lệ
kiểm soát khối u dao động từ 68-100%, nhiều
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này hơn 90%. Kết quả
điều trị của chúng tôi so với các tài liệu. Tỷ lệ
kiểm soát hoàn toàn nội tiết đối với bệnh nhân
prolactinomas là 50%; với khoảng 25% bệnh
nhân giảm đáng kể (giảm nhiều hơn 50% nhưng
vẫn có mức cao bất thường của nồng độ
prolactin huyết thanh). Nồng độ prolactin huyết

Bất thường,

có giảm >50%
2 (25%)
2 (17%)
2 (22%)

Bất thường,
có giảm <50%
2 (25%)
4 (33%)
3 (33%)

Kiểm soát u
100%
83,3%
100%

thanh bình thường xảy ra từ 12-24 tháng sau khi
điều trị. Tỷ lệ kiểm soát khối u 100%. Một quan
sát thú vị là tác động của sử dụng các loại thuốc
kháng tiết về tỷ lệ bình thường nội tiết. Trong số
3 bệnh nhân đã ngừng thuốc kháng tiết trong khi
xạ phẫu, 2 bệnh nhân (67%) thành công trong
việc kiểm soát nội tiết. Một bệnh nhân tiếp tục
dùng thuốc kháng tiết đã không đạt được nồng
độ nội tiết bình thường. Landolt và Lomax(7) cho
rằng tỷ lệ kiểm soát nội tiết thấp hơn ở bệnh
nhân prolactinomas nếu cho thuốc kháng
dopamine trong lúc xạ phẫu. Pollock và cộng
sự(10) cũng cho thấy rằng một trong những yếu tố
quan trọng nhất dự đoán việc kiểm soát nội tiết

của xạ phẫu là sự vắng mặt của các loại thuốc
kháng tiết trong lúc điều trị.
Đối với các u chế tiết ACTH, theo y văn, tỷ
lệ chữa khỏi sau xạ phẫu dao động từ 10 đến
100%(1,4,5,6,11,14). Tuy nhiên, có một số nghiên
cứu khác thì báo cáo tỷ lệ kiểm soát bệnh động
từ 28 đến 100%. Hầu hết các nghiên cứu báo
cáo tỷ lệ kiểm soát khối u khác nhau, 92-100%.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đo nồng độ
cortisol tự do niệu 24 giờ để đánh giá tình
trạng đáp ứng nội tiết. So với các xét nghiệm
khác như huyết thanh ACTH hoặc nồng độ
cortisol, nồng độ cortisol tự do niệu 24 giờ ít bị
biến động sinh lý mỗi giờ. Kết quả của chúng
tôi có thể so sánh với tỷ lệ báo cáo trong y văn.
Tỷ lệ bình thường nội tiết là 50%. Tình trạng
nồng độ nội tiết trở về bình thường xảy ra từ

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

25


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017

4-28 tháng (trung bình 10 tháng) sau khi xạ
phẫu. Tỷ lệ kiểm soát khối u là 83,3%.
Đối với u chế tiết GH, theo y văn, tỷ lệ kiểm

soát chức năng nội tiết dao động trong khoảng 096%, tỷ lệ bệnh nhân có cải thiện tình trạng tăng
tiết trong khoảng 0-67%(4,5,10,12,14). Tỷ lệ kiểm soát
khối u dao động từ 92 đến 100%. Tuy nhiên, sự
thiếu nhất quán trong định nghĩa của 'bình
thường' chức năng nội tiết làm cho việc giải thích
chính xác các dữ liệu trong các tài liệu khó
khan(14). Một số nghiên cứu không nêu rõ các tiêu
chí cho việc kiểm soát nội tiết. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, nồng độ IGF-I được sử dụng chủ
yếu để đánh giá đáp ứng nội tiết. Tỷ lệ kiểm soát
nội tiết là 44% và tỷ lệ kiểm soát khối u là 100%.
Với 5 bệnh nhân đã ngưng dùng thuốc ức chế
GH trong lúc xạ trị, 3 bệnh nhân (60%) đạt được
mức độ kiểm soát nội tiết và không ai trong số
các bệnh nhân này có bệnh tiến triển. Ngược
lại,chỉ có 1 trong 4 bệnh nhân (25%) vẫn dùng
thuốc ức chế GH-đạt được mức kiểm soát bệnh;
2 bệnh nhân (50%) có bệnh tiến triển sau khi xạ
phẫu. Landolt et al(4) đã báo cáo một tỷ lệ thấp
hơn đáng kể của GH và IGF-I bình thường ở
bệnh nhân Bệnh to cực đã dùng thuốc kháng tiết
trong lúc xạ phẫu. Pollock và cộng sự(10) cũng báo
cáo kết quả tương tự. So sánh với các loại u có
chế tiết khác, u chế tiết hormon GH cần có một
thời gian dài hơn để đạt được nồng độ nội tiết
trở về bình thường sau xạ trị. Pollock và cộng
sự(9) cho rằng xạ trị thêm hay phẫu thuật không
nên áp dụng ít nhất 5 năm sau xạ phẫu bởi vì
mức độ GH và IGF-I có thể tiếp tục bình thường
hóa trong khoảng thời gian đó. Về tác dụng

ngoại ý, các độc tính được đề cập đến nhiều nhất
là tổn thương dây thần kinh sọ, suy tuyến yên,
tổn thương não, và tổn thương mạch máu. Trong
một đánh giá toàn diện bởi Witt(14) với 1.255 bệnh
nhân được điều trị bằng xạ phẫu, tỷ lệ của tổn
thương các dây thần kinh sọ não (bao gồm cả
dây thần kinh thị, thần kinh vận nhãn,…)
khoảng 1%. Các nguy cơ tổn thương mạch máu
và tổn thương não cũng rất thấp. Về vấn đề suy
tuyến yên, tỷ lệ này thay đổi rất rộng rãi, dao

26

động từ 0-72%(14). Các nghiên cứu cho thấy rằng
với thời gian theo dõi dài thì tỷ lệ suy tuyến yên
nhiều hơn(1,2). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ
lệ độc tính có thể so sánh với những gì đã được
báo cáo trong y văn. Trong số 29 bệnh nhân
được điều trị, 1 (3,4%), người có khối u xâm lấn
xoang hang gây ảnh hưởng một phần thần kinh
vận nhãn, 8 bệnh nhân (27,6%) có suy tuyến yên.
Ở trung tâm của chúng tôi, khi lập kế hoạch điều
trị, chúng tôi giữ khoảng cách từ 2 đến 3 mm
giữa thần kinh thị với u tuyến yên. Kết quả là,
chúng tôi giới hạn liều xạ cho thần kinh thị đến 8
Gy hoặc ít hơn. Chúng tôi không gặp trường hợp
tổn thương thần kinh thị nào do xạ trị. Liên quan
đến sự phát triển của khối u nội sọ hay ung thư
thứ phát sau việc sử dụng bức xạ để điều trị
bệnh lành tính. Tác giả Witt(14) tổng kết 1.255

bệnh nhân bị u tuyến tuyến yên được điều trị
với xạ phẫu, không có trường hợp nào có sự
phát triển của khối u nội sọ hay ung thư do xạ
trị. Nhìn chung, sự phát triển của khối u trong sọ
hoặc ung thư sau xạ phẫu là rất hiếm(14). Những
lợi ích của xạ phẫu lớn hơn nguy cơ tiềm năng
của khối u hoặc ung thư do bức xạ.

KẾT LUẬN
Xạ phẫu cung cấp một lựa chọn điều trị tốt
cho bệnh nhân u tuyến yên chế tiết. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kiểm soát khối u
tuyệt vời và thành công cao trong kiểm soát nội
tiết. Độc tính nhìn chung là thấp. Theo y văn và
các kết quả nghiên cứu của chúng tôi, việc sử
dụng thuốc kháng tiết hormon trong lúc xạ phẫu
có thể có tác động tiêu cực đến kết quả điều trị
cho những bệnh nhân có khối u prolactinomas
và u chế tiết GH. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu
sâu hơn để xác nhận quan điểm này. Thời gian
để nồng độ nội tiết trở về mức bình thường của
xạ phẫu dường như ngắn hơn so với xạ trị qui
ước. Việc theo dõi lâu dài là cần thiết để có một
kết luận vững chắc về hiệu quả và tính an toàn
của xạ phẫu trong việc điều trị u tuyến tuyến
yên chế tiết.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Feigl GC, Bonelli CM, Berghold A, Mokry M (2002). Effects of
gamma knife radiosurgery of pituitary adenomas on pituitary
function. J Neurosurg; 97:415–421.
Hoybye C, Grenback E, Rahn T, Degerblad M, Thoren M,
Hulting AL (2001). Adrenocorticotropic hormone-producing
pituitary tumors: 12- to 22-year follow-up after treatment
withstereotactic radiosurgery. Neurosurgery; 49:284–291.
Ikeda H, Jokura H, Yoshimoto T (2001). Transsphenoidal
surgery and adjuvant gamma knife treatment for growth
hormone-secreting pituitary adenoma. J Neurosurg; 95:285–
291.
Inoue HK, Kohga H, Hirato M, Sasaki T, Ishihara J, Shibazaki
T,
Ohye

C,
Andou
Y
(1999).
Pituitary adenomas treated by microsurgery with or without
Gamma Knife surgery: experience in 122 cases. Stereotact Funct
Neurosurg; 72(suppl 1):125–131.
Izawa M, Hayashi M, Nakaya K, Satoh H, Ochiai T, Hori T,
Takakura K (2000). Gamma knife radiosurgery for pituitary
adenomas. J Neurosurg; 93(suppl 3):19–22.
Kobayashi T, Kida Y, Mori Y (2002): Gamma knife
radiosurgery in the treatment of Cushing disease: long-term
results. J Neurosurg; 97:422–428.
Landolt AM, Lomax N (2000). Gamma knife radiosurgery for
prolactinomas. J Neurosurg; 93(suppl 3):14–18.

8.
9.

10.

11.

12.

13.
14.

Nghiên cứu Y học


Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2003). Nội tiết học đại
cương, NXB Y học chi nhánh TP HCM, tr. 50-96.
Pollock BE, Jacob JT, Brown PD, Nippoldt TB (2007).
Radiosurgery of growth hormone-producing pituitary
adenomas: factors associated with biochemical remission. J
Neurosurg; 106:833–838.
Pollock BE, Nippoldt TB, Stafford SL, Foote RL, Abboud CF
(2002). Results of stereotactic radiosurgery in patients with
hormone-producing pituitary adenomas: factors associated
with endocrine normalization. J Neurosurg; 97:525–530.
Pollock BE, Young WF Jr (2002). Stereotactic radiosurgery for
patients with ACTH-producing pituitary adenomas after prior
adrenalectomy. Int J Radiat Oncol Biol Phys; 54: 839–841.
Shin M, Kurita H, Sasaki T, Tago M, Morita A, Ueki K, Kirino
T (2000). Stereotactic radiosurgery for pituitary adenoma
invading the cavernous sinus. J Neurosurg; 93 (suppl3):2–5.
Trần Phương Hạnh (1997). Từ điển giải nghĩa bệnh học, Đại học
Y Dược TP HCM.
Witt TC (2003). Stereotactic radiosurgery for pituitary tumors.
Neurosurg Focus; 14:e10.

Ngày nhận bài báo:

15/02/2017

Ngày phản biện đánh giá bài báo:

28/02/2017

Ngày bài báo được đăng:


05/04/2017

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017

27



×