Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới không triệu chứng trên bệnh nhân nhồi máu não nằm viện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.81 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU CHI DƯỚI
KHÔNG TRIỆU CHỨNG TRÊN BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO NẰM
VIỆN
Nguyễn Văn Trí*, Nguyễn Văn Diệu**

TÓM TẮT
Mở đầu: Huyết khối tĩnh mạch sâu (HKTMS) chi dưới không triệu chứng thường gặp ở các bệnh nhân mắc
bệnh nội khoa cấp tính nằm viện, đặc biệt là bệnh nhân nhồi máu não (NMN).
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ hiện mắc, mới mắc HKTMS chi dưới không triệu chứng trên bệnh nhân
NMN nằm viện.
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu có theo dõi. Chúng tôi khảo sát
bệnh nhân NMN bằng CT scan, sử dụng siêu âm Duplex phát hiện HKTMS, lần 1 được thực hiện trong
ngày thăm khám đầu tiên (24 giờ đến 48 giờ sau nhập viện). Siêu âm lần 2 được thực hiện sau 7 ngày nếu
siêu âm lần đầu âm tính.
Kết quả:Có 139 bệnh nhân NMN cấp, tỉ lệ hiện mắc HKTMS không triệu chứng là 20,1%, tỉ lệ mới mắc là
15,3%. Tỉ lệ HKTMS không triệu chứng ở nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi cao hơn nhóm < 60 tuổi, (p>0,05). Bất động
là yếu tố nguy cơ độc lập của HKTMS không triệu chứng ở bệnh nhân NMN nằm viện (OR = 6,4; p = 0,017). Tỉ
lệ HKTMS đoạn gần là 78,6%; đoạn xa 7,1%; cả 2 đoạn 14,3%. Tai biến chảy máu nặng khi điều trị kháng đông
cần truyền máu nhưng không gây tử vong là 4,5%.
Kết luận: Tỉ lệ hiện mắc, mới mắc HKTMS chi dưới không triệu chứng trên bệnh nhân NMN nằm viện cao,
phổ biến ở bệnh nhân ≥ 60 tuổi, bất động là yếu tố nguy cơ độc lập của HKTMS. Vị trí HKTMS gặp nhiều nhất ở
đoạn gần, tai biến chảy máu nặng khi điều trị kháng đông cần truyền máu nhưng không gây tử vong là 4,5%.
Từ khóa: Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới, không triệu chứng, nhồi máu não.

ABSTRACT
SURVEY OF ASYMPTOMATIC LOWER EXTREMITY DEEP VEIN THROMBOSIS IN HOSPITALIZED
ISCHEMIC STROKE PATIENTS


Nguyen Van Tri, Nguyen Van Dieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 - 2016: 257 - 262
Background: Asymptomatic low extremity deep vein thrombosis (DVT) was commonly in hospitalized
acutely ill medical patients, especially following ischemic strokes patients.
Objective: Definite the prevalence, incidence of asymptomatic low extremity DVT in hospitalized ischemic
stroke patients.
Methods: Prospective longitudinal observational study. We studied patients with acute ischemic stroke who
had CT scan. Duplex ultrasonography of the lower extremities deep vein were done in the first day of our
examination (between hours 24 to 48 after admisson). If we got a negative result of ultrasonography in the first
time, a second ultrasonography was done 7 days later.
Results: there were 139 patients with acute ischemic stroke.The prevalance of asymptomatic DVT was
* Bộ môn Lão Khoa, ĐHYD TP HCM,
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Văn Trí

Tim Mạch

** Bệnh viện đa khoa Long An.
ĐT: 0913718893;
Email:

257


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

20.1%, the incidence was 15.3%. The proportion of asymptomatic DVT among patients in older than 60 years
group was high among those in less than 60 years group (p>0.05). Immobilization was the independent risk
factors of DVT in hospitalized ischemic stroke patients (Odds ratio = 6.416, p = 0.017). Major bleeding event

when anticoagulant therapy needs blood transfusion but nonfatal was 4.5%.
Conclusion: The prevalence, incidence of asymptomatic low extremity DVT in hospitalized patients with
ischemic stroke were high, common in patients older than 60 years, immobilization was independent risk factors
for DVT. Location of DVT was commonly proximal segment. Major bleeding event when anticoagulant therapy
requires blood transfusion but nonfatal was 4.5%.
Key words: Low extremity deep vein thrombosis, asymptomatic, ischemic stroke.

MỞ ĐẦU

Mục tiêu

Đột quỵ có liên quan đến nguy cơ cao mắc
thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (TTHKTM). Khi
tầm soát HKTMS bằng 125I fibrinogen hoặc tĩnh
mạch đồ thì tỉ lệ mới mắc HKTMS ở bệnh nhân
đột quỵ có thể so sánh với bệnh nhân thay khớp
gối – háng(5). HKTMS 80% không triệu chứng
chỉ20% có triệu chứng lâm sàng. Các triệu chứng
lâm sàng của HKTMS trên bệnh nhân đột quỵ
thường không rõ ràng và phần lớn bệnh nhân
không có triệu chứng (33% bệnh nhân đột quỵ
có HKTMS tiềm ẩn và chỉ có 11% có triệu chứng
lâm sàng). Nghiên cứu của Geerts W. H và cộng
sự, tỉ lệ hiện mắc HKTMS trên những bệnh nhân
đột quỵ không được dự phòng từ 20 – 50%(3).

Xác định tỉ lệ hiện mắc, mới mắc HKTMS chi
dưới không triệu chứng trên bệnh nhân NMN
nằm viện tại bệnh viện đa khoa Long An.


Tại bệnh viện đa khoa Long An, nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Trung Hiếu năm 2010, tỉ lệ
mới mắc HKTMS chi dưới trên bệnh nhân NMN
nằm viện là 14%(9). Từ năm 2010 đến nay, bệnh
viện đa khoa Long An chưa dự phòng HKTMS
cho bệnh nhân NMN nằm viện, mặc dù, trong
nước và thế giới đã có khuyến cáo dự phòng cho
đối tượng này(4). Chính vì vậy, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này để xác định tỉ lệ mới mắc,
xác định thêm tỉ lệ hiện mắc HKTMS chi dưới
không triệu chứng trên bệnh nhân NMN nằm
viện tại bệnh viện đa khoa Long An là bao
nhiêu, làm cơ sở để bệnh viện quyết định dự
phòng hay không dự phòng. Đó là lý do chúng
tôi thực hiện đề tài nghiên cứu.

Tiêu chí chọn bệnh
- Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên.

258

ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, có theo dõi.

Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán NMN nằm điều
trị tại khoa nội thần kinh, nội phổi thận, hồi sức
cấp cứu tích cực – chống độc bệnh viện đa khoa
Long An từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 5 năm

2015 và dự kiến nằm viện ít nhất 7 ngày. Bệnh
nhân phải thoả tất cả các tiêu chí chọn bệnh và
không có bất kỳ tiêu chí loại trừ nào.

- Bệnh NMN cấp có chụp cắt lớp vi tính hoặc
cộng hưởng từ được chẩn đoán là NMN.
- Không có triệu chứng lâm sàng của
HKTMS.

Tiêu chí loại trừ
- Bệnh nhân thiếu máu não cục bộ thoáng
qua (khỏi hoàn toàn trong vòng 24 giờ) + chụp
cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ không có
hình ảnh NMN.
- Bệnh nhânđột quỵ có hình ảnh chụp cắt
lớp vi tính là xuất huyết não hoặc NMN không
rõ ràng.
- Bệnh nhân điều trị bằng thuốc chống đông
trong thời gian nằm viện.

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
- Bệnh nhân trong một tuần trước khi nhập
viện đã dùng hoặc hiện tại đang dùng heparin,
heparin trọng lượng phân tử thấp, hirudin,
dextran, heparinoid.

Quy trình nghiên cứu

Bệnh nhân NMN cấp thỏa tiêu chí chọn bệnh
và không có tiêu chí loại trừ được tiến hành siêu
âm Duplex lần 1 (được thực hiện trong vòng 24
giờ đến 48 giờ sau nhập viện), những trường
hợp dương tính được ghi hình lại. Những
trường hợp âm tính, sau 7 ngày, nếu thỏa tiêu
chí chọn bệnh và không có tiêu chí loại trừ được
tiến hành siêu âm Duplex lần 2, những trường
hợp dương tính được ghi hình lại. Những
trường hợp dương tính và âm tính qua 2 lần siêu
âm Duplex được nhập, xử lý số liệu, mô tả và
nhận xét kết quả.

KẾT QUẢ
Có 139 bệnh nhânNMN cấp điều trị tại các
khoa hồi sức cấp cứu tích cực – chống độc, nội
thần kinh, nội phổi thận bệnh viện đa khoa Long
An từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015

Đặc điểm dịch tễ bệnh nhân nghiên cứu
Tuổi trung bình 71,2 ± 11,7
Bảng 1: Đặc điểm chung dân số nghiên cứu (N = 139)
Giới tính
Nhóm tuổi
Bệnh nội
khoa kèm
theo NMN

Yếu tố nguy cơ
Tần số Tỉ lệ %

Nam
75
54
Nữ
64
46
< 60 tuổi
25
18
≥ 60 tuổi
114
82
Nhiễm trùng cấp (viêm phổi)
17
12,2
Suy hô hấp cấp
9
6,5
Nhồi máu cơ tim cấp
2
1,4
Ung thư
1
0,7

Tỉ lệ HKTMS không triệu chứng
Bảng 2:Tỉ lệ phát hiện HKTMS trên siêu âm Duplex
lần 1 và lần 2
Siêu âm Duplex


Tần số

Tỉ lệ %

Lần 1 (N=139)

8

5,8

Lần 2 (N=131)

20

15,3

Chung 2 lần

28

20,1

Tim Mạch

Nghiên cứu Y học

Bảng 3: Tỉ lệ HKTMS đoạn gần, đoạn xa, cả 2 đoạn
trên siêu âm Duplex
Lần 1
Lần 2

Chung 2 lần
N=8
N=20
N=28
Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ %
Đoạn gần
7
87,5
15
75
22
78,6
Đoạn xa
0
0
2
10
2
7,1
Cả 2
1
12,5
3
15
4
14,3
Vị trí

Bảng 4: Tỉ lệ HKTMS theo yếu tố nguy cơ và mối
liên quan

Yếu tố nguy cơ
Nhóm tuổi
< 60 tuổi
≥ 60 tuổi
Bất động
Không bất động

Tần số

Tỉ lệ%

Giá trị p

25
114
106
33

16
21,1
24,5
6,1

0.568
0.021

Tỉ lệ chảy máu nặng khi điều trị kháng
đông
Bảng 5: Tỉ lệ chảy máu nặng khi điều trị kháng đông
INR


Tần số

Tỉ lệ %

Tỉ lệ chảy
máu nặng %

< 2,0
2,0 – 3,0
> 3,0

13
5
3

61,9
23,8
14,3

4,5

BÀN LUẬN
Từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015,
chúng tôi chọn được 176 bệnh nhân thỏa tiêu chí
chọn bệnh điều trị tại các khoa hồi sức cấp cứu
tích cực – chống độc, nội thần kinh, nội phổi thận
bệnh viện đa khoa Long An, trong đó có 25 bệnh
nhân có tiêu chí loại trừ, 3 bệnh nhân chuyển
tuyến trên, 2 bệnh nhân tình trạng bệnh không

cải thiện và 7 bệnh nhân bệnh diễn tiến nặng xin
về (9 bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu). Tổng số bệnh nhân được đưa vào phân
tích cuối cùng là 139.

Đặc điểm dân số nghiên cứu
Trong 139 trường hợp NMN cấp, bệnh nhân
cao tuổi (≥ 60 tuổi) chiếm đa số (82%), nam nhiều
hơn nữ, đa phần có bất động (76,3%) và chủ yếu
là không có bệnh nội khoa (cũng là yếu tố nguy
cơ) kèm theo (79,1%). Nhiễm trùng cấp chủ yếu
là viêm phổi chiếm tỉ lệ cao (12,2%) so với các
bệnh nội khoa kèm theo khác, có thể là do viêm
phổi bệnh viện, một đặc điểm hay gặp ở những

259


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

bệnh nhân nằm viện. Kế đến là suy hô hấp cấp
(6,5%), suy hô hấp cấp này có thể do bệnh
NMN nặng hoặc hậu quả của viêm phổi bệnh
viện, suy hô hấp cấp có thể do 1 hoặc 2 yếu tố
này nên tỉ lệ có thấp hơn viêm phổi. Nhồi máu
cơ tim cấp và ung thư thì ít gặp nên tỉ lệ thấp
hơn (1,4% và 0,7%).
Tuổi trung bình 71,2 ± 11,7, thấp nhất là 40

tuổi, cao nhất 94 tuổi. Chỉ số khối cơ thể (BMI)
trung bình 21,3 ± 3,4 kg/m2, thấp nhất 12,9 kg/m2,
cao nhất 31,1 kg/m2.

Tỉ lệ HKTMS được chẩn đoán bằng siêu
âm Duplex trên dân số nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát 176 bệnh nhân nhập viện
vì bệnh lý NMN cấp, tất cả đều không có triệu
chứng gợi ý của HKTMS. Chúng tôi tiến hành
siêu âm Duplex lần 1 139 bệnh nhân (đã loại ra
25 bệnh nhân có tiêu chí loại trừ, 3 bệnh nhân
chuyển tuyến trên, 9 bệnh nhân không đồng ý
tham gia nghiên cứu) phát hiện 8 bệnh nhân bị
HKTMS chiếm tỉ lệ 5,8% (8/139). Sau một tuần,
chúng tôi tiến hành siêu âm Duplex lần 2 131
bệnh nhân không có HKTMS chi dưới lần 1, phát
hiện thêm 20 bệnh nhân bị HKTMS chiếm tỉ lệ
15,3% (20/131). Như vậy, qua hai lần siêu âm,
chúng tôi phát hiện 28 bệnh nhân mắc HKTMS.
Theo công thức Kaplan Bayer: 1- (1-p1) x (1-p2),
tỉ lệ hiện mắc HKTMS trong dân số nghiên cứu
chúng tôi là 20,1%, KTC 95%: 13,5 – 26,8, tỉ lệ mới
mắc là 15,3%, KTC 95%: 9,3 – 21,3.
Tỉ lệ hiện mắc HKTMS nghiên cứu chúng
tôi là 20,1%. Tỉ lệ này trong giới hạn 20% – 50%
nghiên cứu của tác giả Geerts W. H và cộng sự(3).
Tỉ lệ này có được do qui trình siêu âm nghiên
cứu chúng tôi được thực hiện chặt chẽ. Dùng
siêu âm Doppler với đầu dò 7,5 MHz, người
thực hiện là bác sĩ chuyên khoa tim mạch có kinh

nghiệm. Hệ thống tĩnh mạch chi dưới được khảo
sát ngang và dọc một cách liên tục, khảo sát hai
bên có đối chiếu và so sánh, những trường hợp
dương tính được ghi hình lại để làm chứng cứ.
Bằng phương pháp siêu âm, khả năng phát hiện
huyết khối ở đoạn xa không cao lắm. Tuy nhiên,

260

với kỹ thuật siêu âm lặp lại nhiều lần vào những
khoảng thời điểm khác nhau kết hợp với khám
lâm sàng thì khả năng bỏ sót bệnh là rất thấp.
So sánh với một số nghiên cứu trên thế giới
và trong nước về tỉ lệ HKTMS chi dưới trên bệnh
nhân NMN đã thực hiện, chúng tôi nhận thấy
kết quả của chúng tôi tương tự với các tác giả
Sun K. K và cộng sự (tỉ lệ hiện mắc 21,7% trên
mẫu nghiên cứu 488 bệnh nhân)(14), Diệp Thành
Tường (tỉ lệ 27,7% trên mẫu nghiên cứu 65 bệnh
nhân)(1), Nguyễn Trung Hiếu (tỉ lệ mới mắc 14%
trên mẫu nghiên cứu 36 bệnh nhân)(9).

Tỉ lệ mắc HKTMS theo yếu tố nguy cơ và
mối liên quan
Tuổi
Nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ mắc HKTMS tăng
theo tuổi, < 60 tuổi là 16% tăng lên 21,1% ở nhóm
≥ 60 tuổi. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm
tuổi không có ý nghĩa thống kê với p = 0,568. So
sánh với các nghiên cứu khác đã thực hiện,

nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nghiên
cứu của tác giả Tan K. K và cộng sự, Nguyễn Thị
Phương Lan(15,10). Theo tác giả Warlow C và cộng
sự, tuổi có liên quan đến sự phát triển của
HKTMS do vai trò của các bệnh lý phối hợp như
bệnh ung thư, bệnh tim mạch,… rất phổ biến ở
người cao tuổi và liên quan đến tỉ lệ mới mắc cao
HKTMS(18), cũng theo tác giả Turpie A. G và cộng
sự, tuổi kết hợp thêm với các yếu tố nguy cơ
khác của bệnh nhân thì làm tăng nguy cơ
TTHKTM(16). Bệnh nhân NMN nghiên cứu
chúng tôi, mặc dù, đa số là cao tuổi nhưng đa
phần không có bệnh lý phối hợp (yếu tố nguy
cơ) kèm theo NMN nên tuổi không liên quan
đến sự phát triển của HKTMS.
Bất động
Trong nghiên cứu chúng tôi, bệnh nhân có
bất động chiếm tỉ lệ 76,3%, tỉ lệ mắc HKTMS ở
bệnh nhân có bất động là 24,5%, không bất
động là 6,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p = 0,021.
Khi phân tích hồi qui logistic đơn biến thì bất
động có liên quan đến sự phát triển của HKTMS

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
với p = 0,034, phân tích đa biến thì bất động là
yếu tố nguy cơ độc lập của HKTMS (OR = 6,4;

KTC 95%: 1,4 – 29,5; p = 0,017). Như vậy, so với
những bệnh nhân NMN không có bất động,
bệnh nhân NMN có bất động thì nguy cơ mắc
HKTMS gấp 6,4 lần. So sánh với các nghiên cứu
khác, nghiên cứu chúng tôi có kết quả tương tự
với nghiên cứu của tác giả Lê Minh Phương, Yi X
và cộng sự(7,20). Theo tác giả Turpie A. G thì bất
động kéo dài một mình không đủ khả năng hình
thành huyết khối, trái lại, bất động kéo dài kết
hợp với yếu tố nguy cơ khác làm tăng khả năng
hình thành TTHKTM(16). Nghiên cứu chúng tôi,
bất động có liên quan và là yếu tố nguy cơ độc
lập của HKTMS do dân số nghiên cứu chúng tôi
đa phần là bệnh nhân cao tuổi và phần lớn có bất
động đi kèm.

Tỉ lệ HKTMS đoạn gần, đoạn xa, cả 2 đoạn
trên siêu âm Duplex
Trong nghiên cứu chúng tôi, trên siêu âm
Duplex lần 1, lần 2 và chung 2 lần, đa số là
HKTMS đoạn gần chiếm tỉ lệ 75% - 87,5%. So
sánh với các nghiên cứu khác đã thực hiện,
nghiên cứu chúng tôi có kết quả tương tự nghiên
cứu của tác giả Diệp Thành Tường(1), nghiên cứu
INCIMEDI (INCIdence of deep vein thrombosis,
diagnosed by Duplex ultrasound in MEDIcal
departments)(2), HKTMS đoạn gần chiếm đa số.
Nguyên nhân do 2 lý do sau: theo tác giả Kearon
C, huyết khối ban đầu hình thành vùng bắp
chân, nếu không điều trị, 25% di chuyển đến

tĩnh mạch đoạn gần trong thời gian một tuần(6),
nghiên cứu chúng tôi và nghiên cứu tác giả Diệp
Thành Tường, thời gian hai lần siêu âm đa số
trong vòng một tuần và độ nhạy của siêu âm
trong phát hiện HKTMS đoạn gần cao nên tỉ lệ
HKTMS đoạn gần cao.

Tỉ lệ chảy máu khi điều trị kháng đông
Nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ chảy máu nặng
khi điều trị kháng vitamin K là 4,5% cao hơn tỉ
lệ chảy máu nặng liên quan đến điều trị kháng
vitamin K trong các nghiên cứu từ 1% 3,4%(11,19), nhưng thấp hơn trong một số

Tim Mạch

Nghiên cứu Y học

nghiên cứu quan sát gần đây là 7%(11). Theo tác
giả Shoeb M và cộng sự, đánh giá nguy cơ
chảy máu ở bệnh nhân sử dụng kháng đông,
nguy cơ chảy máu trên bệnh nhân nghiên cứu
chúng tôi là trung bình, dự đoán tỉ lệ chảy
máu nặng trong các nghiên cứu gần đây của
bệnh nhân này từ 2,3% - 9,3% / người – năm(13).
Theo tác giả Mehran R và cộng sự, bệnh nhân
trong nghiên cứu chúng tôi bị chảy máu nặng
(có biểu hiện chảy máu trên lâm sàng và dung
tích hồng cầu giảm > 10%)(8). Bệnh nhân chúng
tôi bị chảy máu đường tiêu hóa phù hợp với
nghiên cứu của tác giả Radaelli F và cộng sự,

chảy máu đường tiêu hóa thường gặp nhất khi
điều trị với kháng đông(11). Theo tác giả Yates
S. G và cộng sự, khi INR > 3,0 thì nguy cơ chảy
máu nặng đe dọa tín mạng tăng gấp 2 lần(19).
Bệnh nhân chúng tôi có INR > 3,0(4,1) và có
nguy cơ chảy máu trung bình nên bị chảy máu
nặng là phù hợp, mặc dù, huyết động học
chưa bị ảnh hưởng, điều này cho thấy rằng ở
những bệnh nhân có INR trên ngưỡng điều trị
(INR > 3,0) mà bệnh nhân có nguy cơ chảy
máu dù là thấp cũng phải đề phòng xuất
huyết trên lâm sàng.
Tỉ lệ chảy máu nặng khi dự phòng HKTMS
bằng kháng đông. Nghiên cứu MEDENOX, tỉ lệ
chảy máu nặng khi dự phòng cho đến ngày 14 ở
nhóm bệnh nhân điều trị giả dược, enoxaparin
20mg tiêm dưới da 1 lần / ngày và enoxaparin
40mg tiêm dưới da 1 lần / ngày, lần lượt là 1,1%,
0,3% và 1,7%, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê(12) và thậm chí khi dự phòng kéo dài
bằng enoxaparin 40 mg / ngày cho đến ngày 28
so với giả dược sau dự phòng chuẩn enoxaparin
40 mg / ngày trong 10 ngày trong nghiên cứu
EXCLAIM (the Extended Prophylaxis for
Venous ThromboEmbolism in Acutely III
Medical
Patients
With
Prolonged
Immobilization) thì tỉ lệ chảy máu nặng xảy ra

chỉ là 1,5%(17). Như vậy, tỉ lệ chảy máu nặng khi
dự phòng huyết khối trong các nghiên cứu từ
0,3% - 1,7% thấp hơn so với điều trị huyết khối
trong các nghiên cứu từ 1% - 7%, hơn nữa INR

261


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

đạt ngưỡng điều trị (INR = 2,0 – 3,0) trong
nghiên cứu chúng tôi rất thấp (23,8%) và rất khó
theo dõi nên dự phòng an toàn hơn là để có
huyết khối rồi mới điều trị. Mặt khác, khi dự
phòng, liều kháng đông thấp, thời gian ngắn
hơn, trong khi điều trị, liều kháng đông gấp đôi,
thời gian dài có thể 3, 6 hoặc thậm chí 12 tháng.

8.

KẾT LUẬN

11.

Nghiên cứu chúng tôi cho thấy, tỉ lệ mắc
HKTMS chi dưới không triệu chứng trên bệnh
nhân NMN nằm viện khá cao (hiện mắc là
20,1%, mới mắc là 15,3%), phổ biến ở bệnh nhân

≥ 60 tuổi, bất động là yếu tố nguy cơ liên quan có
ý nghĩa và độc lập với HKTMS ở bệnh nhân
NMN cấp nằm viện. Vị trí HKTMS gặp nhiều
nhất ở đoạn gần, tỉ lệ chảy máu nặng khi điều trị
kháng đông là 4,5%, chảy máu nặng cần truyền
máu nhưng không gây tử vong. Điều trị
HKTMS, tỉ lệ chảy máu nặng cao hơn dự phòng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.
7.

Diệp Thành Tường (2008), "Khảo sát tỉ lệ huyết khối tĩnh mạch sâu
trên bệnh nhân nhồi máu não", Luận văn thạc sĩ y học - Nội khoa,
mã số 60 72 20, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Đặng Vạn Phước và cộng sự (2010), "Nghiên cứu tỉ lệ huyết khối
tĩnh mạch sâu trên bệnh nhân nội khoa bằng phương pháp siêu
âm Duplex", Tạp chí Tim mạch học, 56, tr. 24 - 36.
Geerts WH, Pineo GF, Heit JA, et al (2004), "Prevention of
venous thromboembolism: the Seventh ACCP Conference on

Antithrombotic and Thrombolytic Therapy", Chest, 126 (3
Suppl), pp. 338S-400S.
Guyatt GH, Akl EA, Crowther M, et al (2012), "Executive
summary: Antithrombotic Therapy and Prevention of
Thrombosis, 9th ed: American College of Chest Physicians
Evidence-Based Clinical Practice Guidelines", Chest, 141 (2
Suppl).
Kamphuisen P. W., Agnelli G., Sebastianelli M. (2005),
"Prevention of venous thromboembolism after acute ischemic
stroke", J Thromb Haemost, 3 (6), pp. 1187-94.
Kearon C (2003), "Natural history of venous thromboembolism",
Circulation, 107 (23 Suppl 1), pp. I22-30.
Lê Minh Phương (2014), "Khảo sát tình trạng huyết khối tĩnh mạch
sâu trên bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nằm viện",
Luận văn thạc sĩ y học - Nội khoa, mã số 60 72 20, Đại học Y
Dược TP Hồ Chí Minh.

262

9.

10.

12.

13.
14.

15.


16.

17.

18.

19.

20.

Mehran R, Rao SV, Bhatt DL, et al (2011), "Standardized
bleeding definitions for cardiovascular clinical trials: a consensus
report from the Bleeding Academic Research Consortium",
Circulation, 123 (23), pp. 2736-47.
Nguyễn Trung Hiếu (2010), "Khảo sát tỉ lệ mới mắc huyết khối
tĩnh mạch chi dưới trên bệnh nhân nhồi máu não", Tạp chí Tim
mạch học.
Nguyễn Thị Phương Lan (2009), "Khảo sát huyết khối tĩnh mạch
sâu trên bệnh nhân nhiễm trùng cấp", Luận văn thạc sĩ y học - Nội
khoa, mã số 60 72 20, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Radaelli F, Dentali F, Repici A, et al (2015), "Management of
anticoagulation in patients with acute gastrointestinal bleeding",
Dig Liver Dis, 47 (8), pp. 621-7.
Samama MM, Cohen AT, Darmon JY, et al (1999), "A
comparison of enoxaparin with placebo for the prevention of
venous thromboembolism in acutely ill medical patients.
Prophylaxis in Medical Patients with Enoxaparin Study Group",
N Engl J Med, 341 (11), pp. 793-800.
Shoeb M, Fang MC (2013), "Assessing bleeding risk in patients
taking anticoagulants", J Thromb Thrombolysis, 35 (3), pp. 312-9.

Sun KK, Wang C, Pang BS, et al (2004), "(The prevalence of deep
venous thrombosis in hospitalized patients with stroke)",
Zhonghua Yi Xue Za Zhi, 84 (8), pp. 637-41.
Tan KK, Koh WP, Chao AK (2007), "Risk factors and
presentation of deep venous thrombosis among Asian patients: a
hospital-based case-control study in Singapore", Ann Vasc Surg,
21 (4), pp. 490-5.
Turpie AG, Leizorovicz A (2006), "Prevention of venous
thromboembolism in medically ill patients: a clinical update",
Postgrad Med J, 82 (974), pp. 806-9.
Turpie AG, Hull RD, Schellong SM, et al (2013), "Venous
thromboembolism risk in ischemic stroke patients receiving
extended-duration enoxaparin prophylaxis: results from the
EXCLAIM study", Stroke, 44 (1), pp. 249-51.
Warlow C, Ogston D, Douglas AS (1976), "Deep venous
thrombosis of the legs after strokes. Part I--incidence and
predisposing factors", Br Med J, 1 (6019), pp. 1178-81.
Yates SG, Sarode R (2015), "New strategies for effective
treatment of vitamin K antagonist-associated bleeding", J Thromb
Haemost, 13 (1), pp. 12970.
Yi X, Lin J, Han Z, et al (2012), "The incidence of venous
thromboembolism following stroke and its risk factors in eastern
China", J Thromb Thrombolysis, 34 (2), pp. 269-75.

Ngày nhận bài báo:

24/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:


27/11/2015

Ngày bài báo được đăng:

15/02/2016

Chuyên Đề Nội Khoa I



×