TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Tên đề tài: Tự do hóa đầu tư và các khu vực đầu tư tự do
Hà nội, tháng 3 năm 2012
1
Nhóm thực thực hiện: Đinh Thu Hương
Bùi Thị Lan Hương
Tạ Thanh Huyền
Lâm Hồng Huyền (nhóm trưởng)
Nguyễn Thùy Linh
Dương Thanh Loan
Nguyễn Thị Lúa
Lớp: 18B KTTG
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS Vũ Chí Lộc
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, đã xuất hiện ở
thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn còn đang
có những ý kiến khác nhau về nguồn gốc và bản chất của quá trình toàn cầu hoá.
Một số người cho rằng, quá trình toàn cầu hoá bắt đầu từ khi người Thổ Nhĩ Kỳ
kiểm soát con đường tơ lụa. Với một số người khác, quá trình đó được bắt đầu từ
sự kiện vượt qua vùng biển thuộc mũi Hảo Vọng và việc khám phá ra châu Mỹ,
nhờ đó thế giới được mở rộng và các nguồn tài nguyên của thế giới từ các châu
lục khác được chuyển về châu Âu. Nhưng, dù xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn,
toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu.
Toàn cầu hóa được biểu hiện đầu tiên thông qua toàn cầu hóa thương mại,
sau đó mới phát triển và mở rộng sang toàn cầu hóa đầu tư, hay còn gọi là tự do
hóa đầu tư. Là một phạm trù của toàn cầu hóa, tự do hóa đầu tư cũng mang tính tất
yếu và có tác động to lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của quốc gia nói
riêng và của phạm vi khu vực, quốc tế nói chung.
Trong điều kiện đó, sự liên minh, hợp tác giữa các quốc gia càng được thể
hiện rõ nét thông qua các hiệp ước, hiệp định, các thỏa thuận song phương và đa
phương về đầu tư giữa các vùng lãnh thổ, điều này đã dần dần hình thành các khu
vực tự do hóa đầu tư trên toàn thế giới như ASEAN, EU, Bắc Mỹ, cũng như các
tổ chức kinh tế thế giới điều chỉnh các hoạt động đầu tư giữa các quốc gia như
WB, WTO, OECD, APEC,
Với mục tiêu phân tích tính tất yếu của tự do hóa đầu tư trong mối quan hệ
với toàn cầu hóa, các bước tiến trong lĩnh vực tư do hóa đầu tư cũng như làm rõ
một số đặc điểm của một số khu vực tư do hóa đầu tư trên thế giới, bài tiểu luận
đưa ra các vấn đề sau :
- Xu hướng tự do hóa đầu tư
- Những bước tiến trong chính sách FDI
- Các khu vực đầu tư tự do
2
NỘI DUNG
I. Xu hướng tự do hóa đầu tư:
1/ Khái niệm và nội dung tự do hóa đầu tư
a. Khái niệm
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm và tài liệu về tự do hóa đầu tư nhưng lại
có rất ít tài liệu đề cập đến khái niệm này. Về cơ bản, tự do hóa đầu tư được hiểu
là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt động đầu tư, các phân biệt đối xử
trong đầu tư được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ dần dần được
thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn của thị trường được
hình thành.
Từ khái niệm trên có thể hiểu khi các nhà đầu tư trong chế độ đầu tư tự do
có thể đầu tư vào bất cứ ngành, lĩnh vực, dự án nào và họ sẽ được đối xử công
bằng, bình đẳng. Ngay cả các ưu đãi, khuyến khích đầu tư, vốn được voi là một
nhân tố kích thích đầu tư cũng sẽ không được sử dụng trong chế độ đầu tư đã tự
do hóa hoàn toàn vì những ưu đãi, khuyến khích này sẽ tạo ra sự phân biệt đối xử.
Trên thực tế Việt Nam và thế giới hiện nay, chưa có một chế độ đầu tư nào đạt
đến mức độ tự do hóa hoàn toàn theo đúng khái niệm trên.
Tự do hóa đầu tư là một phần của quá trình tự do hóa thương mại quốc tế
về hàng hóa, dịch vụ và tự do hóa các dòng tài chính, công nghệ, tri thức. Theo
đó, tự do hóa FDI là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt động FDI, các
phân biệt đối xử giữa FDI và các hình thức đầu tư khác được từng bước dỡ bỏ, các
tiêu chuẩn đối xử tiến bộ dần dần được thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt
động đúng đắn của thị trường được hình thành
b. Nội dung tự do hóa đầu tư
Tại Việt Nam, các khu vực và trên thế giới hiện nay, tự do hóa đầu tư đang
diễn ra mạnh mẽ theo ba nội dung chính
Thứ nhất, loại bỏ dần các rào cản và những ưu đãi mang tính phân biệt đối
xử trong hoạt động đầu tư. Đây là các quy định gây cản trở và hạn chế cho đầu tư.
Một số rào cản cần loại bỏ để có thể thực hiện đầu tư công bằng và minh bạch đó
là:
• Hạn chế vốn và quyền kiểm soát của nước ngoài: Quy định về tỷ lệ góp
vốn của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào doanh nghiệp, quy định
về số lượng thành viên của các bên trong hội đồng quản trị, quy định khi
rút vốn,…
• Hạn chế về hoạt động như: quy định về tuyển dụng và sử dụng lao động,
hạn chế bề nhập khẩu máy móc thiết bị, yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu
tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, hạn chế sản phẩm bán nội địa, kiểm soát ngoại
3
hối, quy định về chuyển giao công nghệ và quy trình sản xuất hoặc các tri
thức đặc biệt khác,…
• Hạn chế về hành chính như: các quy định về đầu tư của các cơ quan quản
lý.
• Các ưu đãi về thuế như: miễn thuế, giảm thuế, khấu trừ thuế, cho nợ thuế,
thuế thấp, cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn giữa
việc đóng thuế theo tình hình thực tế hay đóng chọn gói hang năm,…
• Hạn chế liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập
Thứ hai, thiết lập các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư.
Tiêu chuẩn đầu tiên phải nói đến đó là không phân biệt đối xử. Tiêu chuẩn này
xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và là một trong
những tiêu chuẩn quan trọng trong kinh doanh quốc tế. Theo tiêu chuẩn này, việc
một quốc gia quy định những điều kiện đặc biệt nhằm đặt một quốc gia khác hay
các pháp nhân, tự nhiên nhân của quốc gia khác vào vị trí kém thuận lợi hơn so
với quốc gia, pháp nhân, tự nhiên nhân của một nước thứ ba sẽ bị coi là phi pháp
và không phù hợp. Có hai mức độ trong tiêu chuẩn này, là không phân biệt đối xử
giữa các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch khác nhau (MFN) và không phân biệt
đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và công dân nước sở tại (NT). Tiêu chuẩn
thứ hai là về đối xử công bằng và bình đẳng. Tiêu chuẩn tiếp theo là tiêu chuẩn về
tính minh bạch. Tiêu chuẩn này đảm bảo cho mỗi bên tham gia vào quá trình đầu
tư có thể nhận được thông tin đầy đủ, chính xác và minh mạch từ các bên tham gia
khác để phục vụ tốt nhất cho quá trình ra quyết định và thực hiện các nghĩa vụ
cũng như các cam kết. Việc đảm bảo tính minh bạch vừa là nghĩa vụ vừa là quyền
lợi của các bên, nó góp phần đảm bảo tính ổn định và có thể dự đoán trước được
của các quan hệ đầu tư. Ngoài ra, trong hệ thống các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối
với hoạt động đầu tư còn có tiêu chuẩn về bảo hộ khỏi việc tước đoạt quyền sở
hữu, sử dụng các công cụ quốc tế để giải quyết các tranh chấp trong đầu tư, các
quy định về chuyển tiền và các quy định khác,…
Thứ ba, tăng cường các biện pháp giám sát thị trường để đảm bảo sự vận
hành đúng đắn của thị trường. Để thực hiện được điều này cần thiết lập các quy
định về cạnh tranh, chống độc quyền; công khai hóa thông tin; giám sát, kiểm soát
một cách chặt chẽ đối với thị trường trong đó chính sách cạnh tranh là trung tâm.
Các biện pháp này giúp đảm bảo cho thị trường thực hiện đúng chức năng của nó
và hoạt động bình thường, hạn chế, tiến tới xóa bỏ các biện pháp can thiệp của
chính phủ làm phương hại hoặc bóp méo sự vận hành của thị trường.
Cả ba nội dung kể trên của tự do hóa đầu tư đều rất quan trọng và có mối
quan hệ qua lại với nhau. Hai nội dung đầu là trọng tâm của quá trình tự do hóa
đầu tư. Tuy nhiên, toàn bộ tác động có lợi của chúng lại phụ thuộc nhiều vào nội
dung thứ ba, tức là phụ thuộc vào việc thị trường có được giám sát và kiểm soát
một cách hiệu quả hay không.
2. Tính tất yếu của tự do hóa đầu tư trong xu thế toàn cầu hóa
4
Trước khi phân tích tính tất yếu của tự do hóa đầu tư trong xu thế toàn cầu
hóa, cần hiểu về toàn cầu hóa và tầm quan trọng cũng như các đặc điểm của nó.
Toàn cầu hóa là việc hình thành một chuỗi vô số các liên kết ràng buộc giữa các
chính phủ và các xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới hiện đại. Toàn cầu hóa
cũng là quá trình mà ở đó các sự kiện, các quyết định và các hoạt động của một
phần thế giới có thể tác động nghiêm trọng đến các cá nhân và cộng đồng ở các
phần khác xa của trái đất (định nghĩa của Mc Gren).
Khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra, mọi mặt trong nền kinh tế đều được mở
rộng trong phạm vi toàn cầu. Và đầu tư với tư cách là một lĩnh vực quan trọng chủ
chốt trong nền kinh tế sẽ theo đó mà phát triển mạnh mẽ giữa các chủ thể tham gia
đầu tư là các quốc gia, các khu vực với nhau.
Tự do hóa đầu tư và toàn cầu hóa kinh tế có mối quan hệ rất khăng khít với
nhau, đó vừa là mối quan hệ chi phối, vừa là mối quan hệ tác động qua lại.
Đầu tiên, tự do hóa đầu tư là một nội dung, một biểu hiện của xu thế toàn
cầu hóa kinh tế. Quá trình tự do hóa kinh tế diễn ra đồng thời và toàn diện trên các
lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm tự do hóa thương mại và tự do hóa đầu tư. Tự
do hóa đầu tư phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn cầu hóa. Tự do hóa đầu
tư tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, tăng nguồn vốn đầu tư cho
các ngành nghề, qua đó sẽ mở rộng quy mô và phát triển dần lên.
Ngược lại, toàn cầu hóa kinh tế phát triển góp phần thúc đẩy tự do hóa kinh
tế trong đó có tự do hóa đầu tư diễn ra nhanh và mạnh trên toàn thế giới.
3 Xu hướng tự do hóa đầu tư ở Việt Nam và các nước trên thế giới
Việc tự do hóa đầu tư đã được quan tâm và đề cập trên bình diện quốc tế từ
rất sớm, biểu hiện là các quy định đầu tiên về FDI đã có trong luật pháp quốc tế từ
thế kỷ 18. Sau đó, song song với việc kinh tế phát triển, đầu tư quốc tế được mở
rộng và vấn đề về FDI ngày càng trở nên quan trọng, được các quốc gia chú trọng
và tăng cường hơn. Đặc biệt từ giai đoạn 1990 trở lại đây, tự do hóa FDI phát triển
mạnh mẽ bằng việc dỡ bỏ các hạn chế đối với việc thành lập, hoạt động của các
dự án FDI; Sô lượng BIT được ký kết tăng cao gấp nhiều lần giai đoạn trước và
một khuôn khổ pháp lý quốc tế chung về FDI bắt đầu hình thành dưới hình thức
các IIA.
Trên toàn thế giới, xu hướng chung về FDI vài năm gần đây có xu hướng
tăng mạnh. Biểu hiện ở việc FDI đã tăng đạt mức 1.510 tỷ USD năm 2011 từ
1.290 tỷ USD năm 2010. Riêng với các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi
đạt kỷ lục 755 tỷ USD, chiếm hơn một nửa dòng vốn FDI của thế giới. Sự tăng
trưởng FDI trong khu vực châu Á đang phát triển đã giảm tốc vào năm 2011 trong
bối cảnh cuộc khủng hoảng khu vực sử dụng đồng Euro, còn dòng vốn FDI ở khu
vực Đông, Đông Nam và Nam Á chỉ tăng 11,4% trong năm 2011, chậm hơn so
với tăng trưởng 17,8% trong năm trước đó. Các nước Mỹ Latinh và Caribê đã
5
vượt qua các nước Nam, Đông và Đông Nam Á để trở thành động lực thúc đẩy
tăng trưởng FDI vào các nền kinh tế đang phát triển và chuyển tiếp. Theo
UNCTAD, FDI tăng trưởng ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi giờ
đây chuyển sang châu Mỹ Latinh và vùng Caribe với mức tăng trưởng đạt 34,6%
năm 2011 so với 21,1% trong năm 2010 và sang các nền kinh tế chuyển đổi (khu
vực Đông Nam châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập), tăng lên 30,6% năm
2011 từ 0,8% năm 2010.
FDI thế giới giai đoạn 2010-2011 (tỷ USD)
2010 2011 %
Thế giới 1 289,7 1 508,6 17,0
Các nước phát triển 635,6 753,2 18,5
Các nước đang phát triển 583,9 663,7 13,7
Trong đó
Trung Quốc 114,7 124,0 8,1
Hồng Kông 68,9 78,4 13,8
Ấn Độ 24,6 34,0 37,9
Indonesia 13,3 19,7 48,2
Malaysia 9,1 11,6 27,6
Singapore 38,6 41,0 6,1
Thái Lan 5,8 7,7 33,1
Đông Nam Âu và Cộng
đồng các quốc gia độc lập
70,2
91,7
30,6
Xu hướng tự do hóa đầu tư trong các năm sắp tới ở các khu vực và các
quốc gia trên thế giới đó là vẫn tiếp tục thực hiện việc thay đổi chính sách để tự do
hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký và vận hành dòng vốn FDI. Đặc
biệt, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang tiếp tục được hồi phục, giá trị thị trường
chứng khoán và lợi nhuận của các công ty xuyên quốc gia đang gia tăng, thì thời
gian tới FDI sẽ ngày càng được tự do hóa đầu tư một cách nhanh chóng. Quá trình
tái cấu trúc doanh nghiệp và ngành, làn sóng tư nhân mới ở một số nước khiến cho
nhu cầu đầu tư của khu vực nhà nước sau khủng hoảng tài chính tăng đang tạo ra
những cơ hội đầu tư mới cho các nước giàu tiền mặt tại các nền kinh tế phát triển
và đang phát triển, dòng FDI toàn cầu được dự đoán tiếp tục tăng và sẽ sớm đạt
mốc 1.600 tỷ. Điều đó sẽ tạo động lực cho việc tự do hóa đầu tư diễn ra nhanh và
mạnh nhằm phục vụ và tạo điều kiện cho các quốc gia tham gia đầu tư được thuận
lợi nhất.
6
Đối với Việt Nam, nước ta được xếp hạng là một trong mười nền kinh tế
hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam là một quốc gia hấp
dẫn đầu tư hàng đầu trong các nước ASEAN. Tuy nhiên, vốn FDI đăng ký mới và
tăng thêm năm 2011 đạt 14,7 tỷ USD, giảm 26% so với con số 18,3 tỷ USD của
năm 2010. Nguyên nhân của sự sụt giảm này, một phần do ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế thế giới, một phần do Việt Nam đã chú trọng hơn đến chất lượng đầu
tư. Mặt khác, dù vốn FDI có giảm đi nhưng trong sự sụt giảm ấy lại nổi bật lên
một tín hiệu đáng mừng là cuộc bứt phá ngoạn mục của dòng vốn FDI vào lĩnh
vực chế biến chế tạo. Sau nhiều năm đứng sau bất động sản, năm 2011, lĩnh vực
chế biến chế tạo đã đứng đầu bảng thu hút FDI với tổng số vốn cấp mới và tăng
thêm là hơn 7,1 tỷ USD, chiếm 48,5% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 12 tháng.
Trong các năm tới, tự do hóa đầu tư tại Việt Nam có xu hướng sẽ tiếp tục
phát triển đều mà trước hết sẽ hướng trọng tâm vào việc tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức cao và các ngành công nghệ thông tin vì
đây là các lĩnh vực có dự báo sẽ là các ngành trọng tâm để thu hút FDI trong
những năm tới.
II. Những bước tiến mới trong chính sách FDI
1/ Cấp quốc gia:
Các quốc gia hiện nay đa phần đều nỗ lực cải cách luật pháp và chính sách
đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tự do hóa. Có thể kể đến các quốc gia đi
đầu trong việc cải cách luật pháp và chính sách để thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài như Mỹ, các nước Châu Âu, Singapore…
Đối với Mỹ:
Vào những năm 1980, dòng vốn FDI đã đổ dồn vào Mỹ do quy mô và độ
mở của nền kinh tế, đặc biệt là khi quá trình toàn cầu hóa được đẩy mạnh. Nhiều
doanh nghiệp ở Châu Âu và Châu Á đã tìm đến Mỹ như địa điểm đầu tư lý tưởng
vì Mỹ có thế mạnh về công nghệ và thị trường vốn phát triển cũng như môi trường
đầu tư thân thiện (vốn pháp định thấp, quy định và luật ít, dễ dự báo, không nặng
gánh về thuế). Tuy nhiên, những chính sách và môi trường kinh doanh thân thiện
không phải là chiến lược quốc gia để thu hút FDI của Mỹ. Nó chỉ phản ánh văn
hóa thúc đẩy kinh doanh truyền thống vốn đã tồn tại trong thời gian dài, ảnh
hưởng về mặt chính trị của những chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư và các nhà quản
lý trong việc tìm kiếm những quy định để thúc đẩy và tạo điều kiện cho đầu tư
trong nước. Mỹ đã thành công trong việc thu hút FDI dựa vào các quy định pháp
luật, cụ thể là ở cấp độ liên bang. Mặc dù chính quyền liên bang không liên quan
nhiều đến quá trình cạnh tranh thu hút FDI bằng luật, nhiều quy định có liên quan
đên các nhà đầu tư không phải được xây dựng bởi chính quyền liên bang mà bởi
chính quyền cấp bang, thậm chí ở mức độ nào đó bởi chính quyền thành phố và
cộng đồng. Bên cạnh đó, việc cạnh tranh bằng các ưu đãi hiếm được đặt ra ở cấp
7
chính quyền trung ương nhưng lại rất phổ biến ở chính quyền liên bang. Các chính
sách thường được các bang áp dụng là: giảm thuế tài sản, tín dụng thuế theo thu
nhập, miễn hoặc giảm thuế doanh thu.
Đối với Singapore:
Singapore là một trong những nền kinh tế thành công trong việc thu hút
FDI nhờ chiến lược tập trung vào công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Chiến
lược này được xây dựng từ những năm 1960 dựa trên thực tế là thị trường nội địa
nhỏ hẹp, nguồn vốn trong nước hạn chế, các doanh nghiệp trong nước vẫn còn
yếu. Chiến lược này đã được thực hiện hiệu quả và đến năm 1981, ngành chế tác
của Singapore đã thu hút được đến hơn ½ tổng số vốn FDI vào trong nước. Đến
năm 1993, các khoản đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh và ngành chế tác đã thu hút
đến 60% tổng vốn đầu tư nước ngoài, đưa Singapore trở thành một trong những
nước thu hút nhiều vốn FDI vào ngành chế tác. Thành công này không chỉ do
những khuyến khích mạnh mẽ về thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp nước
ngoài mà quan trong hơn là cơ sở hạ tầng thuộc loại hàng đầu thế giới của
Singapore (pháp lý, vận tải, viễn thông), môi trường hỗ trợ kinh doanh, bộ máy
hành chính hiệu quả và môi trường chính trị tương đối ổn định.
Thu hút vốn FDI của các công ty đa quốc gia (TNCs) cũng là một trong
những kênh thu hút FDI quan trọng mà các quốc gia luôn tìm mọi cách để tăng
cường. Trong số các quốc gia châu Á, Singapore được coi là nước thu hút được
nhiều TNCs nhất. Để làm được điều này, Singapore đã thực hiện những chính
sách sau:
• Về cân đối ngoại tê, quản lý ngoại hối: Chính phủ Singapore không có sự
quản lý về ngoại hối mà để cho thị trường này hoạt động tự do theo những
quy luật của thị trường.
• Về quy định vay vốn, quản lý đất đai: nhà đầu tư có thể huy động vốn qua
phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay tổ chức tài chính trong nước và nước
ngoài.
• Thủ tục đầu tư: các thủ tục này được thực hiện theo cơ chế một cửa, đảm
bảo giải quyết nhanh gọn về các thủ tục cho nhà đầu tư.
• Về lĩnh vực đầu tư: mở cửa hầu hết đối với các lĩnh vực kinh tế trừ lĩnh vực
liên quan đến án ninh quốc phòng và an toàn xã hội.
Tóm lại, mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay đều có những chính sách riêng
nhằm thu hút FDI, nhưng tựu chung lại, hiện nay trên thế giới, các quốc gia tiến
hành tự do hóa FDI bằng việc thay đổi các chính sách theo các hướng sau:
Rất nhiều rào cản đối với FDI từng bước được dỡ bỏ. Các rào cản này bao
gồm những rào cản đối với việc tiếp nhận và thành lập, các quy định về hoạt động
của các công ty nước ngoài. Đối với việc tiếp nhận và thành lập, hiện nay một số
nước đơn phương tự do hóa các điều kiện tiếp nhận và thành lập đối với FDI bằng
cách sửa đổi luật quốc gia hoặc tham gia vào các hiệp định quốc tế. Số lượng các
8
hoạt động, các ngành đóng cửa với FDI đã giảm xuống; danh mục các hoạt động,
các ngành đóng cửa, mở cửa cho FDI thường xuyên được rà soát; các hạn chế về
quyền sở hữu và quản lý trong các hoạt đông, các lĩnh vực giảm xuống hoặc được
xóa bỏ hoàn toàn; các thủ tục xét duyệt được đơn giản hóa hoặc được xóa bỏ. Bên
cạnh đó, các quy định về hoạt động của các công ty nước ngoài được tự do hóa
mạnh mẽ. Các hạn chế về chuyển lợi nhuận và vốn về nước, chuyển các khoản
tiền khác nói chung đã được xóa bỏ hoặc nới lỏng. Các yêu cầu hoạt động cũng ít
được sử dụng.
Một số biện pháp khuyến khích, ưu đãi được áp dụng cho mọi hoạt động
đầu tư. Các khu kinh tế tập trung như Khu chế xuất, khu công nghiệp, đặc khu
kinh tế, khu vực đầu tư và thương mại tự do… được xây dựng ngày càng nhiều để
thu hút đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau. Các khu này thường có quy chế hoạt
động riêng, thông thoáng và ưu đãi hơn so với bên ngoài rất nhiều.
Các chuẩn mực đối xử như NT, MFN, đối xử công bằng, bình đẳng… được
sử dụng đối với các dự án FDI trong quá trình hoạt động.
Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự hoạt động
đúng đắn của thị trường cũng được đề cập. Các nước rất nỗ lực trong việc cải
thiện toàn bộ hệ thống pháp luật của mình để xây dựng môi trường pháp lý đồng
bộ, minh bạch và có thể dự đoán trước được nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của
các doanh nghiệp. Luật cạnh tranh, quy định về bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ
môi trường,…được ban hành ở nhiều nước.
2/ Cấp quốc tế:
Các hiệp định đầu tư song phương:
Số lượng các hiệp định đầu tư song phương đã tăng lên nhanh chóng trong
giai đoạn từ những năm 1990. Trước đó, số lượng các hiệp định đầu tư song
phương trên thế giới vào khoảng 386 Hiệp định (giai đoạn 1960-1980), đến năm
1990, số HIệp định đầu tư song phương được kí kết đã lên đến 1471 Hiệp định.
Thành phần các nước tham gia ký kết cũng đang dần thay đổi. Các nước xuất khẩu
vốn nhỏ hơn, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển tham
gia ngày càng tích cực vào việc kí kết các Hiệp định đầu tư song phương. Về cơ
bản, các Hiệp định đầu tư song phương này thường được ký kết giữa một nước
OECD với một nước đang phát triển, hoặc giữa các nước đang phát triển. Điều
này được lý giải bởi động cơ khác nhau của các nước này, cụ thể là động cơ của
một bên là thu hút đầu tư, trong khi bên kia là tìm cách có thêm sự bảo hộ cho
hoạt động đầu tư.
Điểm quan trọng của các Hiệp định đầu tư song phương gần đây là đã
thống nhất được một số nguyên tắc chung, trong đó có những nguyên tắc liên
quan đến FDI. Cụ thể là:
9
• Việc tiếp nhận và thành lập: hầu hết các Hiệp định đầu tư song phương đều
theo mô hình “kiểm soát đầu tư” đối với việc tiếp nhận và thành lập. Đối
với các Hiệp định đầu tư song phương có một bên là Mỹ sẽ theo mô hình
“kết hợp đối xử MFN và NT” với mục đích mở rộng tối đa các quyền tiếp
cận và thành lập doanh nghiệp. Quyền này cũng bao gồm một số ngoại lệ
nhất đinh.
• Quy định dành NT cho các nhà đầu tư của nước tham gia ký kết và hoạt
động đầu tư của họ trên lãnh thổ nước tham gia ký kết kia.
• Việc đảm bảo chế độ MFN, với một số ngoại lệ nhất định đã trở thành
nguyên tắc phổ biến trong các Hiệp định đầu tư song phương.
• Qui định nước chủ nhà được phép trưng thu nhưng việc trưng thu phải tuân
thủ những điều kiện nhất định.
• Đảm bảo tự do chuyển các khoản tiền liên quan đến đầu tư ra nước ngoài.
Việc này thường có ngoại lệ đối với các giai đoạn mà dự trữ ngoại tệ ở mức
thấp.
• Có điều khoản giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và Nhà nước, dành cho
nhà đầu tư quyền lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, một số vấn đề nữa cũng được đề cập trong các BIT như: yêu cầu
nước chủ nhà phải đảm bảo cho nhà đầu tư quyền tiếp cận thông tin về pháp luật
quốc gia, cấm đặt ra các yêu cầu về hoạt động như tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu xuất
khẩu, yêu cầu tự cân đối ngoại tệ, yêu cầu đối với việc tuyển dụng lao động…
Tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi toàn cầu:
Các văn bản điều chỉnh FDI trên thế giới cho đến nay thường bao gồm các
nội dung chính sau:
• Khuyến khích FDI: các bên tiến hành trao đổi thông tin, hợp tác trong xây
dựng pháp luật, hỗ trợ kỹ thuật và vật chất cho việc khuyến khích FDI.
• Bảo hộ FDI: tự do hóa các giao dịch thanh toán vãng lai và các giao dịch
thanh toán khác cũng như việc di chuyển vốn, cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài được bán, nhượng, chuyển các tài sản của họ ra nước ngoài,
bảo hộ quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài, quy định về giải quyết
tranh chấp trong đầu tư.
• Tiếp cận thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài và các hạn chế có thể có
đối với việc tiếp cận thị trường.
• Các quy định sau giấy phép
• Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự vận hành đúng
đắn của thị trường
WTO với vấn đề tự do hóa FDI
FDI đã được đề cập trong khuôn khổ GATT nhưng không thường xuyên.
Đến khi WTO ra đời, vấn đề đầu tư tiếp tục được xem xét trong các vòng đàm
phán của tổ chức này. Tuy chưa xây dựng được một khung pháp lý đa phương
10
điều chỉnh toàn diện hoạt động đầu tư nước ngoài, nhưng các nước thành viên
WTO cũng đã ký kết một số hiệp định liên quan đến đầu tư, trong đó quan trọng
nhất là GATS, TRIMs. TRIP và ASCM.
TRIMs đề cập trực tiếp đến đầu tư, là cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động
thương mại hàng hóa của dự án đầu tư. Mục tiêu là xóa bỏ các hạn chế, tác động
tiêu cực đối với hoạt động thương mại hàng hóa của dự án đầu tư, thúc đẩy tự do
hóa thương mại và đầu tư quốc tế. Hiệp định quy định các nước thành viên không
được áp dụng bất kỳ biện pháp nào trái với nghĩa vụ dành NT và loại bỏ hạn chế
về số lượng của GATT 1994. Mặc dù chỉ đề cập đến một khía cạnh của tự do hoá
FDI, đó là góp phần xoá bỏ các rào cản đối với thương mại hàng hoá trong quá
trình hoạt động của các dự án FDI, hiệp định TRIMs là văn bản đầu tiên thể hiện
sự đồng thuận của nhiều nước trong việc điều chỉnh mối quan hệ đầu tư giữa các
nước và thúc đẩy tự do hoá FDI.
GATS có nhiều quy định nhằm tự do hóa việc trao đổi dịch vụ quốc tế trên
cơ sở một định nghĩa rộng về thương mại dịch vụ. GATS đưa ra một số các quy
định về đầu tư chủ yếu nhằm đảm bảo nguyên tắc MFN và tính minh bạch đối với
các dịch vụ được cung ứng thông qua sự hiện diện thương mại ở nước ngoài.
Nhiều quy định của GATS đề cập đến việc điều chỉnh các dòng tài chính xuyên
biên giới.
TRIPS đề cập đến quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn đối xử và các quy
trình thủ tục quốc tế liên quan đến vấn đề này.
ASCM cấm một số các biện pháp khuyến khích đầu tư được coi là “biện
pháp hỗ trợ” theo định nghĩa của hiệp định này.
WB với vấn đề tự do hóa FDI
WB nhấn mạnh 2 khía cạnh: giải quyết tranh chấp trong FDI và các biện
pháp đảm bảo an toàn cho dòng vốn FDI. WB đưa ra các “nguyên tắc chỉ đạo về
đối xử với FDI” nhằm hướng đến dỡ bỏ các rào cản đối với dòng vốn FDI. Các
nguyên tắc chỉ ra rằng việc đưa ra một số yêu cầu hoạt động như những điều kiện
để được tham gia đầu tư thường phản tác dụng trong khi việc cho phép tự do đầu
tư, có thể kèm theo một danh mục hạn chế đầu tư, là cách tiếp cận có hiệu quả
hơn. Tuy nhiên vẫn có những ngoại lệ mà luật pháp một nước đặt ra để bảo hộ cho
công dân nước mình nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo lợi ích quốc gia. Văn bản
này cũng đề cập đến các vấn đề quan trọng như cấp giấy phép, chuyển nhượng
vốn, nhập cảnh của người lao động, nhưng không chú ý đến việc đưa các nguyên
tắc vào áp dụng.
OECD với vấn đề tự do hóa FDI
Các vòng đàm phán về MAI được khởi xướng từ năm 1990 nhằm thiết lập
khung pháp lý đa biên cho đầu tư quốc tế với tiêu chuẩn cao về tự do hóa chế độ
đầu tư, bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư. Cụ thể là: loại bỏ rào cản
11
đối với đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư trong mọi lĩnh vực trừ
lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng; loại bỏ các quy định khống chế tỷ lệ
sở hữu vốn nước ngoài; thực hiện chế độ không phân biệt đối xử, dành NT và
MFN cho nhà đầu tư nước ngoài cả ở khâu sau thành lập… Nhiều quốc gia đã
tham gia vào vòng đàm phán MAI, nhiều cuộc gặp gỡ đã được tổ chức. Tuy nhiên
do những bất đồng không thể giải quyết giữa các nước OECD, việc đàm phán hiệp
định này đã bị đình hoãn từ 10/1998
APEC với vấn đề tự do hóa FDI
Cuộc gặp Seoul (1991) của các Bộ trưởng kinh tế đã mở rộng các mục tiêu
của APEC, ủng hộ ý tưởng xoá bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư trong
khu vực. Mục tiêu của APEC là tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư vào năm
2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát triển. Các
nước thành viên sẽ giảm hoặc loại bỏ những hạn chế đối với ĐTNN phù hợp với
quy định của WTO, ANBIP, các hiệp định quốc tế khác có liên quan đến đầu tư và
bất kỳ hướng dẫn nào được thoả thuận chung trong nội bộ APEC, đồng thời tăng
cường ký kết các BIT giữa các nước thành vien. APEC đã phối hợp thực hiện các
chương trình hành động quốc gia và các hành động tập thể chung như tăng cường
tính minh bạch của môi trường đầu tư các nước APEC. Ở Vancouver (1997),
nhóm chuyên gia về đầu tư đã tiếp tục đưa ra ý tưởng xây dựng một danh mục các
lựa chọn mà các nền kinh tế thành viên có thể sử dụng. Danh mục này đã được
thông qua và từ đó đến nay được cập nhật thường xuyên.
ASEM với vấn đề tự do hóa FDI
Một trong những ưu tiên hàng đầu của ASEM là tăng cường hợp tác giữa
các doanh nghiệp và cải thiện các điều kiện đầu tư thông qua việc triển khai
chương trình hợp tác IPAP. Chương trình hợp tác IPAP nhằm mục tiêu cải thiện
luật pháp, chính sách ở các nước thành viên để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
cho nhà đầu tư ở cả hai khu vực châu Á và châu Âu để gia tăng dòng vốn đầu tư 2
chiều. IPAP nhằm tạo diễn đàn đối thoại cấp cao về chính sách cải thiện môi
trường đầu tư theo hướng thực hiện nguyên tắc đầu tư không ràng buộc với nội
dung chủ yếu là dành NT, xoá bỏ hạn chế liên quan đến chuyển vốn và lợi nhuận
ra nước ngoài… Các hoạt động của IPAP được chia thành 2 mảng chính là xúc
tiến đầu tư và luật pháp, chính sách về đầu tư.
• Xúc tiến đầu tư trong IPAP được tiến hành theo 3 hướng: xây dựng mạng
trao đổi thông tin trong ASEM, tổ chức hội nghị bàn tròn các lãnh đạo cấp
cao các công ty lớn, và chương trình trao đổi giữa các doanh nghiệp
ASEM.
• Hoạt động liên quan đến luật pháp và chính sách về FDI nhằm giúp cải
thiện hệ thống luật pháp và chính sách về FDI của các nước thành viên theo
hướng tăng cường tính minh bạch, có thể dự đoán trước và không phân biệt
đối xử.
12
Diễn đàn ASEM tuy là đối thoại không chính thức nhưng đã xây dựng
được một chương trình hành động xúc tiến đầu tư khá chi tiết và bước đầu đem lại
nhiều lợi ích cho các nước thành viên.
III. Các khu vực đầu tư tự do
1/ Khu vực đầu tư Asean (AIA)
a. Đôi nét về AIA
- Ngày 7/10/1998 tại Manila, Philippines, Bộ trưởng kinh tế 10 nước thành
viên Hiệp hội các quốc gia Đông nam á đã đặt bút ký vào bản Hiệp định
khung về việc thành lập một Khu vực đầu tư ASEAN- AIA. Sự ra đời của
AIA mở ra cơ hội không chỉ cho các nước thành viên trong khu vực thu hút
nguồn đầu tư từ bên ngoài khu vực mà còn mở ra khả năng đẩy mạnh hơn
nữa hoạt động đầu tư trong nội bộ giữa các nước ASEAN.
- Mục tiêu cuối cùng và cơ bản nhất của Hiệp định AIA là:
• Xây dựng AIA có môi trường đàu tưu thông thoáng và minh bạch hơn
giữa các quốc gia thành viên nhằm:
+ Đẩy mạnh đàu tư vào ASEAN tử các nguồn cả trong và ngoài
ASEAN
+ Cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất
+ Củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vự kinh tế của
ASEAN
+ Giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản
trở các dòng đầu tưu và sự hoạt động của các dự án đầu tưu trong
ASEAN.
• Đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng
tới tự do lưu chuyển đàu tư vào năm 2020.
b. Nguyên tắc của AIA
- Nguyên tắc quan trọng nhất của hiệp định này là thực hiện chế độ NT và
mở cửa các ngành nghệ cho các nhà đầu tư theo một lộ trình và với những
ngoại lệ trong một số lĩnh vực và vấn đề nhất định.
- Nguyên tắc MFN: Mỗi quốc gia thành viên ASEAN sẽ dành ngay lập tức
và vô điều kiện cho các nhà đầu tư ASEAN khác sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba
nào. Hiệp định cho phép nước thành viên không áp dụng MFN đối với một
số ưu đãi trong khuôn khổ các hiệp định mà nước đó đã ký kết trước ngày
13
ký hiệp định, nhưng phải thông báo danh sách các hiệp định này cho hội
đồng AIA trong vòng 6 tháng kể từ ngày hiệp định được ký kết.
- Các nguyên tắc khác: Hiệp định đã mở rộng nguyên tắc về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư của hiệp định đã ký kết năm 1987, đồng thời bổ sung một số
vấn đề mới trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc của các hiệp định quốc tế
đa biên như: thực hiện các nghĩa vụ chung; tăng cường tính minh bạch và
có thể dự đoán trước của luật phatsp, chính sách về đầu tưu; cho phép nước
thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp hoặc biện pháp bảo vệ cán
cân thanh toán trong một số trường hợp và với những điều kiện nhất định,
…
c. Phạm vi áp dụng
- Theo hiệp định khung, các quy định trong Hiệp định AIA sẽ chỉ có hiệu lực
đối với các dự án đầu tư trực tiếp. Hiệp định AIA sẽ không có hiệu lực đối
với các khoản đầu tư theo danh mục chứng khoán và đối với tất cả các vấn
đề có liên quan đến các khoản đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của các
thoả thuận ASEAN khác.
2/ Khu vực đầu tư EU (EIA)
- Đầu tư làm một nột dung của các hiệp ước của EU. Hiệp ước EEC đã nêu
rõ một trong các mục tiêu của cộng đồng là “bãi bỏ, giữa các nhà nước
thành viên, những rào cản tự do hoá việc di chuyển con người, dịch vụ
và vốn”.
- Cách tiếp cận FDI của EEC khác với các hiệp định đầu tư quốc tế khác ở
chỗ nó đề cập cả đến việc tự do di chuyển sức lao động.
- Song song với việc sửa đổi các hiệp ước dựa vào Đạo luật Châu Âu thống
nhất, Hiệp ước Maastrich và Hiệp ước Amsterdam, các quy định bảo vệ
hoạt động FDI không chỉ giới hạn giữa các nước EU mà giữa các nước EU
với các nước ngoài khối.
- Các hiệp ước quy định các nước thành viên có nghĩa vụ cho phép tự do di
chuyển con người, dịch vụ và vốn, không cần bất cứ một hành động có tính
pháp lý nào thêm từ phía EU.
- Hạn chế đối với việc thành lập doanh nghiệp hoặc cung cấp dịch vụ được
xoá bỏ đối với các thể nhận và pháp nhân mang quốc tịch của một nước
14
thnfh viên. Tuy nhiên, các nước thành viên được phép đối xử khác nhau
với các công dân nước ngoài vì mục đích chính sách công, an ninh công
cộng, sức khoẻ cộng đồng.
- Vì việc xây dựng luật pháp trong các lĩnh vực khác nhau của các nước EU
phụ thuộc lẫn nhau, nên đối với các vấn đề đa phương về đầu tư, EU và các
nhà nước thành viên phải cùng nhau tham gia. Tuy nhiên, các nước thành
viên EU có thể và đã có những hành động đơn phương trong việc giải
quyết các vẫn đề song phương có liên quan đến đầu tư. Các hiệp định ký
giữa EU và các nước Trung và Đông Âu cũng theo phương pháp tiếp cận
này. Còn các hiệp định giữa EU và các đối tác khác hạn chế các quyền
thành lập doanh nghiệp.
Tóm lại, việc tự do hoá mạnh mẽ sự lưu chuyển vốn, xoá bỏ một cách có
hiệu quả các biện pháp phân biệt đối xử và việc áp dụng các quy tắc chung
giữa các thành viên EU về quyền đối xử với FDI đã có nhiều tác động đến
FDI trong nội bộ khối và với các nước ngoài khối.
3/ Khu vực đầu tư Bắc Mỹ (NAIA)
a. Đôi nét về NAFTA
- NAFTA là hiệp định thương mại tự do giữa ba nước Mỹ, Canada, Mexico,
ký kết ngày 12/8/1992, hiệu lực từ ngày 1/1/1994. Tự do hóa đầu tư được
đề cập đến trong NAFTA Hiệp định này đánh dấu một xu hướng mới đối
với các Hiệp định thương mại tự do, đó là đưa FDI vào phạm vi điều chỉnh.
- NAFTA đã cam kết tất cả các bên chấm dứt những hạn chế đối với các nhà
đầu tư nước ngoài là thành viên của NAFTA, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở
mức độ cao, và tự do hoá thương mại dịch vụ. Hiệp định này cũng thiết lập
cơ chế giải quyết tranh chấp. NAFTA cũng có một phụ lục về các tiêu
chuẩn và hợp tác trong vấn đề môi trường và lao động, đưa hiệp định
thương mại đầu tiên của Mỹ chính thức được gắn với những cam kết này.
- Cơ quan giám sát cao nhất của NAFTA là Ủy ban Mậu dịch Tự do Bắc
Mỹ, bao gồm Ðại diện Thương mại Mỹ, Bộ trưởng Ngoại thương Canada,
và Bộ trưởng Thương mại và Phát triển Công nghiệp Mehico. Ủy ban này
đã thành lập các tổ công tác và các cơ quan tư vấn để quản lý những hoạt
động hàng ngày của hiệp định.
15
- NAFTA có những quy định riêng quản lý việc tự do hoá thương mại và đầu
tư, được sử dụng bổ sung hoặc thay thế các quy định của WTO. Các quy
định của NAFTA áp dụng vào các lĩnh vực bao gồm việc mở cửa đối với
mua sắm của chính phủ, các tiêu chuẩn sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, các tiêu chuẩn viễn thông, đầu tư, quy định về xuất xứ hàng hoá, các
biện pháp ngăn chặn làn sóng nhập khẩu, và dịch vụ.
b. Nguyên tắc của NAFTA
- NAFTA yêu cầu các bên phải tôn trọng 5 nguyên tắc: NT, MFN, tiêu chuẩn
đối xử tối thiểu, cấm một số yêu cầu về hoạt động đối với các nhà đầu tư,
các quy định quản lý về việc tịch thu, trưng thu.
- NAFTA quy định dành NT hoặc MFN (tùy theo sự đối xử nào tốt hơn) cho
các nhà đầu tư và các khoản đầu tư của một bên ký kết liên quan đến
“thành lập doanh nghiệp, mua lại, mở rộng, quản lý, điều chỉnh, vận hành
và bán lại hoặc định đoạt bằng hình thức khác của các khoản đầu tư”.
- Các quy định về bảo hộ đầu tư trong NAFTA rất chi tiết. Không thành viên
nào trong NAFTA được phép trực tiếp hoặc gián tiếp tiến hành hoặc có
biện pháp tương tự nhằm quốc hữu hóa hoặc trưng thu các khoản đầu tư
của các nhà đầu tư của một thành viên khác trên lãnh thổ nước mình, trừ
một số trường hợp ngoại lệ.
4/ Xu hướng liên kết Đông Á và ý tưởng về khu vực đầu tư Đông Á
a. Nguyên nhân dẫn đến ý tưởng về khu vực đầu tư Đông Á
- Ngoài việc phát triển liên kết trong ASEAN, các nước thành viên tổ chức
này cũng đã quan tâm đến việc phát triển các cuộc đối thoại nhiều bên hơn
về hợp tác Đông Á.
- Đầu những năm 1990, Thủ tướng Malaysia đề xuất thành lập nhóm Kinh tế
Đông Á, khởi động cho ý tưởng tăng cường hợp tác kinh tế trong khối.
- Năm 1996, ASEM được thành lập. Đây là diễn đàn đối thoại giữa một bên
là châu Âu và một bên là châu Á.
- Ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính châu Á 1997 – 1998 đễn
nhiều nền kinh tế trong khu vực khiến các nước thấy cần đẩy mạnh hợp tác
trong khối để ngăn chặn khủng hoảng và để châu Á có tiếng nói có trọng
16
lượng hơn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ thế giới
(IMF).
- APEC không còn duy trì được vai trò trong việc đẩy mạnh tự do hóa
thương mại như đã làm vào đầu những năm 1990.
- Liên kết một số khu vực phát triển mạnh như Bắc Mỹ, Tây Âu khiến các
nước Đông Á thấy cần đẩy mạnh hợp tác kinh tế trong khu vực.
b. Xu hướng liên kết Đông Á
- Bước đi chính thức đầu tiên của ASEAN hướng đến việc mở rộng hợp tác
trong khu vực Đông Á là lễ khởi động quá trình hình thành ASEAN+3 gồm
ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hàng năm, ASEAN+3 tổ
chức các cuộc họp của lãnh đạo các nước thành viên, của các bộ trưởng để
bàn về các vấn đề chính trị như an ninh, thương mại, việc làm, nông lâm
nghiệp, du lịch, năng lượng, môi trường và một hoạt động đáng chú ý là
đẩy mạnh hợp tác tài chính khu vực, với việc thành lập Quỹ Trái phiếu
châu Á và một loạt các hiệp định “hoán đổi tiền tệ” để tránh lặp lại khủng
hoảng tài chính năm 1997.
- Các nước đã đề xuất tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS). Các
nước cũng đề xuất sự tham gia của 3 thành viên mới là Ấn Độ, Úc và Niu
Di Lân (ASEAN+6).
- Tháng 12/2005, cuộc gặp đầu tiên của EAS diễn ra với sự tham gia của 16
nước. Lãnh đạo các nước nhất trí sẽ nỗ lực đẩy mạnh hợp tác giữa các nước
thành viên.
- Ngày 20/11/2007, Hội nghị ASEAN+3 lần thứ 11 đã thông qua Tuyên bố
chung lần thứ hai về hợp tác Đông Á, kế hoạch công tác ASEAN+3 và việc
lập quỹ hỗ trợ thực hiện các hoạt động hợp tác. Lãnh đạo các nước cho
rằng các bên cần đẩy nhanh đàm phán về việc thành lập các Khu vực mậu
dịch tự do (FTA) giữa ASEAN với từng nước Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc cũng như việc nghiên cứu khả thi về xây dựng Khu vực mậu
dịch tự do Đông Á (EAFTA) và Khu vực đầu tư Đông Á.
- Các cuộc họp diễn ra sau đó của các hội nghị cấp cao ASEAN+3, ASEAN-
Trung Quốc, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Hàn Quốc diễn ra hàng năm đề
cập đến thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng của các bên trên tất cả các lĩnh vực
17
18
KẾT LUẬN
Bước vào năm 2012, hầu hết các nước trên toàn cầu tiếp tục có những
chính sách, giải pháp mạnh, đối phó với nền tài chính đang khủng hoảng sâu sắc
và suy thoái kinh tế toàn cầu đang lan rộng và diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh
đó, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những diễn biến khác thường,
đẩy mạnh tự do hoá và xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ đan xen, tăng nhà nước, bớt thị
trường song xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác để phục hồi và tiếp tục phát triển
vẫn là xu thế chủ đạo trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến
lược phát triển của từng nước.
Tự do hóa đầu tư trở thành thách thức to lớn đối với toàn bộ các quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Để tránh khỏi
ảnh hưởng xấu của đại khủng hoảng tài chính toàn cầu, tránh nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế, cũng như tranh thủ được hoàn cảnh lịch sử để phát huy các lợi thế
cạnh tranh, Việt Nam phải đồng bộ hóa các hoạt động đầu tư, bắt đầu tư điều
chỉnh môi trường pháp luật trong đầu tư đồng thời nâng cao hiểu biết của doanh
nghiệp trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Cũng theo đó, Việt Nam phải chuẩn bị sâu sắc hơn, toàn diện hơn để thực
hiện theo các lộ trình tự do hóa đầu tư không những tránh được các thiệt hại, ảnh
hưởng xấu đến nền sản xuất trong nước mà còn từng bước đẩy mạnh hình ảnh của
Việt Nam trên thị trường thế giới.
19