BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT
Họ và tên
Mã sinh viên
Chức vụ
1
Nguyễn Thị Hương
2
Trần Lan Hương
Thành viên
3
Trần Thị Thu Hường
Thành viên
4
Cấn Thị Thanh Huyền
Thành viên
5
Nguyễn Thị Khánh Hòa
Thành viên
6
Đinh Thị Thu Hương
7
Dương Thị Hồng
Thành viên
8
Đào Thị Ngọc Huyền
Thành viên
9
Lê Ánh Hồng
Thành viên
Đánh giá
Nhóm trưởng
Thư ký
Thư ký Nhóm trưởng
DÀN Ý CHI TIẾT
2
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoáhiện đại hóa(CNHHĐH) được Đảng ta đã xác
định rõ CNHHĐH là nhiệm vụ trung tâm trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. CNHHĐH là một bước chuẩn bị, xây dựng nền
tảng cho nền kinh tế đất nước. Các nguồn lực như: cơ sở vật chất, kinh
tế, xã hội, chính trị,…để xây dựng CNHHDH và nguồn nhân lực chính là
nền tảng, là tiền đề quan trọng của CNHHĐH đất nước. Nguồn nhân
lực tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho CNHHĐH đất nước đạt được những
bước phát triển nhanh chóng.
Việt Nam với thực trạng là nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại, việc
đầu tư lâu dài, đúng đắn và phát triển nguồn nhân lực do đó chính là quốc
sách hàng đầucho sự phát triển của đất nước. Do đó cần phải đặt ra
những câu hỏi về nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay và những biện pháp
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?...Đây là vấn đề vô cùng cấp
bách, vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài thảo luận: “Vận dụng quan điểm
phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp
CNHHĐH Việt Nam hiện nay”. Chúng em đã cố gắng thực hiện đề tài
nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy để nội dung được đầy đủ hơn.
3
NỘI DUNG
I.
1.
Tổng quan về CNHHĐH
Một số khái niệm.
Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa: Là quá trình chuyển đổi căn bản, tòan diện các hoạt
1.1.
động sản xuất từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động dựa trên sự phát triển của ngành công
nghiệp cơ khí.
Hiện đại hóa: Là quá trình ứng dụng và trang bị thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình chuyển đổi sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quá trình kinh tế xã hội.
Công nghiệp hóa Hiện đại hóa: Là quá trình chuyển đổi căn bản, tòan
diện các hoạt động sản xuất và quản lý từ sử dụng sức lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao, đảm bảo cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
1.2.
Khái niệm nguồn nhân lực.
Nhân lực : Bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ
chức hay xã hội tức là tất cả các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng
kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì
và phát triển doanh nghiệp.
4
Nguồn nhân lực: Là nguồn lực của mỗi con người, gồm có thể lực và
trí lực. Thể lực phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của con người, mức
sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc, nghỉ ngơi v.v… Trí lực
là nguồn tiềm tàng to lớn của con người, đó là tài năng, năng khiếu cũng
như quan điểm, lòng tin, ...
2. Quan điểm và chủ trương phát huy nguồn nhân lực của Đảng trong
thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Nước ta đang phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Với mục tiêu là cải biến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mức đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ
nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện
trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện
mới. Những quan XI của Đảng:
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
Từ thế kỷ XVII XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Khi đó, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế
5
lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại
ngày nay, Đại X của Đảng nhận định: “Khoa học và công nghệ sẽ có bước
tiến nhảy vọt và những đột phá lớn”. Kinh tế tri thức có vai trò càng nổi
bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. C uộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu
hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong
bối cánh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo
kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp
công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới
kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng có thể và cần thiết không trải qua các
bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp
rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau,
không phải là nóng vội duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: "thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,
môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ". Kinh tế tri thức
là nền kinh tế trong đó sự sinh sản ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai
6
trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành
trong nền kinh tế kế hoạch trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực
lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước
thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được tiến hành trong nềnkinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải
chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Phương thức phân bổ
nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị
trường; trong đó ưu tiên những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu
thụ những sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, thu hút vồn đầu tư nước
ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của thế giới.
Bên cạnh đó cũng cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để phát triển kinh tế và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững.
Trong năm yếu tố chủ yếu để tăng trưởng kinh tế ( vốn, khoa học và
công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà
nước ), con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người
7
đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đâị hóa đất nước cần đặc biệt
chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ,
khoa học quản lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc
biệt quan trọng. Đại hội XI chỉ rõ: "Phát triển và nâng chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,
bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững".
II. Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóahiện
đại hóa và ví dụ thực tế.
1.
Thưc trạng nguồn nhân lực hiện nay và nguyên nhân dẫn đến
chất lượng nguồn nhân lực giảm sút.
Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng
nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm
vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.
1.1.
Những mặt tích cực.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố dân số Việt Nam là 87
triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ
Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt
ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10),
8
xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh
tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75.
Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61
triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước
có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản;
có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được
xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước
ta đã có những chuyển biến tích cực.
Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công
nhân đang làm việc ở nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với
hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh doanh
cá thể). Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có
khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ
lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm
dạy nghề. Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số
liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường
cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề;
hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp
từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu cầu
đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề;
9
303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác
có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên
360 nghìn người.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại
học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam
trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng
phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002:
1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn
người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel):
1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa
học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30
nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học,
cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14
nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và
925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có
khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội
ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người
trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến
sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam
có 143 trường đại học, đại học, học viện; 178 trường cao đẳng; 285
trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước
hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5
nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường
10
đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng
dân số của cả nước đạt 0,05%.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm
học 20072008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95
trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ
thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64
trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập
ngày càng tăng. Năm học 20072008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công
lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là
9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là 31,2%, sinh
viên cao đẳng, đại học là 11,8%.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi
quốc gia trung học phổ thông năm học 20072008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ
tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn
20072020 ở cả trong nước và ngoài nước.
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo
là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so
với thực hiện năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công
chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất
nước cũng tăng nhanh:
11
Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5
nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42,
địa phương 12). Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên
chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc
trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên,
nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát
hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử,
đài phát thanh, truyền hình.
Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần
39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho
bạc là 13.536 người.
Tính đến tháng 62005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính
sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43
tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật
(chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm
55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa
chuyên môn luật,
vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra
cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân).
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ
quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.Tổng nhân lực các hội,
liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người.
1.2.
12
Những mặt tiêu cực.
Nguồn nhân lực từ nông dân: Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai
thác, chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề
trồng lúa. Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người
nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng
có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi
người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước
khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư
nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này
phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém.
Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta
vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo
kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà
nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) hiện đang còn là hình
thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận
lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm
2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để
phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị.
Nguyên nhân : nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao
động và quy hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với
nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tínhkhuyến
khích và tính cạnh tranh.
13
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào
tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các
khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp
đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao
động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động rất thấp.
Nguồn nhân lực từ công nhân: Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ
lệ công nhân cơ khí và công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp
công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của
cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế
biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.
Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với
nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối
và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình
trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân.
Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những
chuyển biến tích cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất
lượng được nâng lên từng bước. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được
cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng
được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều
các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ
14
nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của
giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ".
Nguyên nhân : nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát
triển kinh tế xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch
sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh
đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế xã hội ảnh hưởng
không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân;
những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát
hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp
và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm chính sách
đối với công nhân và người lao động.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Bên cạnh sự tăng
nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra trên đây,
thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức,
công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên
chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu
chuẩn của một công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có
63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít
đơn vị nhận người vào làm, phải mất 12 năm đào tạo lại. Trong số 37%
sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp
đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận.
Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411người. Theo ước
15
tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước
đầu tư khoảng 30 triệu đồng.
Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho
thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x
70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân
và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con
số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Nguyên nhân: Nguyên nhân của thực trạng trên được xem xét trên ba
phương diện: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ.
Trên thực tế, chúng ta vẫn thường nói đào tạo nguồn nhân lực phải
dựa vào nhu cầu, vào xu hướng phát triển của nền kinh tế, đào tạo đúng
địa chỉ sử dụng, tiếp cận tinh hoa tri thức nhân loại... Nhưng thực tế,
chúng ta chưa đạt hiệu quả mong muốn. Nhiều người cho rằng, đào tạo
ở Việt Nam chỉ là để phục vụ “cầu” còn “cung” thì chưa rõ phải làm gì!
Ngành nào là ngành mũi nhọn cũng chưa được xác định nhất quán, lĩnh
vực nào là thế mạnh cần được quan tâm cũng chưa rõ ràng, nội dung,
chương trình, mục tiêu đào tạo... chưa được xác định một cách khách
quan, khoa học. Hơn nữa, chúng ta cũng đang còn lúng túng trong việc lựa
chọn và quyết định hình thức, phương pháp, loại hình đào tạo thích hợp!
Việc sử dụng lao động cũng còn nhiều bất hợp lý. Nguyên tắc đúng
người, đúng việc, đúng chuyên môn ở nhiều nơi vẫn chỉ là những câu nói
cửa miệng.
16
Việc đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa phù hợp, chưa
tương xứng, đang là cản trở lớn cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng
tạo của lao động qua đào tạo. Chúng ta vẫn thường nói “hiền tài là nguyên
khí quốc gia” nhưng chế độ đãi ngộ với “hiền tài” như thế nào thì vẫn chỉ
là các chủ đề được đề cập trong các cuộc hội thảo, trong các dự kiến, dự
định của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền. Chúng ta rất dễ dàng
nhận thấy sự chênh lệch đến độ khó tưởng tượng trong đãi ngộ giữa thủ
khoa đại học, huy chương vàng Olimpic các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế,
mức thưởng cho một phát minh sáng chế... với tiền thưởng cho “hoa
hậu”, tiền catxê cho các “sao”... Thực tế là, 9 năm qua (2004 2013)
Thành phố Hà Nội đã tuyên dương 973 thủ khoa đại học nhưng chỉ thu hút
được 100 thủ khoa về công tác tại các cơ quan của Thành phố Hà Nội.
Hiện tượng “chảy máu chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng lại không sử
dụng được người tài, đào tạo để “người khác” sử dụng vẫn đang phổ
biến ở nước ta hiện nay đều có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách đãi ngộ
đối với nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.
Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện vẫn đang
là bài toán cần tìm lời giải. Mặc dù, xét về số lượng nhân lực có học hàm,
học vị, Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực, nhưng khả
năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế, nhất là đối với yêu cầu hội
nhập quốc tế hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, việc đổi mới cơ chế
giáo dục đào tạo đang là một đòi hỏi bức thiết.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong
đó có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập.
Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế xã hội.
17
Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%,
nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng
thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 269
2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng
cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào
tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất.
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng
đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác
phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa
học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư
vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có
những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình luận người
Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu
cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,
điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế xã hội Việt Nam.
18
19
2.
Công nghệ thông tin và thực trạng của ngành công nghệ
thông tin.
2.1.
Công nghệ thông tin đi vào đời sống.
Trong thời đại bùng nổ công nghệ kỹ thuật số, ngành nghề, lĩnh vực
hay hoạt động nào trong xã hội hiện đại cũng cần tới sự góp mặt
của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là chiếc chìa khoá để mở
cánh cổng vào nền kinh tế tri thức . Sự hiện diện của ngành Công nghệ
thông tin lan rộng và phủ sóng nhiều lĩnh vực. Vì vậy, để vận hành, phát
triển các hệ thống và các ứng dụng công nghệ thông tin, đòi hỏi một
nguồn nhân lực rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng trong những năm tiếp
theo.
2.2.
Thực trạng nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và &Truyền thông, hiện nay nguồn
nhân lực ngành công nghệ thông tin (CNTT) tại các doanh nghiệp đang
thiếu trầm trọng, nhu cầu tuyển dụng trong lĩnh vực này là khoảng
250.000 lao động. Theo hướng quy hoạch nhân lực quốc gia đến năm
2020, Việt Nam cần 1 triệu lao động trong lĩnh vực CNTT. Những con số
trên cho thấy nhu cầu, cơn khát nhân lực trong ngànhCNTT dường như
vẫn chưa hề giảm sút, nhu cầu nhân lực CNTT mỗi năm tăng 13%. Hiện
nhu cầu tuyển dụng nhân lực trong ngành rất rộng mở, trong đó có nhiều
vị trí “khát” trầm trọng như: lập trình di động, điện toán đám mây, quản
trị mạng, chuyên gia bảo mật và an ninh mạng...
20
Nhân lực của ngành CNTT dù thiếu trầm trọng, nhưng cơ hội việc
làm lại không dễ dàng cho tất cả mọi người. Phần lớn kỹ sư ngành CNTT
hiện nay đang thiếu các kỹ năng cần thiết như: kiến thức và khả năng lập
trình, tiếp cận công nghệ mới, ngoại ngữ... Do đó, hàng năm số lượng lao
động của ngành phải chuyển nghề, làm không đúng nghề, hoặc không xin
được việc rất nhiều. Điều này dẫn đến thực trạng, thiếu trầm trọng
những kỹ sư giỏi. Một cuộc khảo sát cho thấy, tỷ lệ nhân lực CNTT trình
độ ngoại ngữ khá, giỏi chỉ chiếm 59%, điều này ảnh hưởng đến việc đưa
lao động đi đào tạo nâng cao ở nước ngoài, ngoại ngữ kém cũng gây cản
trở cho việc tiếp cận công nghệ mới vốn thay đổi từng ngày. Ngay như
đối với FPT một công ty lớn năm 2013, công ty này cần tuyển 2000 nhân
sự, tuy nhiên vẫn không tuyển đủ số lượng. Ông Trương Gia Bình – Chủ
tịch của FPT cho biết điều mà ông trăn trở nhất cũng là căn bệnh mãn tính
ở Việt Nam, đó là nguồn nhân lực để phát triển. “Thách thức lớn nhất
trong mọi thách thức là báo động đỏ về nguồn nhân lực. Hiện nay, mỗi
năm Việt Nam ra trường 9.000 kỹ sư CNTT, cả cứng và mềm, nếu một
nửa là 4.500 gia nhập phần mềm thì năm nay FPT cần tuyển 5.000
người” – ông Bình nói.
3.
Nguồn nhân lực CNTT & TT tại thành phố Đà Nẵng
3.1.
Tình hình nguồn nhân lực ngành CNTT
Không nằm ngoài thực trang của cả nước, thành phố Đà Nẵng cũng
phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực ngành CNTT. Về
chất lượng cán bộ CNTT hiện nay các chuyên gia đầu ngành về CNTT
chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế trong việc ứng dụng phần mềm. Hầu
hết lập trình viên có kinh nghiệm chỉ từ 03 05 năm. Trình độ tiếng Anh
21
của cán bộ làm công tác CNTT hiện nay của thành phố còn rất yếu.
Chương trình giảng dạy của các trường còn nặng về lý thuyết, cơ cấu
đào tạo không cân đối, còn nhiều cơ sở đào tạo chưa quan tâm đến chất
lượng và yêu cầu thực tế của thị trường. Các chương trình chuyên sâu về
lập trình viên để đáp ứng yêu cầu phù hợp với thực tế công việc và tuyển
dụng thì trong nước không đào tạo được. Do đó, đã dẫn đến nghịch lý là
thành phố còn thiếu đội ngũ làm phần mềm nhưng nhiều sinh viên ngành
CNTT vẫn thất nghiệp.
3.2. Giải pháp về mặt giáo dục và đào tạo.
Chính từ những tình hình như trên còn tồn tại trong hệ thống giảng
dạy, ban lãnh đạo thành phố đã đưa ra những giải pháp về việc đổi mới
để giải quyết tình trạng này.
* Các mô hình hợp tác, liên kết nước ngoài nâng cao chất lượng đào tạo.
Đại diện các trường đại học, cao đẳng và các cơ sở đào tạo trên địa bàn
Đà Nẵng cho hay, họ đang rất nỗ lực trong việc hợp tác đào tạo theo tiêu
chuẩn quốc tế và hợp tác với các trường đại học quốc tế nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo. Điển hình như Đại học Đà Nẵng đã hợp tác với Đại
học Washington (Hoa Kỳ), Đại học Portland (Hoa Kỳ), Đại học Bách
Khoa Grenoble (Pháp), Đại học Marseille (Pháp); Đại học Duy Tân hợp
tác với Đại học Carnegie Mellon (Hoa Kỳ); Cao đẳng Hữu nghị ViệtHàn
hợp tác với các chương trình tiên tiến của Hàn Quốc, Nhật Bản; Trung
tâm đào tạo lập trình viên quốc tế NIIT.
* Doanh nghiệp và Nhà trường : Hai “mặt trận” nhưng “một mục tiêu”
“Thay vì thực hiện đào tạo lại, vừa tốn kém chi phí, tốn kém thời
gian, hao phí nguồn lực ; chúng tôi đề nghị doanh nghiệp hãy hợp tác cùng
22
chúng tôi ngày từ khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường” ông Nguyễn
Thanh Bình, Khoa CNTT, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng nhấn
mạnh. . Ngoài việc hợp tác với các cơ sở đào tạo tiên tiến trên thế giới,
nhiều trường đại học, cao đẳng trên địa bàn còn hợp tác chặt chẽ với các
doanh nghiệp trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên năm cuối
và có thể tuyển dụng trực tiếp khi doanh nghiệp có yêu cầu.
Ví dụ như một mô hình đào tạo khác mà Trường Đại học FPT đang
thực hiện có hiệu quả là đào tạo qua công việc (OJT). Hiện, đã có hơn
1.500 sinh viên trải qua giai đoạn OJT và được doanh nghiệp đánh giá cao
về năng lực chuyên môn, kỹ năng làm việc, thái độ và khả năng ngoại
ngữ. Với mô hình này, theo ông Huỳnh
Tấn Châu, Đaị học FPT Đà Nẵng thì sinh viên không chỉ được làm
quen với thực tế, không bỡ ngỡ khi ra trường mà còn được rèn luyện về
chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm, mở rộng các mối quan hệ, học hỏi
những kỹ năng giao tiếp ứng xử với khách hàng trong và ngoài nước, rèn
luyện phong cách làm việc chuyên nghiệp để mang lại hiệu quả cao trong
công việc…Ý kiến này cũng nhận được sự đồng tình của nhiều đại biểu
thuộc khối đào tạo. Theo đó các doanh nghiệp cần đóng góp ý kiến cho
nội dung chương trình đào tạo, thậm chí có đơn đặt hàng cụ thể ; cử
người (cán bộ nhân sự, chuyên viên quy trình…) tham gia bồi dưỡng các
kỹ năng ngay từ khi các em còn ngồi trên ghế giảng đường. Bản thân các
doanh nghiệp cũng cần tạo điều kiện cho sinh viên thực tập hoặc làm
luận văn, đồ án tốt nghiệp tại đơn vị mình, phối hợp cùng nhà trường
ngành Lao động Việc làm & Thông tin Truyền thông tổ chức các phiên
chợ việc làm chuyên ngành CNTT cho các sinh viên tốt nghiệp…
23
Những giải pháp cụ thể trên đang dần giúp Đà Nẵng cải thiện được
tình hình, phát huy chất lượng nguồn nhân lực và thu hút nhân tài của
ngành.
III Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy
rằng, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện
thực tế của nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức
thiết hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20112020 cũng nêu
rõ cần tập trung tạo đột phá “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền
giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực
có chất lượng cao, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất
của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất
nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn
nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc
tài nguyên con người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò
và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức và chất
lượng nhân lực thành lợi thế cạnh tranh trên phương diện toàn cầu. Đây là
nhiệm vụ của toàn xã hội, mang tính xã hội; là trách nhiệm của các cấp
lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của doanh nghiệp, của gia đình cũng
như của bản thân mỗi người lao động. "Đây chính là thể hiện quan điểm
phát triển con người, phát triển kinh tế xã hội vì con người và do con
người, là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững".
24
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 579/QĐTTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân
lực Việt Nam thời kỳ 2011 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa
phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến
lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện
thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm
của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách
giáo dục đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực
chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài,
phát triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống
giá trị của con người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân,
tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản
thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng
là những giá trị 1 truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần
được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với
thế hệ trẻ.
Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe người dân, chính sách lương thưởng, bảo đảm an
sinh xã hội. Đại hội XI đã đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động
của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức
khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
25