Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Bài tiểu luận: Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.45 KB, 32 trang )

Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Lời mở đầu

C

uộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày 
càng có cuộc sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “sinh lão 
bệnh tử” không chừa một ai, cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó 

khăn, rủi ro khó lường từ  các hoạt động của con người, từ  thiên nhiên, dịch 
bệnh, các quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội...Điều đó tác động xấu đến chất 
lượng cuộc sống của con người, để  tồn tại và phát triển con người đã có 
nhiều biện pháp để  khắc phục khó khăn. An sinh xã hội (ASXH) ra đời đã 
ngăn chặn và hạn chế bớt những khó khăn, rủi ro trên.
Truyền thống tương trợ, hỗ  trợ, san sẻ nhau đã xuất hiện từ  xa xưa lúc con  
người cùng nhau săn bắt, hái lượm để  tồn tại, cùng nhau chiến đấu với thú 
dữ, thiên tai, và cho đến ngày nay trước những biến cố, rủi ro của cuộc sống,  
tinh thần ấy vẫn được phát huy mạnh mẽ và ngày càng có những hình thức đa 
dạng như: bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình, các chương trình  
xoá đói giảm nghèo, các quỹ tiết kiệm xã hội...Đối với nước ta, bảo đảm ngày  
càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ  trương, nhiệm vụ  lớn của Đảng  
và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ  ta và có ý nghĩa rất quan 
trọng đối với sự   ổn định chính trị  ­ xã hội và phát triển bền vững của đất  
nước. 
Vậy an sinh xã hội (ASXH) là gì? Thực trạng ASXH  ở nước ta như thế nào? 
Còn những hạn chế, tiêu cực gì trong ASXH? Vai trò của chính phủ  như  thế 
nào trong việc giúp cuộc sống của người dân được nâng cao hơn, đảm bảo 
công bằng hơn?...Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp từ những tài liệu trên 
sách, báo, internet...và những gì thấy được  ở  thực tế, nhóm tiểu luận sẽ  giải  
đáp những câu hỏi trên, đồng thời cũng đưa ra một số  giải pháp trong việc  


thực hiện an sinh xã hội được tốt hơn, công bằng hơn.
Song kiến thức là bao la, thực tế lại là một bí ẩn khó có thể khám phá hết mọi 
khía cạnh, những hiểu biết của chúng em lại còn hạn chế nên khó có thể tránh 

Trang 1


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

được thiếu sót trong quá trình viết bài này. Rất mong  thầy và các bạn góp ý 
thêm để bài tiểu luận hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội ( ASXH)
1. Khái niệm

Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security.Theo nghĩa chung 
nhất, Social Security là sự  đảm bảo thực hiện các quyền của con người được  
sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến 
trong khuôn khổ  luật pháp; được bảo vệ  và bình đẳng trước pháp luật; được 
học tập, được có việc làm, có nhà  ở; được đảm bảo thu nhập để  thoả  mãn  
những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…. Theo nghĩa 
hẹp, Social Security được hiểu là sự  bảo đảm thu nhập và một số  điều kiện 
sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ  khi bị  giảm hoặc  
mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho  
những người già cả, cô đơn, trẻ  em mồ  côi, người tàn tật, những người nghèo 
đói và những người bị  thiên tai, dịch hoạ…Theo chúng tôi, ASXH mà chúng ta  
đang nói tới, nên được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. 
Bên cạnh khái niệm này, từ  những cách tiếp cận khác nhau, một số  nhà khoa 
học đưa ra những khái niệm rộng­ hẹp khác nhau về ASXH.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã  

hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng,  
nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu  
nhập, gây ra bởi  ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,  
tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế  và trợ  cấp cho các gia  
đình đông con.
Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống  
cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện  
pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội 
và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
Việc có một hệ  thống an sinh xã hội có thể  làm thay đổi cuộc sống của mọi  
người theo chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống an sinh xã hội  
cũng làm thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng xấu đi.
Hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực 
và thậm chí là cả thế giới.
     2.  Các bộ phận cấu thành của ASXH

Trang 2


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

          2. 1­ Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ  phận lớn nhất trong hệ  thống ASXH. Có thể  nói, không có 
BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có  
thể  hiểu BHXH là sự  bảo đảm thay thế  hoặc bù đắp một phần thu nhập cho  
người lao động khi họ  mất hoặc giảm khoản thu nhập từ  nghề  nghiệp do bị  
mất hoặc giảm khả  năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình  
thành và sử  dụng một quỹ  tài chính do sự  đóng góp của các bên tham gia bảo  
hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và  
gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro 
giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả  mọi người tham gia phải đóng góp  
tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ  khi họ gặp các “sự 
cố” và đủ  điều kiện để  hưởng; chi phí cho các chế  độ  được chi trả  bởi quỹ 
BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia,  
thường là sự  chia sẻ  giữa chủ  sử  dụng lao động và người lao động, với một 
phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp  
ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư  tăng trưởng, nâng  
cao mức hưởng cho người thụ  hưởng chế  độ  BHXH; các chế  độ  được bảo  
đảm trên cơ  sở  các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản của người  
hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ  lệ  với thu nhập trước khi  
hưởng BHXH…
         2.2­ Trợ giúp xã hội
Đó là sự  giúp đỡ  của Nhà nước và xã hội về  thu nhập và các điều kiện  
sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường  
hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối  
thiểu của bản thân và gia đình.
Trợ  giúp xã hội là sự  giúp đỡ  thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền  
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để  đối tượng được giúp đỡ 
có thể  phát huy khả  năng tự  lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa  
nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
         2.3­ Trợ cấp gia đình
Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ  BHXH dựa trên 
những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn 
với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế  cao hơn những  
người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con…
Trang 3



Bài tiểu luận: Tài Chính Công

         2.4­ Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ 
tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
Những đóng góp được tích tụ  dùng để  chi trả  cho các thành viên khi sự 
cố  xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả  một lần theo những quy 
định.
Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không  
chia sẻ rủi ro cho người khác…
        2. 5. Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Trợ  cấp cơ  bản cho mọi cư  dân, hoặc tất cả  những người đã từng làm 
việc trong một khoảng thời gian nhất định.
rợ  cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ  hưởng;  
các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.
         2.6.Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động
Thường chỉ  là hệ  thống tai nạn nghề  nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho  
người lao động.
Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
Trách nhiệm của chủ  sử  dụng lao động đối với chăm sóc y tế  và bồi 
thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
Có thể  bao gồm một phần để  chi trả  chế  độ  cho người lao động trong  
thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).
         2.7. Dịch vụ xã hội khác
      3.  Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
         Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:
    + ASXH trước hết đó là sự  bảo vệ  của xã hội đối với các thành viên  
của mình.
    + Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.


Trang 4


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

    + Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội  
trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị  giảm hoặc mất thu  
nhập….
       Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo thu 
nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là 
thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên  
trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ  
bản chất của ASXH từ những khía cạnh sau:
3.1 ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp  
quốc thừa nhận.
Để  thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của 
ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả 
mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu  
nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên 
nhân khác nhau, như   ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố 
và những “rủi ro xã hội”. Để  tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp,  
ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, 
được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.
ASXH, như  đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề 
chủ yếu:
 
Thứ  nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự  BHXH.  
Có thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống  
BHXH   hoạt   động   có   hiệu   quả   thì   mới   có   thể   có   một   nền   ASXH   vững  
mạnh.Thông qua các trợ  cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu  

nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong  
những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Thứ  hai, là sự  cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động 
và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, 
duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc  
sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những 
người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự 
giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích, thậm  

Trang 5


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch 
vụ đi lại…
Hệ thống ASXH hiện đại phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội 
có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện  
chứng nhất – TG) trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các  
thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
3.2 ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau…  
là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị  xã hội. Nhưng vượt lên 
trên tất cả, với tư  cách là một công dân, họ  phải được bảo đảm mọi mặt để 
phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng 
tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may 
mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực  
đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội  

để  phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực xã hội  
trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may mắn 
và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện  
– Mỹ. Nhờ  đó, một mặt có thể  chống thói  ỷ  lại vào xã hội; mặt khác, có thể 
chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”… ASXH là  
yếu tố  tạo nên sự  hòa đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo, 
chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân 
ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
3.3 ASXH thể  hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau, tương  
thân tương ái của cộng đồng. Sự  đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau trong cộng  
đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ  
trong   cộng   đồng,   giúp   đỡ   những   người   bất   hạnh   là   nhằm   hoàn   thiện  
những giá trị  nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển  
lành mạnh.
      3.3.1. ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ  xã hội. Trên  
bình diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các 
tầng lớp dân cư. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu 
nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang 
và dọc. Sự  phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự  phân phối lại giữa  
Trang 6


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người 
đã nghỉ  việc…. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ 
ASXH hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường 
hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự  phân phối lại theo chiều 
ngang chỉ  xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ  cấp  
(một “tập hợp đóng” tương đối).

Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua 
của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho 
những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện  
bằng nhiều kỹ  thuật khác nhau: trực tiếp (thuế  trực thu, kiểm soát giá cả, thu  
nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ  cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật  
hoặc các dịch vụ  công cộng như  giáo dục, y tế, nhà  ở, giúp đỡ  và bảo vệ  trẻ 
em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện  
cho một “tập hợp mở” tương đối).
       3.3.2. ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ  xã hội. Bảo đảm phân phối 
công bằng hơn về  thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được  
hiệu quả  sản xuất, bảo đảm việc làm, mở  rộng và cải thiện về  thu nhập giáo 
dục và y tế  cộng đồng; giữ  gìn và bảo vệ  môi trường… Đáp  ứng những nhu  
cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề  được ưu  
tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của ASXH đã 
bảo vệ, giảm bớt sự  khó khăn cho họ. Sự  phát triển sau này của những lưới 
khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những nhu cầu khác nhau 
của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải 
thấy rằng, ASXH không loại trừ  được sự  nghèo túng mà chỉ  có tác dụng góp 
phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội.
       3.3.3. ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài  
người. Trong bất kỳ xã hội nào, ở  bất cứ  giai đoạn phát triển nào cũng đều có 
những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể  tự  lo liệu  
được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu 
thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những  
người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ 
chế  hoặc tự  phát, hoặc tự  giác, thích  ứng để  giúp đỡ  họ. Đây là cơ  sở  để  hệ 
thống ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát  
triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.  

Trang 7



Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Phần 2: Tìm hiểu và phân tích An Sinh Xã Hội ở Việt Nam ( ASXH)
1. Các vấn đề chung về ASXH ở Việt Nam
1.1 Khái niệm theo quan điểm ở Việt Nam
An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của 
mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ  sự  hẫng hụt về 
kinh tế  và xã hội do bị  mất hoặc bị  giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau,  
thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và  
chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ
         1.2 Các bộ phận cấu thành chủ yếu của ASXH ở Việt Nam
Bảo hiểm xã hội.
Trợ giúp xã hội.
Trợ cấp gia đình.
Các quỹ tiết kiệm xã hội.
Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…
Các tổ chức chính liên quan đến ASXH ở Việt Nam
  

Bô lao đông ­thương binh và xã hội
Bộ Y tế
Hội chữ thập đỏ
Ngân hàng chính sách xã hội 

         1.4 Vai trò và tầm quan trọng của ASXH ở Việt Nam.
                1.4.1 Vai tro cua an sinh xa hôi:
̀ ̉
̃ ̣

Hệ  thống an sinh xã hội có vai tro là qu
̀
ản lý và đối phó với rủi ro,  bao 
gồm ba nấc:
     Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm  
xã hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn  
và thiết thực đối với đời sống của người lao động trong hệ  thống an sinh xã 
hội. Với việc mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai 
Trang 8


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

hình thức tham gia bắt buộc và tự  nguyện; với chế  độ  bảo hiểm xã hội bằng 
các khoản trợ  cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản  
lý và thực hiện bảo hiểm xã hội tập trung thống nhất, và với việc quỹ  bảo  
hiểm xã hội được thanh toán độc lập dưới sự  bảo trợ  và điều hành của Nhà  
nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ  hoàn toàn có thể  làm tốt chức năng phòng 
ngừa rủi ro.
Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh.  
Có những rủi ro đột xuất không thể  dự  đoán được, như  tai nạn nghề  nghiệp, 
thất nghiệp, nhưng cũng có những rủi ro không ai có thể  tránh được như  bệnh 
tật, tuổi già. Bởi vậy, phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ  của mỗi người, của toàn  
dân mà Nhà nước là người đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải 
phòng ngừa từ  xa. Từ lúc con người còn trẻ  khỏe, làm việc, sống bình thường,  
phải lo tích lũy một số vốn nào đó trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y 
tế… để  khi đã già, yếu không còn sức lao động nữa họ  vẫn có thể  sống được 
nhờ  vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già, tiền bảo hiểm y tế  tại các bệnh 
viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro sẽ thấp hơn rất nhiều so 
với chi phí để khắc phục rủi ro.

      Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể  rất nặng nề, gây nên 
những mất mát rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính  
sách an sinh xã hội, hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ,  
được khống chế   ở  mức độ  có thể  chấp nhận được. Để  có thể  giảm thiểu rủi 
ro,  một mặt, Nhà nước phải có một hệ  thống tổ  chức, điều hành chặt chẽ,  
nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội 
cũng cần phải có ý thức tự  giác tham gia vào các quỹ  bảo hiểm xã hội, bảo 
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống thiên tai, quỹ an sinh xã hội  
v.v.. trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình của mỗi người, sau nữa là 
vì cộng đồng, sự   ổn định và phát triển của xã hội. Việc giảm thiểu rủi ro này  
chủ  yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các 
chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm.
 
    Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ  yếu thông qua các chính 
sách trợ giúp xã hội (trợ  cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế  xã hội). Có hai 
chế  độ  trợ  giúp: thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô 
đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật nặng…) và trợ giúp đột  
xuất đối với những đối tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an  
sinh xã hội phải có trách nhiệm chủ  đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó  
nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã hội mau chóng ổn định cuộc sống.
        1.4.2 Tầm quan trọng của ASXH:
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, với hơn 100 năm đô hộ  của thực  
dân đế  quốc. Đến năm 2009, thu nhập trung bình của Việt nam là 1000 USD  
Trang 9


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

thuộc tốt thu nhập trung bình thấp của Thế Giới. Vì vậy, phúc lợi xã hội là vô 
cùng cần thiết khi đại bộ  phận người là người nghèo khổ. Vậy, ASXH là vô 

cùng quan trọng cho đời sống người dân.
Hệ thống bảo hiểm xã hội:
BHXH đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cơ sở đóng góp 
của người sử dụng lao động và người lao động.
Bản chất của BHXH là bảo đãm bù đắp một phần hoặc thay thế 
thu nhập của người lao động khi bị  giảm hoặc mật thu nhập do  ốm đau, thai  
sản, tai nạn giao thông, bệnh nghề nghiệp…
Thực hiện BHXH,BHYT nhằm  ổn định cuộc sống người dân, trợ 
giúp người lao động khi họ  gặp rủi ro đau ốm … đối với Doanh nghiệp thì nó 
giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh 
nghiệp khi gặp sự cố để họ yên tâm sản xuất kinh doanh.
Chính sách BHXH là một bộ  phận quan trọng của chính sách xã 
hội, giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ  giữa kinh tế  và xã hội trên phương 
diện vĩ mô. Bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển nhưng vẫn giữ  vững 
ổn định xã hội trong từng thời kì cũng như trong xuốt quá trình.
Với   quyền   lợi   mà   người   lao   động   được   hưởng   khi   tham   gia 
BHXH, BHYT đã góp phần thu hút lực lượng lao động vào sản xuất. Việc được  
tham gia bảo hiểm khi đang làm việc và được hưởng lương hưu khiến ngừoi 
lao đông hứng khởi trong công việc, tâm lý ổn định hơn.
BHXH là một công cụ quan trọng góp phần điều tiết thu nhập một 
cách công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
1.4.2.2 Hệ thống trợ cấp
Hệ thống này hoàn toàn dựa vào các chế độ phúc lợi từ ngân sách  
nhà nước. người nhận được các quyền lợi mà không cần phải đóng góp. Chính  
sách này giúp người co công với cách mạng, những người gặp khó khăn như 
người già neo đơn, bị  thiệt hại do thiên tai lũ lụt … có thể  cải thiện đời sống 
của mình, lạc quan tin tưởng vào tương lai. Qua đó, giúp giữ  vững và  ổn định  
chính trị xã hội.
1.4.2.3 Hệ thống các chương trình xã hội khác


Trang 
10


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Đây cũng là kênh phân phối dựa vào ngân sách nhà nước, nó giúp 
phân phối lại thu nhập theo từng đối tượng. Chính sách này giúp có ý nghĩa ổn  
định kinh tế một cách bền vững khi cứu trợ và giúp người dân thoát nghèo.
    2.Phân tích thực trạng ASXH ở Việt Nam
2.1 Thực trạng chung hiện nay
Hiện nay, khả  năng tạo việc làm của nền kinh tế  còn thấp, tỉ  lệ  thất 
nghiệp của thanh niên còn cao, tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế ( BHYT) bắt buộc  
của lao động làm việc ngoài nhà nước còn thấp, số  lượng người được hưởng  
trợ  cấp xã hội còn thấp… . Đây là   một số  đặc điểm chính trong thực trạng  
ASXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, ASXH  ở  nước ta hiện nay vẫn có những   thành tựu của nó.  
Nhìn vào thực trạng ASXH hiện nay ta phải tìm ra cách phát huy những thành  
tựu, mặt tốt của nó. Đồng thời khắc phục những bất cập, thiếu sót của ASXH 
hiện nay.
Hệ  thống các chính sách ASXH của Việt Nam hiện nay gồm nhiều vấn  
đề. Có thể chia thành 3 nhóm sau đây:
      1/ Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội: gồm Bảo hiểm xã hội bắt  
buộc và bảo hiểm xã hội tự  nguyện trên nguyên tắc đóng thị  được hưởng và  
cùng chia sẽ  rủi ro. Đối tượng tham gia là Lao động theo quy định, các mức  
đóng góp tạo thành quỹ chung. Các thành viên được nhận Bảo hiểm khi gặp sự 
cố. Mọi chi phí lấy từ nguồn quỹ chung.
      2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: bao gồm các chế độ trợ cấp cho  
các đối tượng gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải rủi ro không may 
trong cuộc sống. Nguồn chi trả lấy từ Ngân sách nhà nước.

       3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm 
nghèo, chương trình y tế, gồm các loại quỹ  tiết kiệm và các loại bảo hiểm  
khác.
Sau đây là thực trạng của các vấn đề đó hiện nay:
      1/ Nhóm các chế độ bảo hiểm xã hội: 
Mặc dù được tạo điểu kiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một  
bộ  phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là khu vực 

Trang 
11


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

ngoài nhà nước. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do công 
tác tổ  chức thực hiện các chế  độ  của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc 
thực thi các qui định của Luật bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
      Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 03 loại bảo hiểm, gồm BHXH 
bắt buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người  
lao động tham gia bảo hiểm.
      Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc  
độ. Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18%  
tổng số lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh từ 6348  
tỷ  đồng vào năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ  đồng năm 2009. Tổng chi BHXH bắt 
buộc cũng tăng nhanh, từ  1856 tỷ  đồng năm 2001 lên 54,9 nghìn tỷ  đồng năm  
2009 ( trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ).
      Sau một năm triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, số người tham  
gia đạt gần 50000 người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ 
đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.
      Năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương  

hưu.
           Công tác quản lý ngày càng đi vào nề  nếp, công tác giám sát ngày  
càng tăng cường, mạng lưới thu chi ngày càng mở rộng.
      Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận chưa tham gia BHXH bắt buộc, Nói  
về  bảo hiểm thất nghiệp, luật chỉ  cho phép đơn vị  sử  dụng lao động   có sử 
dụng từ 10 lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này 
làm hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm  
cho doanh nghiệp nhỏ.
      Một bộ phận lớn người lao động không có khả năng tham gia BHXH  
tự  nguyện do không có cơ  hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi về  hưu vì 
điều kiện phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội.     
      2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội:
      Cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị  rủi  
ro trong cuộc sống gồm chế độ  trợ  cấp tai nạn lao động – bệnh nghề  nghiệp:  
cách xác định tai nạn lao động như  hiện nay là chưa rõ ràng. Có khả  năng phát 
sinh tiêu cực trong thực hiện trợ cấp này.

Trang 
12


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

       Trợ  cấp  ưu đãi người có công đã đạt hiệu quả  tích cực. Đã chi trả 
chế độ trợ  cấp 1 lần cho khoảng 3,5 triệu người hoạt động kháng chiến được 
nhà   nước   khen   tặng   Huy   chương.   Hoàn   thành   trợ   cấp   ưu   đãi   một   lần   cho  
khoảng 4 triệu người  và khoảng 1,7 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão 
thành cách mạng, bà mẹ  Việt Nam anh hùng … tiếp tục hưởng trợ cấp  ưu đãi 
hàng tháng.
           Ngoài chế  độ  trợ  cấp thường xuyên, người có công được  ưu đãi 

nhiều mặt của đời sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực  
hiện như BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu đãi nhà, đất.
         Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế  như  người nhận trợ  cấp chậm  
được nhận tiền gây khó khăn cho cuộc sống của họ, các cán bộ  xã phường có 
tình trạng tham nhũng của công, hoặc sử dụng sai mục đích.
           Đặc biệt, nghị  định 13/2010/NĐ­CP ngày 27/2/2010 về  sửa đổi bổ 
sung một số  điều của nghị  định 67/2007NĐ­CP ngày 13/4/2007 về  chính sách 
trợ  giúp các đối tượng bảo trợ  xã hội đã mở  rộng đến các đối tượng tàn tật  
nặng không có khả năng lao động không chỉ ở các hộ nghèo.
      Theo  ước tính số đối tượng bảo trợ xã hội năm 2010 sẽ tăng lên 1,6  
triệu. Cuộc sống các đối tượng được cải thiện do mức chuẩn tính trợ cấp tăng.
      3/ Nhóm các chương trình xã hội khác:
      Xóa đói giảm nghèo: Các chính sách, chương trình giảm nghèo trong 
thời gian qua đã đóng góp vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH cho người 
nghèo, hộ  nghèo, địa bàn nghèo. Hệ  thống chính sách giảm nghèo tương đối 
toàn diện , tập trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, 
miền núi.
           Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên 3 phương diện: Tăng 
cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề.. – Hỗ trợ chính sách phát  
triển thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi.. – Phát triển cơ sở hạ tầng thiết  
yếu cho xã đặc biệt khó khăn.
       Kết quả  tỉ  lệ nghèo đã giảm nhanh, từ  29% năm 2002 giảm xuống  
còn 15,9% năm 2006, và 11,3 % vào cuối năm 2009. Hộ nghèo được tăng cường 
tiếp cận chính sách. Trong 3 năm 2006­2008, gần 4,2 triệu hộ  được vay vốn;  
gần 2,1 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn làm ăn, chuyển đổi kỷ  thuật. 
60 nghìn người nghèo được miễn giãm học phí nghề; mỗi năm hỗ  trợ  được  

Trang 
13



Bài tiểu luận: Tài Chính Công

30nghìn người  học  nghề; khoảng  7,8 triệu  lượt  học  sinh nghèo  được   miễn 
giảm học phí và các khoản đóng góp cho trường; 99,54% người nghèo được cấp 
BHYT năm 2008; 340 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm. Hệ thống cơ sở 
hạ tầng ở những địa bàn khó khăn đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, một số hộ nghèo vẫn không được hưởng các chính sách do bị 
hạn chế  điều kiện tham gia.Các chính sách thiên về  hỗ  trợ  bằng tiền và hiện 
vật hơn là tạo cơ  hội việc làm cho người nghèo tự  vương lên. Tuy đã có các  
chính sách miễn giảm học phí, tặng sách tập cho con em hộ nghèo, nhưng nhìn 
chung chi phí còn lại họ phải chịu còn cao vượt mức khả năng chi trả. Nên một  
bộ  phận con em hộ nghèo vẫn chưa hoàn thành phổ  cập giáo dục. Hỗ  trợ  y tế 
còn nhiều bất cập.
      Hệ thống dịch vụ xã hội:
      Về y tế: song song với phát triển dịch vụ khám chửa bệnh, các dịch  
vụ chăm sóc sức khỏe tại các vùng nghèo, đối vơi hộ nghèo ngày càng phát triển  
dưới nhiều hình thức như việc thiết lập các tổ, đội y tế lưu động đi khám, chữa  
bệnh, thực hiện các hoạt động phòng bệnh theo định kỳ ở  nông thôn, bản. Tuy 
vậy, Các trạm y tế  ở các xã chất lượng còn thấp, mới có 46% xã có trạm y tế 
đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ y bác sĩ còn thiếu, các trang thiết bị còn thô sơ, lạc  
hậu không đãm bảo chất lượng.
      Về giáo dục: các mô hình giao dục tập trung, trường bán trú dân nuôi, 
giáo dục từ xa, từng bước được mở rộng dưới nhiều hình thức với sự tham gia  
của nhiều đôi1 tượng xã hội. Tuy nhiên, phòng học cho học sinh các cấp nhất là  
ở vùng cao còn tạm bợ.
       Về  điện sinh hoạt: Hệ  thống điện  ở  vùng sâu, vùng xa từng bước  
được nâng cấp, đồng thời được mở  rộng phạm vi bao phủ. Tuy nhiên, vẫn còn 
30% số  hộ  gia đình người dân tộc vẫn chưa có điện so với 12% và 3% của 
người kinh và người Hoa.

      Về nước sạch và vệ sinh môi trường: Hệ thống cung cấp nước sinh  
hoạt cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải 
thiện thông qua các chương trình nước sạch quốc gia, của UNICEF. Tuy nhiên,  
vẫn còn 45% hộ dân tộc thiểu số chưa có nước sinh hoạt. Đại bộ  phận dân cư 
nông thôn vẫn còn phải sử dụng các nguồn nước không đảm bảo và sống trong  
điều kiện vệ sinh thấp kém.
    2.2 Những việc đã làm được của ASXH

Trang 
14


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Cho hộ nghèo vay vốn sản xuất, kinh doanh. Đã giúp nhìều hộ gia đình tự 
thoát nghèo và không bị tái nghèo.
Xây dựng trường học, trường dạy nghề  giúp tăng trình độ tri thức, nhận  
thức của người dân.
Xây dựng nhiều bệnh viện, trạm xá kể cả ở những vùng nông thôn, núi,

Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giảm khỏang cách 
giàu, nghèo trong nước.
Hội chữ thập đỏ họat động khá mạnh, đi tới những vùng khó khăn hỗ trợ 
về nhiều mặt.
Hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật, thành lập quỹ dành cho ngưởi tàn 
tật.
Xây dựng những chương trình di dân, xóa đói giảm nghèo đã đáp ứng về 
phân bố nguồn nhân lực, ổn định đởi sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và 
bảo vệ an ninh quốc phòng
Tái thành lập Tổng cục dạy nghề để tạo điều kiện nâng cao chất lượng 

việc làm của người lao động thông qua nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT.
Hàng năm cứu trợ đồng bào miền trung gặp thiên tai ( bão tố, lũ lụt,..)
Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, …
Đưa ra chính sách  ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người  
tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam, chính sách  
ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công Cách mạng.
Chính sách đối với người cao tuổi, đối với bà mẹ và trẻ em.
Các chính sách trợ cấp đối với hộ nghèo, ngưởi thất nghiệp,…
      2.3 Những việc chưa làm được của ASXH
Hệ  thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự  liên kết và 
hỗ trợ nhau. 
Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý.
Chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư  nông thôn 
và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn.

Trang 
15


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Diện bao phủ  của hệ  thống còn chưa cao, tập trung vào các thành phố 
lớn và các tỉnh đồng bằng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối 
với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn.
Chất lượng cung cấp các dịch vụ  ASXH, đặc biệt là dịch vụ  y tế, còn 
hạn chế
Năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế đối với các loại hình ASXH.
Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu  
ngày càng tăng của ASXH.

Hệ thống an sinh xã hội không tác động ngang nhau lên toàn bộ dân số
    + Người giàu hưởng nhiều, người nghèo hưởng ít.
     + Các hộ  trong nhóm thu nhập cao nhất ­ nhóm 20% giàu nhất nhận 
được khoảng gần 40% lợi ích an sinh xã hội. Trong khi đó, nhóm nghèo nhất chỉ 
nhận chưa tới 7%.
   + Người sống ở đô thị có cơ hội hưởng nhiều chính sách an sinh xã hội  
hơn người sống ở nông thôn.
  + Người dân tộc Kinh, Hoa hưởng lợi nhiều hơn dân tộc thiểu số. 
     + Sống ở miền Bắc hưởng nhiều an sinh xã hội hơn miền Nam.
     2.4 Các vấn đề tiêu cực trong ASXH tại Việt Nam.
Tuy   nhà   nước   đã   có   rất  nhiều  chủ   trương,   chính  sách  trong   công  tác 
ASXH. Nhưng nhìn chung muốn chúng trở  nên hoàn thiện, phát huy được còn 
phụ  thuộc rất nhiều vào công tác lãnh đạo từ  Trung  ương xuống địa phương.  
Thành thật mà nói, công tác kiểm tra, giám sát của chúng ta còn yếu.Trong quá  
trình thực hiện đã xảy ra nhiều tiêu cực làm hạn chế những hiệu quả của việc  
thực hiện ASXH nước ta, hoặc có tác động ngược lại gây bức xúc, bất bình 
trong dư luận. Sau đây là một số trong rất nhiều vấn đề  tiêu cực mà nhóm đưa 
ra để phần nào thấy được những bất cập trong việc thực hiện ASXH ở nước ta.  
Và những suy nghĩ của nhóm chúng tôi xoay quanh vấn đề này
Một trong những vấn đề đáng quan tâm là bảo hiểm xã hội. Đối với mọi 
người trong xã hội mà nói, thì những rủi ro thường xuyên đối mặt là: Tai nạn, 
ốm đau, thất nghiệp, hoặc đơn thuần là già yếu hết khả  năng lao động... Và 
điều mà họ  gặp phải khi các vấn đề  trên phát sinh là hạn chế  hoặc không có  

Trang 
16


Bài tiểu luận: Tài Chính Công


tiền chi phí cho cuộc sống. Đây chính là mục tiêu chính của bảo hiểm xã hội,  
nhưng trong quá trinh thực hiện thì còn nhiều vấn đề  nan giải. Một số  bệnh  
nhân đã không ngần ngại lạm dụng khám chữa bệnh để  lấy thuốc bằng cách  
khám nhiều lần, khám nhiều chuyên khoa, khám bất cứ  khi nào...rảnh. Những 
bệnh nhân tham lam đó không phải chỉ  là những người bệnh nghèo khổ  muốn  
kiếm thêm chút tiền mà chính là những y bác sĩ nhà nước tại cơ quan y tế tham  
gia bảo hiểm y tế  (BHYT). Nhiều hình thức lạm dụng và gian lận đã xảy ra 
như  kê nhiều chỉ  định cận lâm sàng, kỹ  thuật cao để  mau thu hồi vốn đầu tư 
thiết bị cận lâm sàng hoặc để kiếm lời nhiều hơn khi hợp tác với đơn vị thứ ba.  
Có không ít đơn vị y tế kê khống số lượng, giả mạo chữ ký bệnh nhân để nhận 
nhiều tiến chi trả BHYT. Có nơi báo cáo quyết toán chỉ căn cứ vào chỉ định của  
bác sĩ chứ không kiểm tra chỉ định đó có được thực hiện hay không. Việc kiểm  
tra đối chiếu quyết toán hoàn toàn dựa vào báo cáo của bệnh viện đưa lên chứ 
không căn cứ vào thực tế. Điều đó tạo kẻ hở cho một số bác sĩ lợi dụng nhiệm  
vụ  tham gia khám BHYT để  giả  mạo hồ  sơ  bệnh nhân BHYT rút tiền hàng 
chục tỷ đồng.
Hay như  việc chậm chi trả bảo hiểm cho bệnh nhân, hoặc người khám 
bảo hiểm thì phải chờ lâu hơn người khám không bảo hiểm. Không nói đâu xa, 
những người già  ốm đau, sinh viên, học sinh...mặc dù đến trước nhưng vẫn 
phải ngồi chờ hàng giờ để được khám bệnh. Như, Tất cả sinh viên các trường  
Đại Học, Cao Đẳng đều mua BHYT và BHTN đây là các bảo hiểm bắt buộc  
theo qui định mới của chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung không phải chỉ có riêng 
bản thân tôi chán nản với BHYT.Chúng tôi tin tưởng vào chính sách của nhà 
nước.Nhưng chúng tôi lại rất ít khi dùng đến nó, không phải chúng tôi không bị 
bệnh mà là chúng tôi chấp nhận khám không cần Bảo hiểm. Vì sao? Một câu  
hỏi mà ai cũng rõ. Vì hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều bệnh viện khám bệnh, 
khi bệnh nhân khám theo BHYT thì thái độ của các cán bộ, y bác sĩ là không tốt. 
Đôi khi bệnh nhân phải chờ rất lâu mới tới lượt, khám qua loa, sự thờ ơ với nỗi  
đau của bệnh nhân khiến tôi nãn lòng. Điển hình: Nhiều sản phụ  khó sanh, 
nhưng vẫn không được mỗ. Bác sĩ nói để  sanh tự  nhiên cho tốt, nên cứ  nằm  

chờ. Biết là sanh tự  nhiên là tốt nhưng thử  hỏi làm sao sanh được khi đứa trẻ 
năng 4,2 kg. Khi họ  đau nằm chờ  cũng không có người quan tâm, hỏi han. Chỉ 
mỗ khi người me ngất đi. Đứa trẻ ra đời nhưng thân thể tím tái, phải nằm lồng  
ấp, phải thở ôxi, được chuẩn đoán là bị ngạt, và cũng có những đứa trẻ bị chết .  
Sau khi sanh, người nhà đều biếu “phong bì” cho bác sĩ, y tá, hộ lý để họ  quan 
tâm chăm sóc hơn. Thái độ của họ cũng thay đổi theo, từ sự lạnh nhạt, thờ ơ trở 
nên quan tâm,chăm sóc. Thử hỏi, sao chúng ta có thể trách người dân đã tiếp tay  
cho tệ nạn, khi sinh mạng người thân họ đang nằm trong tay người khác.

Trang 
17


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Bên cạnh đó, một số   doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã 
hội của người lao động để tư lợi. Trong đó có những doanh nghiệp lớn, có “tên 
tuổi”  nợ  đọng  tiền bảo hiểm xã hội lên đến hàng tỷ  đồng. Nguyên nhân của  
tình trạng nợ  đọng cao là do nhiều doanh nghiệp đã đến kỳ  quyết toán nhưng 
không chịu dồn tiền trả  nợ  bảo hiểm xã hội cho người lao động, tháng sau  
chồng lên tháng trước. Nhưng thực chất là người sử  dụng lao động luôn tìm 
cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người 
lao động. 
Người nghèo là đối tượng dễ  tổn thương cần được chính quyền vá toàn 
xã hội quan tâm. Và thực tế  là đã có những khoản trợ  cấp, những quỹ   ủng hộ 
cho người nghèo và những đối tượng khó khăn khác. Nhưng thực tế đã không ít 
cán bộ, tổ chức lợi dụng chức quyền chiếm đoạt phần trợ cấp, hỗ trợ đó. Tình  
trạng cán bộ  cơ sở ăn chặn, địa phương khấu trừ, đưa ra những chiêu bớt xén 
tiền Chính phủ  hỗ  trợ  người nghèo ăn tết, trong đó có nơi trừ  vào các quỹ, có  
nơi trừ vào tiền điện... không còn xa lạ gì. Tết Nguyên đán 2009, Ở các xã Đức 

Tùng, Đức Yên (Đức Thọ, Hà Tĩnh), xã và xóm giữ  lại tiền mà không cấp đủ 
cho hộ  nghèo. Thậm chí tại xã Thạch Tiến (Thạch Hà), tiền hỗ  trợ  được cấp  
“nhầm” cho người... không nghèo để  mua điện thoại di động, trong khi một số 
hộ  thực sự  nghèo lại không được đồng nào. Một số  xã như  Hương Bình, Hòa 
Hải, Phú Gia (Hương Khê) thì mỗi hộ  nghèo chỉ  được cấp từ  100.000 đồng ­ 
110.000 đồng/khẩu; số tiền còn lại trưởng xóm tự quyết chia đều cho những hộ 
khác từ  47.000 ­ 50.000 đồng/khẩu, kể  cả  hộ  giàu. Tại xã Thanh Khê (Thanh 
Chương, Nghệ An)  nhiều hộ dân cho biết, sau khi có thông báo nhận tiền của 
Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết nhưng khi nhận bị cán bộ xóm trừ vào tiền 
đóng góp quỹ khuyến học của địa phương. 
Nói về tiền trợ cấp, cũng có nhiều điều cần bàn.

“Chuyện lạ  ở xã Gia Tân 1, huyện Thống 
Nhất, tỉnh Đồng Nai:
Không ít người chết đã 2 ­ 3 năm, nhưng hàng 
tháng,   họ   vẫn  đều  đặn  có  tên  trong   danh  sách  Bà   Nguyễn   Thị   Xuân   đã 
nhận   tiền   trợ   cấp   thường   xuyên.   Thậm   chí,  chết, nhưng danh sách nhận 
tiền trợ cấp vẫn còn đến quý 
những người đã chết này còn ký tên, hoặc điểm 
III/2006
chỉ vân tay trên danh sách nhận tiền. 

Trang 
18


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Như  bà Lại Thị  Vui cũng đã chết, nhưng tiền trợ  cấp vẫn còn đến quý 
III/2006.

Qua điều tra, một nguồn tin khác cho chúng tôi biết, ông Phạm Tiến 
Hưng ­ cán bộ phụ trách chi trả tiền xã hội, thuộc UBND xã Gia Tân 1 ­ cũng xà 
xẻo, bớt xén tiền trợ  cấp của 20 người đang còn sống. Thí dụ: Quý III năm 
2006, thay vì bà Phạm Thị  Liễu được hưởng 590.000 đồng, thì ông Hưng chỉ 
đưa bà Liễu 500.000 đồng.                                  
Tỉnh Hà Tĩnh sai phạm liên quan đến vụ  việc sử  dụng tiền cứu trợ  lũ  
quét năm 2002 tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Tháng 9/2002, huyện Hương Sơn xảy ra trận lũ quét lịch sử, gây thiệt hại 
nặng về người và tài sản.  Ước tính thiệt hại vật chất hơn 200 tỷ đồng. Ngoài 
lương thực, Hương Sơn được trợ  cấp, tiền tiếp nhận quản lý, sử  dụng là 24,4 
tỷ đồng. 
Tổng số tiền hỗ trợ nhân dân là 5,3 tỷ đồng được giao cho hai phòng chức năng 
là LĐ­TBXH và Kế hoạch­tài chính trực tiếp cấp phát cho các xã. Tuy nhiên, hai  
phòng này chuyển cho các xã chỉ vỏn vẹn gần 1,6 tỷ đồng. Số còn lại,được chi 
tuỳ tiện vào những mục đích không có trong danh mục cứu trợ. Trong gần 1,6 tỷ 
đồng mà hai phòng chức năng của UBND huyện phân bổ  cho các xã cũng phát  
sinh những vấn đề nghiêm trọng.Thị trấn Phố Châu và 4 xã lân cận được "chia" 
688 triệu đồng, nhưng theo danh sách, nhân dân tại các địa phương này chỉ nhận 
được gần 200 triệu đồng, số tiền còn lại, chính quyền các xã lại tiếp tục chi sai  
nguyên tắc. Không dừng lại ở đó, hơn hai tỷ đồng trong số 3,8 tỷ còn lại được 
Phòng LĐ­TBXH chia cho cơ sở theo kiểu "ai quý thì được nhiều", tất cả  đều  
được giao theo kiểm “trao tay” mà không có bất cứ một loại chứng từ nào. 
Tham nhũng không phải chỉ là vấn nạn của riêng quốc gia nào, mà nó có 
trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, nhà nước ta cần phải quản láy chặt chẻ  hơn  
nguồn quỹ ASXH, nguồn quỹ này để nâng cao chất lượng cuộc sống của người  
dân, đặc biệt là người nghèo khổ. Dù các chinh sách là toán diện,qui mô… 
nhưng nếu quản lý không tốt thì tiền cứu trợ sẽ không đến được tay người cần 
nó, mà chỉ chui vào túi những kẻ tham lam. Như vậy, dù cho có nhiều chính sách  

Trang 

19


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

tới đâu người đáng được hưởng vẫn không được hưởng, còn ngân sách nhà 
nước thì lại cạn đi.
  3. Các chính sách và vai trò của chính phủ trong thực hiện ASXH để đảm  
bảo công bằng xã hội.
         3.1 Các chính sách của chính phủ trong việc thực hiện ASXH để đảm 
bảo công bằng xã hội : 
  3.1.1 Cứu trợ xã hội :
       Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có 
thiên tai (bão tố, lũ lụt, …), hơn nữa, liên miên trải qua chiến tranh chống xâm  
lược, vì vậy một bộ  phận không nhỏ  người dân luôn sống trong tình trạng 
nghèo túng, khó khăn. Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam 
sớm nảy nở và phát huy cao độ.Do đó từ khi thực hiện đổi mới kinh tế theo cơ 
chế  thị  trường theo định hướng xã hội chủ  nghĩa, nhà nước ta càng quan tâm 
thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ  xã hội đối với những người nghèo  
khó, tàn tật . Cụ thể : 
• Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa:  
bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất;
• Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các 
dân tộc thiểu số: Thành lập Ngân hàng phục vụ  người nghèo, Thành lập tổ 
chức trợ  giúp pháp lý cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo 
trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ti cổ  phần, Thành lập Ban chủ 
nhiệm   chương   trình   mục   tiêu   XĐGN,   Thành   lập   Ban   chỉ   đạo   thực   hiện 
chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và 
vùng sâu, vùng xa;
• Chính sách đối với người tàn tật: Ban hành pháp lệnh người tàn tật, 

Khuyến khích thành lập và hỗ  trợ  Hội bảo trợ  người tàn tật (Hội người mù,
…);
• Chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam: Thành lập quỹ  bảo trợ 
nạn nhân chất độc da cam, …
• Chính sách cứu trợ  xã hội đối với công chức nhà nuớc, người hưởng  
lương trong lực lượng vũ trang qua hình thức trợ  cấp khó khăn đột xuất và 
thường xuyên.

Trang 
20


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

  Ngoài ra nhà nước đã mở rộng cơ chế để tạo sự trợ giúp từ cộng đồng 
ban hành qui chế  tổ  chức và hoạt động của quiõ xã hội, quiõ từ  thiện, phát  
động phong trào tình nguyện . Đặc biệt trong thời gian gần đây, nguồn nhân 
tài vật lực đóng góp cho cứu trợ  xã hội không chỉ  được đóng góp từ  trong  
nước mà còn đến từ  kiều bào Việt Nam  ở  nước ngoài và cả  kiều bào nước  
ngoài.
  3.1.2 Chăm sóc y tế .
Ở nước ta, việc chăm sóc y tế được thực hiện theo cách khác nhau qua ba giai  
đoạn:
   Giai đoạn từ  năm 1961 đến 1992: Điều lệ  tạm thời về  các chế  độ 
BHXH năm 1961 coi việc chăm sóc y tế  cùng với chế  độ  trợ  cấp  ốm đau là  
một chế độ quan trọng hàng đầu của BHXH. Cụ thể như sau:
 Đảm bảo chăm sóc y tế cho công nhân, viên chức nhà nước;
Đảm bảo cho cả  trường hợp  ốm  đau, tai nạn lao  động – bệnh nghề 
nghiệp, mang thai và sinh đẻ;
Thực hiện chăm sóc y tế miễn phí tức toàn bộ do nhà nước đài thọ (cung  

cấp dịch vụ  khám, điều trị, tiền thuốc men, bồi dưỡng, phí tổn tàu xe đi lại  
khám – chữa bệnh, …). Tuy nhiên, có sự  phân biệt nơi khám và điều trị  theo  
nhóm mức lương, nhóm cán bộ, công nhân, nhân viên.
Giai   đoạn   từ   năm   1992   đến   2002:   Ngày   15/08/1992,   Nghị   định   299/ 
HĐBT ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế và chính thức tách Bảo hiểm y tế ra 
hệ  thống BHXH đặt dưới sự  quản lý của Bộ  Y tế. Hệ  thống cơ  quan bảo  
hiểm y tế  được thành lập từ  trung  ương đến địa phương. Các nét chính của 
chế độ chăm sóc y tế giai đoạn này là :
Đảm bảo chăm sóc y tế theo chế 
độ bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước mà còn mở rộng 
ra đối với mọi người lao động ăn lương;
Đảm bảo chăm sóc y tế  trong trường hợp người lao động tham gia bảo  
hiểm y tế bị ốm đau, thai sản, không đảm bảo chăm sóc y tế trong trường hợp  
tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (Điều này là điểm khác so với giai đoạn 
trước và khác với Công  ước 102) , không đảm bảo chăm sóc y tế  đối với  
những bệnh xã hội , bệnh tật bẩm sinh, điều dưỡng, an dưỡng, chỉnh hình, 
phục hồi chức năng, tạo hình thẩm mỹ, làm chân giả – tay giả – mắt giả, dịch  
vụ kế hoạch hóa gia đình, dịch vụ bảo vệ sức khỏe đặc biệt, dịch vụ  y tế tự 
chọn, khám chữa bệnh ở nước ngoài, tai nạn chiến tranh, thiên tai;

Trang 
21


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Nguồn tài chính đảm bảo cho chăm sóc y tế được huy động từ người lao  
động (1% tiền lương) và người sử  dụng lao động (2% quiõ lương) không có 
sự  hỗ  trợ  của nhà nước. Mặc dù cơ  quan bảo hiểm y tế  trực thuộc Bộ Y tế 
nhưng việc chăm sóc y tế  vẫn theo mô hình gián tiếp qua việc ký hợp đồng 

khám chữa bệnh giữa Bảo hiểm y tế và cơ sở y tế.
  Giai đoạn hiện nay: Bắt đầu thực hiện chủ trương chuyển Bảo hiểm y  
tế sang quản lý chung với BHXH vì các lý do sau:
Đối tượng quản lý của BHXH và Bảo hiểm y tế là tương đồng (loại áp 
dụng chế độ bắt buộc), việc sát nhập làm cho việc quản lý thuận lợi hơn, vừa 
tiết kiệm, vừa đảm bảo phục vụ tốt hơn cho người được bảo hiểm;
Dù trước đây, Bảo hiểm y tế trực thuộc Bộ Y tế nhưng việc chăm sóc y  
tế vẫn là theo mô hình gián tiếp. Về lâu dài, dù muốn chắc chắn nước ta cũng 
chưa có thể  áp dụng mô hình trực tiếp chăm sóc y tế, nên việc chuyển về 
BHXH một mặt, vẫn giữ  nguyên mô hình gián tiếp; mặt khác, vai trò, trách 
nhiệm một người quản lý quiõ tiền sẽ dễ phát huy hơn trong việc tổ chức thu  
– chi, giám sát việc cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế của cơ sở y tế, đầu tư và 
phát triển quiõ, …
          3.1.3  Ưu đãi xã hội : 
Cơ chế ưu đãi xã hội là nét riêng có trong hệ thống ASXH Việt Nam. Cơ 
chế này nhằm đảm bảo cho 2 nhóm người chủ yếu như sau:
Nhóm những người  đã có công sức  đóng góp cho vận mệnh của  đất  
nước, công cuộc cách mạng của dân tộc bao gồm: những người đã gắn bó cả 
cuộc   đời   của   mình   với   sự   nghiệp   cách   mạng,   sự   nghiệp   của   cộng   đồng; 
những người gặp rủi ro trong quá trình hoạt động cho sư  nghiệp chung của 
cộng đồng. Phần lớn những người thuộc nhóm này thường bị  suy giảm, mất 
khả  năng lao động, khả  năng cầu tiến trong  điều kiện cạnh tranh của thị 
trường trong khi sự  đóng góp của họ  là vô giá (tính mạng, thân thể, gia sản, 
…). Việc ưu đãi đặc biệt những người này so với những người lao động bình  
thường kể  cả  những người lao động bất hạnh khác là phù hợp với truyền 
thống lâu đời của dân tộc: uống nước nhớ  nguồn. Các chính sách đãi ngộ 
nhóm người này gồm có:
Chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia  
kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam;
Chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ Cách 

mạng.

Trang 
22


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

Nhóm những người đã và sẽ cung cấp sức lao động quiù báu cho nền kinh tế­
xã hội bao gồm những người già đã có quá trình làm việc, lao động lâu năm,  
cống hiến sức lao động cho xã hội, những bà mẹ có công sinh nở, nuôi nấng con 
trẻ và trẻ em – nguồn sức lao động cho sự phát triển kinh tế­xã hội trong tương  
lai lâu dài. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này ở Việt Nam gồm có:
Chính sách đối với người cao tuổi (Pháp lệnh người cao tuổi);
Chính sách đối với bà mẹ và trẻ em.
Nguồn tài chính để tạo quiõ ưu đãi xã hội đối với những người này trước tiên  
là NSNN, tiếp đó là sự đóng góp của toàn cộng đồng đầy tính nhân văn qua các  
phong trào, hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, phong trào tình nguyện đã và đang  
diễn dưới nhiều hình thức da dạng và hiệu quả, thiết thực ở khắp mọi miền 
đất nước.
          3.1.4 Dịch vụ xã hội
Dịch vụ xã hội và trợ cấp (bằng tiền) ASXH (trợ cấp BHXH, bảo hiểm y  
tế, ưu đãi xã hội, …) là 2 mặt của cùng một hành động bảo vệ an toàn cho xã 
hội nói chung và cho người lao động nói riêng. Sẽ không thể có hiệu quả tích 
cực dù tiền trợ cấp có cao đến đâu mà dịch vụ  nghèo nàn không đáp ứng nhu 
cầu của người lao động. Dịch vụ xã hội có thể  bao gồm những dịch vụ  y tế, 
phòng ngừa y tế (vệ sinh phòng dịch, y tế dự phòng, …), phòng ngừa tai nạn,  
dịch vụ đối với người tàn tật (phục hồi chức năng, cung cấp bộ phận giả, …),  
dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, thực hiện tái thích ứng nghề, … Tùy thuộc vào  
sự phát triển của kinh tế cũng như  nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ mà  

dịch vụ xã hội phát triển ở những loại nào nhưng hầu như quốc gia nào cũng 
quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ  y tế để  đảm bảo cho rủi ro  ốm đau lên  
hàng đầu.
Ở  Việt Nam, ngay từ  khi thành lập nước đến nay, nhà nước ta đã có 
nhiều quan tâm đến nhiều nội dung dịch vụ xã hội: tổ chức mạng lưới y tế đến 
thôn xã, đào tạo cán bộ y tế, thực hiện y tế dự phòng phòng chống bệnh bướu  
cổ, AIDS, các dịch bệnh truyền nhiễm, thực hiện một thời gian dài cung cấp  
dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí, thực hiện hệ thống trường dạy nghề để  tái 
thích  ứng nghề  cho người lao động nói chung, người lao động thương tật nói 
riêng. Hiện nay, từ khi đổi mới kinh tế, nhà nước ta có chính sách khuyến khích  
phát triển hệ thống dịch vụ xã hội bằng các nguồn lực đa dạng của xã hội, điều  
này, một mặt làm cho cơ  sở  vật chất dịch vụ  xã hội ngày càng tốt hơn, mặt 

Trang 
23


Bài tiểu luận: Tài Chính Công

khác, nhà nước có thể  tập trung nguồn lực của mình để  chăm sóc tốt hơn cho  
các đối tượng ưu đãi xã hội và BHXH.
       3.1.5 Các khoản đảm bảo khác được cung cấp bởi người sử dụng lao  
động
a. Trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc
Trợ  cấp thôi việc là khoản tiền của người sử  dụng lao  động trả  cho  
người lao động thuộc quyền quản lý khi người lao động thôi việc theo các  
truờng hợp đã có qui định của pháp luật như: mãn hạn hợp đồng, người lao 
động đơn phương chấm dứt hợp đồng một các hợp pháp, người sử  dụng lao 
động đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải vì lý do nguời lao động  
phạm lỗi nặng bị sa thải. Trợ cấp mất việc là trợ  cấp cho người lao động bị 

thôi việc do doanh nghiệp thay đổi cơ  cấu hoặc công nghệ  khiến cho người 
lao động chưa đến hạn hoặc chưa đến lúc chấm dứt hợp đồng đã bị mất việc 
một cách bị động. Trợ cấp mất việc vừa bao hàm ý nghĩa là trợ cấp thôi việc  
vừa có ý nghĩa là một khoản bồi thường, bù đắp thiệt thòi cho người lao động 
do người sử dụng lao động dơn phương đình chỉ hợp đồng.
b. Sự  đảm bảo của người sử  dụng lao động đối với người lao  
động tàn tật
Đây có thể xem là một loại chế độ cứu trợ xã hội đối với người lao động 
tàn tật, chỉ  có điều là nhà nước không trực tiếp thực hiện mà qui định buộc  
người sử  dụng lao động phải thực hiện. Luật Lao động có mục riêng về  lao 
động là người tàn tật có qui định các doanh nghiệp phải nhận một tỷ  lệ  lao  
động là người tàn tật so với tổng số lao động để  làm việc ở  vị  trí thích hợp,  
nếu không nhận thì phải nộp một khoản tiền góp vào quiõ tạo việc làm cho  
người tàn tật, qui định các chế  độ   ưu đãi giảm, miễn thuế  cho những doanh  
nghiệp dành riêng cho người tàn tật hoặc nhận số  lao động là người tàn tật  
vào làm việc cao hơn tỷ lệ qui định.
c. Sự đảm bảo của người sử dụng lao động đối với lao động bị tai  
nạn lao động
Trong phần chăm sóc xã hội, chúng ta thấy chế độ chăm sóc y tế  ở Việt  
Nam thông qua bảo hiểm y tế đối với người lao động không bao gồm trường  
hợp người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (khác với công uớc  
102 – ILO). Tuy nhiên, Luật Lao động có qui định người sử  dụng lao động  
phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho  
người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.

Trang 
24


Bài tiểu luận: Tài Chính Công


        3.2 Vai trò của chính phủ trong thực hiện ASXH
Vai trò cua chính phủ trong việc thực hiện ASXH để  đảm bảo công bằng 
xã hội
       3.2.1.Ban hành các chinh sách và triển khai thực hiện chúng
     Bảo hiểm xã hội
Tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động, người sử dụng lao 
động, đồng thời hỗ trợ của nhà nước, thực hiện việc trợ cấp vật chất, góp phần  
ổn định đời sống cho người tham gia BHXH và gia đình họ trong các trường hợp  
người lao động tham gia BHXH bị ốm đau, thai sản…
  

Cứu trợ xã hội
      Cụ thể Chính phủ đã:

                 Tái thành lập Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động­Thương  
binh và Xã hội (năm 1998) để  tạo điều kiện nâng cao chất lượng việc làm của 
người lao động thông qua nâng cao chất lượng nguồn lao động.
học cơ sở.

Đã xây dựng các chính sách hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung 

Xây dựng chính sách về  học bổng cho các đối tượng thuộc diện  
chính sách, tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.
Chính sách về  dạy nghề  đối với học sinh dân tộc thiểu số, đề  án  
dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 2008­2015 theo Quyết định số 
103/2008/QĐ­TTg ngày 21/7/2008.
Đề  án về  Dạy nghề  cho lao  động nông thôn đến năm 2020 vừa 
được   Chính   phủ   phê   duyệt   tại   Quyết   định   số   1956/2009/QĐ­TTg   ngày  
27/11/2009 nhằm tăng cường khả  năng tiếp cận của các đối tượng này đến hệ 

thống giáo dục, đào tạo và dạy nghề
 Dịch vụ việc làm
, Chính phủ đã thực hiện các chương trình hỗ trợ di cư đến các vùng kinh tế 
mới; phát triển các chính sách hỗ  trợ  di dân thực hiện định canh định cư  đối  
với đồng bào dân tộc thiểu số  (Quyết định số  33/2007/QĐ­TTg); xây dựng  

Trang 
25


×