Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chế độ trợ cấp ốm đau trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.97 KB, 13 trang )

MỤC LỤC:
I.Khái quát chung về sự ra đời và phát triển của hệ thống an sinh xã hội
Việt Nam..............................................................................................2
II.Khái quát chung về sự ra đời và phát triển của hệ thống BHXH trong
hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam...................................................5
1.Quá trình phát triển của hệ thống BHXH ở Việt Nam.....................................................5
2.Kết quả thực hiện của chính sách BHXH, BHYT hiện hành...........................................6

III.Tư tưởng cơ bản của chế độ trợ cấp ốm đau trong hệ thống bảo
hiểm xã hội Việt Nam:........................................................................7
1.Mục đích:..........................................................................................................................7
2.Nội dung cơ bản:...............................................................................................................8
3.Đánh giá về chính sách và tổ chức thực hiện các chế độ BHXH từ khi cải cách đến nay
11

IV.Kết luận................................................................................................12

CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU TRONG HỆ THỐNG AN SINH
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


I.

Khái quát chung về sự ra đời và phát triển của hệ thống
an sinh xã hội Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam ln

gắn liền với q trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ khi thành lập nước năm 1945, bên cạnh những
nhiệm vụ rất quan trọng về lĩnh vực an ninh, quốc phịng và kinh tế, thì Chính
phủ cũng hết sức chú trọng xây dựng mạng lưới an sinh xã hội để ổn định và


phát triển đất nước. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Đảng và Chính
phủ đã đề ra những mục tiêu hết sức cụ thể: " Chính sách của Đảng và Chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi và dân đủ ăn, đủ mặc thì chính sách của Đảng và
Chính phủ sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh tật thì Chính sách
của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được". Tư tưởng này luôn được
quán triệt và được xây dựng thành những mục tiêu cụ thể trong suốt hơn 60
năm qua phù hợp với những giai đoạn lịch sử nhất định gắn liền với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Cũng như Hệ thống An sinh xã hội của các nước trên thế giới, Hệ thống
An sinh xã hội của Việt Nam ngay từ khi thành lập nước năm 1945 đã được
tiến hành trên cả 3 lĩnh vực:
1. Lĩnh vực Bảo trợ xã hội
2. Lĩnh vực Cung cấp
3. Lĩnh vực BHXH
Thực chất hoạt động của cả 3 lĩnh vực nói trên, trong suốt q trình phát
triển, người ta có thể chia ra làm nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và ứng với
mỗi giai đoạn này đều có những phạm vi hoạt động, đối tượng áp dụng,
phương thức thực hiện cũng như những hệ thống khung quyền lợi khác nhau
tương ứng với những giai đoạn lịch sử nhất định của đất nước, cụ thể như sau:
2


- Giai đoạn 1945 - 1964: từ khi cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước
Việt Nam non trẻ vừa phải đương đầu với cuộc chiến tranh trường kỳ chống
thực dân Pháp để gìn giữ chính quyền, lại vừa phải chống lại nạn đói rét, vừa
phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế miền
Bắc, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.
- Giai đoạn 1965 - 1975: thời gian này, Nhà nước Việt Nam một mặt vừa

phải khắc phục những hậu quả nặng nề do bom đạn Mỹ gây nên, mặt khác
vẫn tiếp tục tăng gia sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân của Mỹ, đồng thời vẫn chi viện tối đa sức người, sức của cho tiền
tuyến lớn ở miền Nam.
- Giai đoạn 1976 -1985: giai đoạn khắc phục hậu quả nặng nề của 30 năm
chiến tranh, cả nước thống nhất tập trung phát triển kinh tế và giải quyết các
vấn đề xã hội.
- Giai đoạn 1986 - đến nay: giai đoạn cải cách toàn diện cả về kinh tế và
xã hội.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận dưới góc độ lý luận hiện đại về Hệ thống An
sinh xã hội, có thể hiểu rằng từ trước năm 1986, Nhà nước Việt Nam chủ yếu
tiến hành các hoạt động trong lĩnh vực Bảo trợ xã hội và lĩnh vực Cung cấp
(các chế độ ưu đãi xã hội hay còn gọi là chế độ bao cấp) tức là quyền lợi của
người được hưởng hồn tồn khơng phụ thuộc vào trước đó người được
hưởng có đóng góp hay khơng. Ngun nhân sâu xa của Hệ thống An sinh xã
hội nói trên phải kể đến xuất phát điểm từ mơ hình kinh tế vĩ mô của một nền
kinh tế kế hoạch hố hành chính tập trung. Theo mơ hình này, người ta đặc
biệt coi trọng sự phát triển của thành phần kinh tế quốc doanh và nguồn thu
tập trung của Ngân sách Nhà nước chủ yếu dựa vào hệ thống các doanh
nghiệp Nhà nước. Tương tự như vậy, quá trình phân phối lại trong nền kinh tế
quốc dân cũng mang tính hành chính tập trung thơng qua hệ thống thang bảng
lương; các chế độ hưu trí, tử tuất dành cho những người thuộc khu vực Nhà
3


nước (công an, quân đội, công nhân viên chức trong các doanh nghiệp và bộ
máy quản lý Nhà nước...) và hệ thống phúc lợi xã hội khác như: học hành và
KCB khơng mất tiền dành cho tồn dân. Do vậy, nguồn thu để điều tiết phân
phối lại cho Hệ thống An sinh xã hội trong suốt giai đoạn này một phần từ
nguồn ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, phần còn lại phải huy động chủ yếu

từ các nguồn viện trợ nước ngồi và sự qun góp của tồn xã hội. ở một
chừng mực nhất định mơ hình kinh tế và mơ hình phân phối nói trên đã đáp
ứng được những mục tiêu trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập và thống
nhất đất nước.
Kể từ khi thực hiện cải cách kinh tế từ năm 1986, việc chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay đã mang lại động
lực mới cho sự phát triển toàn diện của cả nước. Đi cùng với sự phát triển
kinh tế là sự biến đổi sâu sắc về hệ thống chính sách xã hội và đặc biệt là hệ
thống an sinh xã hội. Hệ thống An sinh xã hội của Việt Nam mặc dù còn
mang nét đặc trưng riêng có của một nước đang phát triển nhưng đã từng
bước hoàn thiện và hoà nhập với Hệ thống An sinh xã hội của thế giới kể cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Mạng lưới an sinh xã hội của nước ta là mạng
lưới khá đa dạng với nhiều chính sách, chế độ, nhiều hình thức phong phú đã
có tác dụng thiết thực đến việc bảo vệ cuộc sống của hầu hết mọi thành viên
trong xã hội trước những rủi ro từ những nguyên nhân: ốm đau, bệnh tật,
không việc làm, nghèo đói, bão lụt, thiên tai, địch hoạ… góp phần bình ổn đời
sống của từng cá nhân, từng gia đình cũng như sự ổn định chung của tồn xã
hội.

4


II.

Khái quát chung về sự ra đời và phát triển của hệ thống
BHXH trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam
1. Quá trình phát triển của hệ thống BHXH ở Việt Nam
Nếu như sau cách mạng tháng 8 thành cơng, Chính phủ đã ban hành một

số Sắc lệnh quy định một số chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho cơng

nhân viên chức Nhà nước: Sắc lệnh số 54 ngày 03/11/1945, Sắc lệnh số 105
ngày 14/6/1946, Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947… thì phải đến tháng 7/2006
vừa qua, chúng ta mới có được Bộ luật BHXH. Tuy nhiên, đó cũng là một
chặng đường dài tất yếu của sự phát triển và từ năm 1995 đến nay mới thực
sự có những cải cách về chính sách BHXH và đánh dấu thời kỳ phát triển mới
về sự nghiệp BHXH. Những nội dung cụ thể đánh dấu bước cải cách về
BHXH ở nước ta là:
- Đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả người lao động làm công ăn
lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên: người sử
dụng lao động, người lao động và sự bảo hộ của Nhà nước (người sử dụng lao
động đóng 15%, người lao động đóng 5%). Quỹ BHXH hoạt động độc lập với
NSNN.
- Các chế độ BHXH gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp, hưu trí và tử tuất, sau đó đã bổ sung thêm chế độ nghỉ dưỡng sức và
phục hồi sức khỏe.
- Hệ thống BHXH Việt Nam được hình thành 3 cấp từ Trung ương đến địa
phương - một hệ thống chuyên trách tổ chức thực hiện chính sách và quản lý
quỹ BHXH. Từ năm 2002 đã chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt
Nam.
Về chính sách BHYT

5


Thực chất của chính sách BHYT được coi là chế độ KCB của chính sách
BHXH, nhưng do lịch sử hình thành và phát triển có sự khác biệt và theo thói
quen nên chúng ta tạm gọi là chính sách BHYT. Kể từ trước năm 1992, Nhà
nước bao cấp về khám chữa bệnh (KCB) cho tồn dân, mọi chi phí KCB do
ngân sách Nhà nước chi trả - đây được coi là chế độ cung cấp của Nhà nước.

Từ sau năm 1992 mới triển khai chế độ BHYT. Nội dung những chính sách
BHYT hiện hành là:
- BHYT bắt buộc đối với những người có quan hệ lao động; cán bộ xã
phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng; người hưởng chế độ hưu trí,
mất sức lao động.
- Nhà nước cấp kinh phí để tham gia BHYT cho các đối tượng bảo trợ xã
hội như: người có cơng với cách mạng, người tham gia kháng chiến và con đẻ
của họ bị nhiễm chất độc hoá học; cho các đối tượng là thân nhân sĩ quan tại
ngũ, người nghèo.
- Mức đóng được quy định chung là 3 %. Đối với người có quan hệ lao
động thì người sử dụng lao động đóng 2%, người lao động đóng 1%.
- BHYT tự nguyện cho những đối tượng không thuộc diện tham gia BHYT
bắt buộc. Mức đóng căn cứ vào sự khác biệt về điều kiện địa lý và điều kiện
kinh tế-xã hội mà quy định các mức khác nhau. Người tham gia BHYT tự
nguyện về cơ bản được KCB như người tham gia BHYT bắt buộc, nhưng có
chú ý đến tỷ lệ người tham gia theo từng đơn vị cộng đồng...
- Riêng trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám
bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập và đang được
nghiên cứu đưa vào đối tượng BHYT bắt buộc.
2. Kết quả thực hiện của chính sách BHXH, BHYT hiện hành
Năm 1995 có 2,85 triệu người tham gia BHXH thì đến cuối năm 2005 là
6,2 triệu người, số tiền thu đạt 12.000 tỷ đồng, đưa tổng quỹ BHXH hiện nay

6


lên trên 51.500 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới
tham gia BHXH bằng khoảng 1,2% nguồn lao động xã hội. Năm 1993 mới có
3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2005 đã tăng lên 23,7 triệu
người, trong đó có 14,5 triệu người tham gia BHYT bắt buộc; 9,2 triệu người

tham gia BHYT tự nguyện, chiếm khoảng gần 30% dân số cả nước. Tổng số
thu BHYT năm 2005 là 2945 tỷ đồng trong đó thu BHYT bắt buộc là 2554 tỷ
đồng, thu BHYT tự nguyện là 391 tỷ đồng. Trong năm 2005 đã có 35,120
triệu lượt người KCB.
Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tuất, mất sức lao động
cho gần 2 triệu người, đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao
tận tay từng người; không cịn tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao
cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng tháng từ Quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh
vào các năm sau đồng thời nguồn quỹ chi trả từ Ngân sách Nhà nước sẽ giảm
dần.
Chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu, KCB nội trú, ngoại trú của người
có thẻ BHYT ngày càng được nâng cao.

III.

Tư tưởng cơ bản của chế độ trợ cấp ốm đau trong hệ
thống bảo hiểm xã hội Việt Nam:
1. Mục đích:
Ốm đau là 1 hiên tượng phổ biến liên quan đến tất cả mọi người, đặc biệt

là trong điều kiện ô nhiêm môi trường và các bệnh truyền nhiễm có tốc độ lây
lan nhanh như hiện nay, đặc biệt có những căn bệnh được xem như là “bệnh
thế kỉ”, “đại dịch thế kỷ” .. Khi đau ốm sẽ không những suy giảm thể lực và
suy giảm sức lao động, cần có những chi phí chăm sóc y tế, mà còn làm gián
đoạn thu nhậpc ủa người lao động, thậm chí bệnh bị tái phát hay biến chứng
cịn làm nguy hiểm đến tính mạng . Chế độ ốm đau sẽ bù đắp phần nào thu

7



nhập bị mất hoặc bị giảm trong thời gian người tham gia BHXH gặp rủi ro ốm
đau.
Mục đích của chế độ trợ cấp ốm đau là bảo vệ sự mất khả năng lao động
do đau ốm gây ra và dẫn đến làm gián đoạn thu nhập. Chế độ này giúp người
tham gia BHXH nhanh chóng ổn định cuộc sống, từ đó đảm bảo an sinh xã
hội.
2. Nội dung cơ bản:
2.1. Đối tượng áp dụng:
Là NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc quy định tại Luật
BHXH, trừ đối tượng là hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan,
chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người làm việc có thời hạn ở
nước ngoài.
2.2 Điều kiện hưởng:
NLĐ bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y
tế theo quy định, trừ trường hợp tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoặc sử
dụng ma túy, chất gây nghiện khác; con dưới bảy tuổi bị ốm đau, phải nghỉ
việc để chăm sóc con và có xác nhận của cơ sở y tế theo quy định.
2.3. Thời gian hưởng chế độ:
NLĐ được nghỉ tối đa trong 1 năm tính theo ngày làm việc khơng kể
ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần như sau:
- Làm việc trong điều kiện bình thường: 30 ngày, nếu đóng BHXH dưới
15 năm; 40 ngày, nếu đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày, nếu
đóng BHXH từ 30 năm trở lên.
- Làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nơi có phụ cấp khu
vực hệ số 0,7 trở lên: 40 ngày, nếu đóng BHXH dưới 15 năm; 50 ngày, nếu

8


đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày, nếu đóng BHXH từ 30

năm trở lên.
- Nghỉ chăm sóc con ốm: 20 ngày nếu con dưới 3 tuổi, 15 ngày nếu con
từ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH,
nếu một người đã hết thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia
được hưởng chế độ theo quy định.
Đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công
an nhân dân (sau đây gọi là cán bộ lực lượng vũ trang). Thời gian hưởng chế
độ ốm đau tùy thuộc vào thời gian điều trị tại cơ sở y tế thuộc quân đội nhân
dân và công an nhân dân.
Đối với người lao động bị mắc các bệnh thuộc danh mục cần điều trị dài
ngày (sau đây gọi là người mắc bệnh dài ngày) được nghỉ hưởng trợ cấp ốm
đau tối đa 180 ngày/năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần
(khơng căn cứ thời gian đóng BHXH). Trường hợp hết 180 ngày cịn tiếp tục
điều trị thì được hưởng tiếp chế độ với mức thấp hơn.
2.4. Mức hưởng chế độ ốm đau:
- Mức hưởng đối với người ốm đau bình thường và con ốm đau: bằng
75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Đối
với cán bộ lực lượng vũ trang thì mức hưởng chế độ ốm đau bằng 100% mức
tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
- Mức hưởng đối với người mắc bậnh dài ngày nếu hết 180 ngày cần tiếp
tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ với mức bằng 65% mức tiền lương
đóng BHXH trước khi nghỉ việc nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên; bằng
55% nếu đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 30 năm; bằng 45% nếu đóng

9


BHXH dưới 15 năm. Trường hợp mức hưởng thấp hơn mức lươn tối thiểu

chung thì được tính bằng mức lương tối thiểu chung.
2.5. Trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe:
Người lao động thuộc đối tượng nêu trên, sau thời gian hưởng chế độ ốm
đau theo quy định mà sức khỏe cịn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe từ 5 ngày đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng 1 ngày bằng 25%
mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại gia đình; bằng 40% nếu nghỉ dưỡng
sức, phục hồi sức khỏe tại cơ sở tập trung.
Với quy định về chế độ ốm đau của Luật BHXH nêu trên, so với quy
định hiện nay có một số nội dung thay đổi đó là:
-

Tăng thời gian tối đa hưởng chế độ đối với người có trên 30 năm đóng

BHXH: Làm việc trong điều kiện bình thường được nghỉ 60 ngày (hiện nay là
50 ngày); làm việc điều kiện nặng nhọc, độc hại được nghỉ 70 ngày (hiện nay
là 60 ngày).
- Không khống chế số lượng con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc
để chăm sóc (hiện nay chỉ hưởng trợ cấp đối với con thứ nhất, thứ hai).
- Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH, nếu một người đã
hết thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế
độ theo quy định (hiện nay khơng có quy định).
- Mức hưởng đối với người mắc bệnh dài ngày nếu hết 180 ngày còn
tiếp tục điều trị được hưởng theo 3 mức tùy theo thời gian đóng BHXH và
nếu thấp thì tính bằng mức lương tối thiểu chung.
- Trường hợp nghỉ việc để thực hiện các biện pháp tránh thai thuộc chế độ
trợ cấp thai sản (hiện nay là chế độ ốm đau).Chế độ ốm đau quy định trong Luật
BHXH về cơ bản đã giải quyết được những bất hợp lý và những vấn đề chưa
quy định cụ thể về chế độ ốm đau của Điều lệ BHXH, đồng thời có quy định
tăng quyền lợi hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động tham gia BHXH.
10



3. Đánh giá về chính sách và tổ chức thực hiện các chế độ
BHXH từ khi cải cách đến nay
- Từ 1995 đến nay ở Việt Nam đã thực hiện được ngun tắc BHXH: có
đóng, có hưởng, xố bỏ bao cấp từ Nhà nước về BHXH, phù hợp với mô hình
phân phối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều
tiết của Nhà nước. Quan hệ mức đóng và quyền lợi hưởng đã tuân thủ các
nguyên tắc của hoạt động BHXH trong từng chế độ riêng biệt.
- Phạm vi đối tượng tham gia BHXH từng bước được mở rộng, tạo được
sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh
tế khác nhau, khuyến khích người lao động tự giác thực hiện nghĩa vụ và
quyền lợi BHXH. Tạo được sự an tâm, lịng tin và sự cơng bằng cho mọi
người lao động trong xã hội trước chính sách BHXH.
- Hệ thống BHXH Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa
phương, đã chun mơn hố việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ
BHXH. Do vậy đã tách hoạt động của sự nghiệp thu - chi quản lý quỹ BHXH
ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam có điều kiện để thực
hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt thu - chi BHXH, cải tiến quy
trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước được thống nhất,
kịp thời, công bằng và hiệu quả.
- Quỹ BHXH đã trở thành nguồn quỹ dự phòng rất quan trọng giúp Nhà
nước đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho
người lao động và thực hiện điều tiết xã hội trong lĩnh vực BHXH. Tổng số
tiền sinh lợi của quỹ BHXH qua 9 năm (1997-2005) là 12.000 tỷ đồng. Quỹ
BHXH đã thực sự trở thành nguồn quỹ dự phòng, là sự bảo hành của Nhà
nước đối với người lao động và các tầng lớp dân cư khác trong tiến trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nước nhà.
- Hoạt động của BHXH đã thực sự trở thành một cơng cụ đắc lực một mặt
góp phần ổn định xã hội, nhưng mặt khác lại là công cụ hữu hiệu trong việc

điều tiết xã hội, góp phần tạo ra sự cơng bằng và bình đẳng trong xã hội.
11


IV.

Kết luận
So với lịch sử 80 năm của hệ thống an sinh xã hội thế giới, hệ thống an

sinh xã hội Việt Nam cịn non trẻ nhưng những gì mà Chính phủ và nhân dân
Việt Nam đã và đang thực hiện trong nhiều thập kỷ qua đều hàm chứa nội
dung cơ bản của hệ thống an sinh xã hội bao gồm: Các hoạt động phòng ngừa
rủi ro, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…cả về chiều rộng và
chiều sâu, tăng cường mức độ bao phủ, cải thiện chất lượng dịch vụ, từng
bước mở thêm các hình thức bảo hiểm nhằm bảo đảm an tồn cho người lao
động, phịng ngừa rủi ro. An sinh xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với phát
triển bền vững của nền kinh tế, an sinh xã hội cũng nhằm phát triển các thế hệ
tương lai, thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. An sinh xã hội tốt sẽ thúc đẩy thực
hiện các quyền cơ bản của con người. Các hoạt động trợ giúp thường xuyên
sẽ bảo đảm từng bước được mở rộng đối tượng bao phủ mà quan niệm của
các nước là chương trình trợ cấp “khơng đóng góp, hưu trí khơng đóng góp”
nhưng vẫn tập trung cho những đối tượng khó khăn nhất, bảo đảm cơng bằng
trong các chính sách hỗ trợ, khơng để sót đối tượng nhằm đảm bảo cho mọi
thành viên trong xã hội được bảo vệ về cuộc sống. Đa dạng hoá và linh hoạt
trong các hình thức hỗ trợ- đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đối tượng trên cơ sở
mở rộng sự tham gia của các đối tượng vào các hoạt động trợ giúp. Các hoạt
động trợ giúp đột xuất bảo đảm đến đúng đối tượng, đến kịp thời và đáp ứng
nhu cầu của đối tượng. Linh hoạt trong hoạt động cứu trợ và huy động được
sự tham gia rộng rãi của cộng đồng nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về

Nhà nước.
Hơn 10 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo cơ
chế mới, bằng hoạt động thực tiễn và những kết quả đạt được trên tất cả các
mặt công tác, hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã góp phần khẳng định
12


tính đúng đắn, hiệu quả của việc đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế của Đảng, Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Khẳng định mơ hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế như hiện nay là phù hợp với tiến trình cải cách tổ chức, sắp xếp
bộ máy của Chính phủ.

13



×