Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng lao động Thanh niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.72 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ ­ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC UPSALA – THỤY ĐIỂN
CHƯƠNG TRÌNH THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

 CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
ĐỀ TÀI

Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số
Trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa ­  tỉnh Thanh Hóa
­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­

                                                     Giảng viên hướng dẫn: 

   TS. Nguyễn Mạnh Hùng ­ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
                 GS.TS  Lennart Wikander ­ Trường ĐH Uppsala Thụy Điển
Nhóm hoc viên:
̣
Trương Công Điệp
Lý Trường Yên
Hoàng Tùng
Lơp: MPPM – Intake 4A
́


Hà Nội, tháng 3 năm 2012

MỤC LỤC
1. Mở đầu


2


1.1.Giới thiệu  vấn đề ( bối cảnh chung, tầm quan trọng của vấn đề )
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.3. Cấu trúc luận văn
2.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết 
3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS
3.1. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung 
3.2. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh niên 
DTTS
4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa 
4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa
4.2. Thực trạng học nghề của thanh niên DTTS
4.3. Thực trạng tay nghề qua đào tạo của Thanh niên dân tộc ít người tỉnh Thanh 
Hóa
4.4. Một số chính sách của tỉnh về nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh 
niên DTTS
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hàm số  Mincerian căn bản 
5.2. Phương pháp hàm số  Mincerian mở rộng
6. Nghiên cứu trường hợp huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa
6.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa
6.2. Phân tích số liệu thống kê về thực trạng chất lượng lao động là thanh niên 
DTTS huyện Quan Hóa
6.3. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động là người DTTS 
huyện Quan Hóa
7. Kết Luận và giải pháp
8. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo
9. Tài liệu tham khảo


3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:
Tiến sỹ:
Giáo sư, tiến sỹ:
Dân tộc thiểu số
Thanh niên
Ủy ban nhân dân:
Quyết định
Chính Phủ
Thủ tướng Chính Phủ
Trung Ương
Đoàn Thanh Niên cộng sản Hồ Chí Minh
Nhà Xuất bản
Hợp đồng lao động
Trung   tâm   giáo   dục   thường   xuyên   và   dạy 

TS.
GS.TS.
DTTS
TN
UBND

CP
TTg
TW 
ĐTN CS HCM 
NXB

HĐ LĐ
TT GDTX & DN

nghề

4


TÓM TẮT LUẬN VĂN
1. Tiêu đề (Tên đề tài luận văn):
 Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại 
huyện Quan Hóa ­ tỉnh Thanh Hóa
2. Trình độ:  Bài luận văn chương trình Thạc sĩ Quản lý công
3. Nhóm tác giả: 
­ Trương Công Điệp
­ Hoàng Tùng
­ Lý Trường Yên
4. Giảng viên hướng dẫn: 
TS. Nguyễn Mạnh Hùng ­ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
GS.TS  Lennart Wikander ­ Trường ĐH Uppsala Thụy Điển
5. Ngày tháng hoàn thành: Tháng 3 năm 2012
6. Mục đích: 
Xác định đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động cho Thanh Niên vùng  
DTTS là cần thiết để họ có việc làm hoặc tìm được việc làm cho thu nhập ổn định,  
góp phần xóa đói, giảm nghèo. 
Lý do:
­ Thanh niên DTTS có nhu cầu đào tạo nghề, song chất lượng, số lượng còn  
hạn chế;
5



­ Cơ hội tìm việc làm thấp, thu nhập không cao;
­ Chất lượng lao động thấp do  ảnh hưởng bởi các yếu tố  văn hóa, phong tục 
tập quán và điều kiện địa lý khó khăn, dân trí thấp.
7. Phương pháp nghiên cứu:  
­ Phương pháp hàm số căn bản và mở rộng
­ Phương pháp kế thừa các dữ liệu sẵn có;
­ Phương pháp thống kê trên cơ sở  các báo cáo số liệu tổng hợp thực hiện dạy  
nghề đã được  huyện Quan Hóa phê duyệt năm 2011; 
­ Phương pháp quan sát thực tiễn tại trường dạy nghề của huyện Quan Hóa và 
tình hình việc làm của đối tượng nghiên cứu (TN ­ DTTS).
Nhóm cũng dựa trên một số đề án đã được Ủy ban Nhân dân huyện, Ủy ban Nhân 
dân tỉnh và Quyết định của Chính phủ đã phê duyệt. 
8. Kết quả và kết luận: 
Qua phân tích thực trạng TN DTTS tỉnh Thanh Hóa nói chung và của Huyện Quan 
Hóa nói riêng về  chất lượng lao động và tìm kiếm việc làm cho thấy có nhiều yếu tố 
tác động đến chất lượng lao động, bao gồm cả  yếu tố  nội tại bản thân TN là người  
DTTS là trình độ văn hóa thấp, còn nặng phương thức lao động tự cấp tự túc, thiếu kỹ 
năng và kỷ luật lao động, tự ty dân tộc, các yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến chất  
lượng và quá trình học nghề chưa thành công.
Mặt khác các yếu tố về môi trường đào tạo, kinh phí dành cho đào tạo nghề vùng  
DTTS còn hạn chế; công tác vận động tuyên truyền chưa sâu rộng tới người lao động,  
làm cho họ chưa nhận thức được việc lao động có kỹ năng, được đào tạo cho thu nhập  
cao hơn lao động tự do, không có kỹ năng nghề; Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư nhiều hơn  
để  khuyến khích TN tham gia học nghề và tham gia tổ  chức Đoàn hội góp phần củng  
cố và giữ vững, ổn định hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người  
dân vùng dân tộc thiểu số.
6



9. Đề xuất cho nghiên cứu tương lai:  
Nếu có điều kiện nhóm sẽ tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu sâu hơn, trực tiếp hơn để 
kiến nghị  đề  xuất với Nhà nước tăng cường hỗ  trợ  cho TN DTTS học nghề, nâng cao  
chất lượng lao động nói chung, kỹ năng nghề cho TN DTTS nói riêng, để  họ vươn lên  
xóa đói giảm nghèo nhanh, bền vững ở vùng dân tộc miền núi.
10. Đóng góp của luận văn: 
Nhóm hy vọng sẽ có nhiều bạn trẻ là TN DTTS quan tâm đến vấn đề  nhóm đã 
nghiên cứu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế về chất lượng lao động là TN DTTS. Từ  đó  
họ  nỗ  lực và cố  gắng hơn học tập, rèn luyện kỹ  năng cho bản thân và tích cực tuyên  
truyền về học nghề, thực hiện tốt kỷ luật lao động, xóa bỏ  tập tục lạc hậu, tiếp cận  
học nghề mới đáp ứng nhu cầu thị trường, tìm được việc làm cho thu nhập ổn định và  
thoát nghèo nhanh chóng, bền vững.
11. Ý chính: 
Nâng cao chất lượng lao động cho Thanh niên dân tộc thiểu số  là vấn đề  mà 
đề tài hướng vào làm đối tượng nghiên cứu chính.

7


1. Mở đầu
1.1. Giới thiệu vấn đề  
Trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiếu số 
(DTTS) và miền núi những năm qua cơ bản đã từng bước được cải thiện. Đối với vùng  
đồng bào miền núi tỉnh Thanh Hóa tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% năm 2005 ­ xuống còn 
42,73% năm 2011 (7 huyện nghèo vẫn ở mức cao 50,67%). Tuy nhiên, trước thách thức 
có nguy cơ  tái nghèo  ở  7 huyện thuộc Nghị  quyết 30a về đầu tư  cho 62 huyện nghèo 
nhất nước; Thanh Hóa có 7 huyện đều thuộc vùng dân tộc miền núi, trong đó huyện 
Quan Hóa là một trong huyện nghèo có tỷ  lệ  hộ  nghèo cao 51,01% năm 2011. Nguyên  
nhân là người dân chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, dân trí thấp, lao 
động không có tay nghề  và thiếu việc làm vào những tháng nhàn rỗi mùa vụ  hoặc có  

việc làm nhưng thu nhập thấp... Đặc biệt là Thanh Niên, tuy có sức lao động nhưng lại 
không có công việc thường xuyên để tạo ra thu nhập cho gia đình và bản thân, trình độ 
học vấn đa số  hết tiểu học, họ  có nhu cầu học nghề  nhưng chưa biết về trường lớp  
đào tạo nghề hoặc chưa có sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền. 
Xác định đào tạo nghề  cho Thanh Niên vùng DTTS là cần thiết để  họ  có việc 
làm hoặc tìm được việc làm cho thu nhập  ổn định, góp phần xóa đói, giảm nghèo.  
Chúng tôi thấy rằng cần thiết phải chọn đề tài nghiên cứu "Chất lượng lao động Thanh  
Niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa ­  tỉnh Thanh Hóa". 
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Các yếu tố  quan trọng quyết định chất lượng của lao động trẻ  trong các nhóm  
dân tộc thiểu số là gì?
Mục tiêu nghiên cứu

8


Luận văn này là để  khám phá những yếu tố  quan trọng  ảnh hưởng đến chất 
lượng lao động trẻ  trong các nhóm dân tộc thiểu số từ các nghiên cứu trường hợp của 
Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đặc biệt, nó là để  kiểm tra vai trò của đào tạo nghề  nâng 
cao chất lượng lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số.
1.3. Cấu trúc luận văn
Được chia làm 5 phần chính và 7 tiểu mục, phần mở  đầu gồm các nội dung: lý  
do chọn đề tài, câu hỏi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu;
Phần thứ hai là khung khổ lý thuyết, tổng quan tài liệu nghiên cứu, tổng quan về 
lao động, việc làm tỉnh Thanh Hóa, những chính sách của Đảng và Nhà nước nâng cao  
chất lượng lao động nói chung và chất lượng lao động là Thanh Niên dân tộc thiểu số 
nói riêng;
Phần thứ ba là trường hợp nghiên cứu chất lượng lao động là Thanh niên DTTS  
tại huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa: thực trạng, những nhân tố   ảnh hưởng đến chất 

lượng lao động và chính sách của Nhà nước dành cho Thanh niên DTTS;
Phần thứ tư là phương pháp nghiên cứu;
Cuối cùng là kết luận và một số kiến nghị về giải pháp nâng cao chất lượng lao  
động Thanh Niên dân tộc thiểu số.
2.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết
Lý thuyết về chất lượng lao động 
Vốn con người 
Adam Smith có thể là nhà kinh tế học đầu tiên phát triển khái niệm về vốn con  
người là đạt được những khả năng hữu ích của người dân hoặc thành viên trong xã hội. 
Việc đạt được những tài năng thông qua giáo dục, học tập hoặc học nghề, thường mất  
một khoản chi phí thực thế, là vốn cố  định và được thực hiện trong cá nhân đó. Tay 
nghề  của công nhân được nâng cao có thể  được xem như  một máy móc hoặc công cụ 
trong nghề tạo điều kiện dễ dàng và giảm bớt sức lao động. Và thông qua đó nó có giá  
9


là một khoản chi phí nhất đinh, hoàn lại khoản chi phí đó bằng lợi nhuận. Nói một cách 
ngắn gọn, Adam Smith đã khẳng định vốn con người là kỹ  năng, sự  khéo léo trong tay  
nghề (thể chất, trí tuệ, tâm lý, …), và phán đoán. 
Trong một công bố  tài chính vào năm 1928, Arthur Cecil Pigou đã tìm cách định  
nghĩa rõ hơn thuật ngữ “vốn con người” bằng sự so sánh giữa vốn con người và sự đầu 
tư  vật chất. Tuy nhiên, khái niệm được biết đến nhiều nhất về  “vốn con người” đã  
thuộc về Jacob Mincer and Gary Becker của Trường Kinh tế Chicago. Đặc biệt là, trong  
cuốn sách của Becker có tựa đề Vốn Con Người, xuất bản vào năm 1964, đã trở  thành 
một tham chiếu tiêu chuẩn trong nhiều năm. Theo quan niệm của cuốn sách này, vốn  
con người tương tự  như  "phương tiện vật chất để  sản xuất”, ví dụ  nhà máy và máy  
móc: một người có thể  đầu tư  vào vốn  người (thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc  
sức khoẻ) và kết quả  của sự  đầu tư  đó phụ  thuộc một phần vào tỉ  lệ  mang lại cho  
người đó về  vốn con người. Vốn con người có thể  thay thế  được, những không thể 
chuyển nhượng lại  được giống như  đất đai, lao  động, hoặc vốn cố   định   (Becker, 

1964). 
Khái niệm vốn con người cũng có thể tìm thấy trong nhiều công trình nghiên cứu  
hiện đại. Ví dụ, Hersch (1991) nói rõ rằng vốn con người là đề  cập đến kinh nghiệm  
làm việc và giáo dục, trong đó vốn làm việc được xác định bằng số  năm kinh nghiệm 
làm việc chính thức và giáo dục chính thức được tính bằng năm. Hỗ trợ cho quan điểm 
này,  Jacobsen (1998) nhấn mạnh rằng bất kỳ thứ gì tạo ra năng suất lao động cao hơn,  
bao gồm giáo dục và đào tạo, sức khoẻ thể chất, được xem là vốn con người. Trong các  
bài viết và nghiên cứu của Ngân hàng Thế  Giới, vốn con người được định nghĩa là các  
kỹ năng và năng lực được hợp nhất vào con người (World Bank 1995).
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều mô tả  vốn con người là: khả  năng, trình 
độ, kinh nghiệm và kiến thức đạt được thông qua giáo dục chính thức và những kỹ 
năng và kiến thức chuyên môn đạt được trong quá trình đào tạo.
Năng suất lao động 

10


Samuel­ son và Nordhaus định nghĩa năng suất lao động là toàn bộ  đầu ra được  
phân chia bởi các đầu vào lao động (Koch and McGrath 1996). Theo Tổ chức Hợp Tác  
và Phát Triển Kinh Tế  (OECD), năng suất lao động  được định nghĩa là  "Tỉ lệ của một  
số đo số lượng đầu ra với số đo số lượng đầu vào” (2001) tổng giá trị  gia tăng (GVA).  
Horowitz và Sherman (1980) lại đề  cập đến năng suất lao động được xác định bởi thu 
nhập đồng thời và số  đo vật chất  (ví dụ  tình trạng thiết bị). Năng suất lao động xác  
định sẽ thay đổi như một chức năng của tổng hệ số năng suất. 
Sản lượng của mỗi công nhân tương ứng với “sản phẩm lao động trung bình” và 
có thể đối lập với sản phẩm lao động biên tế. Sản phẩm lao động biên tế liên quan đến  
việc tăng sản lượng do việc tăng đầu vào lao động biên tế.  Năng suất lao động có thể 
được xác định theo các phương diện vật chất hoặc phương diện giá cả.
Trong khi sản lượng tạo ra thông thường có thể xác định trong khu vực tư nhân,  
rất khó xác định nó trong khu vực nhà nước hoặc các tổ chức phi chính phủ. Có thể khó  

xác định đầu vào hơn theo một cách không thiên lệch ngay khi chúng ta đi chệnh khỏi ý  
tưởng về lao động đồng nhất ("trên mỗi công nhân” hoặc "trên mỗi giờ lao động"): 


Cường độ nỗ lực lao động, và chất lượng của nỗ lực lao động nói chung.



Hoạt động sáng tạo liên quan đến việc tạo ra cải tiến kỹ thuật.



Các lợi ích về hiệu suất liên quan do các hệ thống quản lý, tổ  chức, điều 
phối và kỹ thuật khác nhau.



Các tác động đến năng suất của một số hình thức lao động lên một số hình  
thức lao động khác.

Những phương diện về  năng suất này liên quan đến định tính, chứ  không phải 
định lượng, các quy mô đầu vào lao động. Nếu bạn cho rằng một công ty/một nước 
đang sử dụng lao động cường độ cao hơn nhiều, bạn có thể không muốn nói rằng điều  
này là do năng suất lao động của công ty đó/nước đó cao hơn. Quan điểm này trở  nên 
đặc biệt quan trọng khi một phần lớn những gì được tạo ra trong một nền kinh tế chỉ 
bao gồm dịch vụ. Ban quản lý có thể  rất quan tâm đến năng suất lao động của công 
11


nhân, song chính bản thân ban quản lý lại rất khó chứng minh được những hiệu quả về 

nâng suất. Kiến thức chuyên ngành về  quản lý hiện đại nhấn mạnh tác dụng quan  
trọng của văn hoá công việc tổng thể hoặc văn hoá tổ  chức của doanh nghiệp. Nhưng  
một lần nữa có thể không chứng minh được các ảnh hưởng cụ thể của bất kỳ một văn  
hoá cụ thể nào về năng suất.
Xét về  các phương diện kinh tế  vĩ mô, việc kiểm soát giờ  làm việc (tức là thể 
hiện năng suất lao động của mỗi giờ làm việc) phải đưa ra một thống kê về năng suất  
có thể sẵn sàng so sánh được, nhưng điều này thường không được thực hiện do tính tin 
cậy của số  liệu về số giờ làm việc. Ví dụ, Mỹ  và Anh  không có số  giờ  làm việc dài  
hơn Châu Âu ­ nếu không được tính đến thì điều này sẽ  làm cho các con số  về  năng 
suất trong những nước này tăng lên. Khi so sánh về thống kê năng suất lao động của các 
nước, cần phải xem xét vấn đề về tỉ giá hối đoái bởi vì những khác biệt trong việc tính  
toán sản lượng như thế nào trong các nước khác nhau, rõ ràng và hiển nhiên là các vấn  
đề này liên quan đến việc quy đổi các đơn vị tiền tệ khác nhau ra một cơ sở tiêu chuẩn.
Các hệ  số tác động đến năng suất lao động hoặc hiệu quả  của các vai trò công  
việc cá nhân là cùng một loại chung với những hệ số tác động đến hiệu quả  của các  
công ty sản xuất như một tổng thể. Chúng bao gồm:
(1) điều kiện vật chất, địa điểm, vật lý ­hữu cơ của thiết bị  và các yếu tố  công 
nghệ; 
(2) các yếu tố giá trị niềm tin văn hoá, thái độ cá nhân, động cơ và hành vi; 
(3) những  ảnh hưởng quốc tế  tức là các mức độ  cải tiến và hiệu suất về  phía  
các chủ lao động và người quản lý của các công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước; 
(4) môi trường quản lý ­ tổ  chức và môi trường kinh tế  rộng lớn hơn và môi 
trường chính trị­ pháp luật; 
(5) các mức độ  linh hoạt của thị  trường lao động nội địa và các tổ  chức hoạt  
động lao động  – ví dụ sự có mặt của các rào cản và đường phân ranh giới nghề truyền  
thống đối với việc tham gia nghề;  
12


(6) các hệ thống tiền công và tiền thưởng cá nhân, và hiệu quả của các nhân viên  

quản lý nhân sự  và những người khác trong tuyển dụng, đào tạo, thông báo, và người  
lao động thúc đầy  hiệu quả trên cơ sở tiền công và những khích lệ khác.
Chất lượng lao động 
Có nhiều cách khác nhau để  định nghĩa chất lượng lao động. Đã từ  lâu, theo lý  
thuyết về Vốn Con Người, kiến thức giáo dục và những kỹ năng kỹ thuật đã là hai đại  
diện về  chất lượng của sức lao động. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng lao động đã 
được liên tục phát triển để phản ánh những thay đổi trong nền kinh tế và xã hội. Năm 
1966, trong cuốn sách “chất lượng lao động và phát triển kinh tế tại một số nước: Một 
công trình nghiên cứu  sơ bộ”, Galenson và Pyatt đã đề xuất rằng chất lượng lao động  
được xác định bởi trình độ  giáo dục, sức khoẻ, chỗ  ở  và an sinh xã hội. Trình độ  giáo  
dục được xác định thông qua việc tuyển sinh vào trường học, bao gồm tỉ lệ phần trăm  
của nhóm có độ tuổi tương ứng trong trường tiểu học, cơ sở, dạy nghề và đại học; sức  
khoẻ được xác định về  các phương diện như: tỷ  lệ tử vong  ở trẻ em, số dân trên một  
bác sỹ và trên một giường bệnh, tỉ lệ nạp calorice trên đầu người; nhà ở được xác định 
theo chỗ ở trên đầu người và tỉ lệ đầu tư  vào nhà ở trên tổng sản phẩm quốc dân và an  
sinh xã hội được xác định bằng tỉ số trợ cấp trên thu nhập quốc dân và chi phí an sinh xã 
hội trung bình trên đầu người.
Để hỗ trợ cho những yếu tố trên, theo VIT­CORP (2008), Có một số tiêu chí mà  
Ngân Hàng Thế  Giới khuyến cáo trong nhiều vấn đề  khác nhau của các Chỉ  Số  Phát  
Triển Thế  Giới để  đánh giá chất lượng lao động, như  hệ  thống giáo dục và công tác  
đào tạo nguồn nhân lực; tính  sẵn có của nguồn lao động cũng như các nhà quản lý hành 
chính có chất lượng và trình độ giáo dục cao; và sự  thành thục tiếng Anh, kỹ thuật, và  
công nghệ tiên tiến trong khi Ward (1997) lập luận rằng trong các mô hình tổ chức sản  
xuất mới, chất lượng lao động vượt xa kiến thức giáo dục và các kỹ  năng kỹ  thuật.  
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, một số phương diện xã hội của lao động đã trở 
nên phổ  biến hơn trong việc đánh giá sức lao động trong công ty. San và các cộng sự 
(2006) đã hợp nhất 7 yếu tố chính, là (i) giáo dục, (ii) đào tạo, (iii) năng suất lao động,  
13



(iv) những thay đổi trong cơ  cấu sức lao động, (v) an toàn và sức khoẻ, (vi) đạo đức 
công việc và các mối quan hệ công nghiệp, (vii) các mô hình quản lý lao động và chất 
lượng nghề nghiệp của người lao động để tạo ra chất lượng chỉ số lao động trong các 
công nhân ngành sản xuất của Đài Loan.
3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS
3.1. Những chính sách cải thiện chất lượng nguồn nhân lực nói chung
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm nâng cao  
chất lượng nguồn nhân lực như là:  Chính sách cử tuyển con em là đồng bào dân tộc vào 
học tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước; Chính  
sách hỗ trợ con em đồng bào dân tộc thiểu số vào học các trường nội trú từ THCS đến  
THPT và trường dự  bị  đại học dân tộc Trung  ương  ở  3 khu vực miền Bắc ­ Trung ­  
Nam. Từ năm 2009 có đề án 65/CP về đào tạo cán bộ công chức nguồn lãnh đạo quản  
lý cho giai đoạn 2011 ­ 2015 và định hướng đến 2020; Chính sách đào tạo nâng cao năng  
lực cán bộ  quản lý các cấp vùng DTTS thuộc  chương trình thực hiện Quyết  định:  
135/1998/QĐ ­ TTg;  Đề án 1956/CP về đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo 
nghề cho lao động thuộc hộ nghèo theo Nghị Quyết 30/CP. 
Nghị  quyết Hội nghị  lần thứ  7 BCH TƯ  Đảng khóa X về" tăng cường sự  lãnh  
đạo của Đảng đối với công tác Thanh Niên thời kỳ đẩy mạnh CNH ­ HĐH và chương 
trình hành động thực  hiện NQ  của BCH  Đảng bộ  tỉnh Thanh Hóa; Quyết  định số: 
103/2008/QĐ ­ TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án  
hỗ trợ TN học nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 ­ 2015; Quyết định số; 1956/2009/QĐ 
­ TTg ngày 27/11/2009 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc đào tạo nghề  cho lao động 
nông thôn;
Quyết định số: 1216/2011/QĐ ­ TTg Ngày 22/7/2011 của thủ  tướng Chính phủ 
phê duyệt qui hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giao đoạn 2011 ­ 2020 và qui hoạch 
phát triển nguồn nhân lực tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 ­ 2020.  

14



Phó Thủ  tướng Chính phủ  Nguyễn Sinh Hùng nói:  Ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh  
công tác giáo dục­ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần thực hiện tốt  
công tác đào tạo nghề  cho lao động nông thôn để  chuyển đổi lao động sang lĩnh vực  
công nghiệp, dịch vụ  và đào tạo, nâng cao trình độ  cho nông dân thông qua khuyến  
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật,  ứng dụng công nghệ trong nông  
nghiệp. Đặc biệt quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng trường lớp học,  
đồng thời, tăng chất lượng đội ngũ giáo viên và các trường đạt chuẩn quốc gia. Tiếp  
tục chăm lo, đào tạo và đổi mới công tác cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản  
lý các cấp, các ngành, xem đây là một khâu quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ 
Đảng bộ đề ra trong thời gian tới. 
Đại bộ  phận dân đang sống  ở  nông thôn và là nông dân. Diện tích có hạn và 
nguồn lực nằm  ở  đấy nếu chỉ  tập trung vào nông nghiệp thôi thì thu nhập không thể 
cao được. Cho nên chúng ta phải chuyển một bộ phận lớn lao động. Từ nông thôn sang  
làm các ngành công nghiệp, chuyển một bộ  phận lớn hơn từ  nông thôn sang làm các 
ngành dịch vụ. Đấy là ngành phát triển với một cơ cấu kỹ thuật có chất lượng, có năng  
suất và có thu nhập cao hơn. Muốn chuyển được như vậy thì dứt khoát phải đào tạo. 3 
người lao động ở nông thôn phải đào tạo cả 3: 1 người làm nông nghiệp, 1 người làm  
dịch vụ  và 1 người làm công nghiệp. Có như  vậy thì mới chuyển đổi cơ  cấu kinh tế 
thành công được. Và mới tạo ra được một lực lượng lao động mới trong 2 năm tới, 5  
năm tới, 10 năm tới có chất lượng cao hơn, năng suất cao hơn, thu nhập cao hơn1.
3.2.  Các  chủ  trương,  chính sách nâng  cao chất lượng  nguồn  lao  động là  
thanh niên DTTS
Khái niệm dân tộc thiểu số được hiểu là: dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít, 
chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về  lượng dân số  trong một quốc gia đa  
dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị  tương quan so  
sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới.
 Báo Vĩnh Long online ngày 05/2/2012 trích bài phát biểu của Phó thủ Tướng Nguyễn Sinh 

1


Hùng
15


Căn cứ vào tình hình thực tiễn về công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho  
TN là đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề còn nhiều hạn chế và bất cập, cơ 
chế chính sách thiếu đồng bộ, nên chưa nhận được sự  quan tâm của nhiều thành phần  
xã hội tham gia mà chủ  yếu là Nhà nước đầu tư; chi Ngân sách cho dạy nghề  dài hạn 
mới đạt 50% nhu cầu, hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, bộ  đội xuất 
ngũ, Thanh niên DTTS mới đáp  ứng khoảng 25% số  lượng hàng năm, chủ  yếu là các 
nghề đơn giản, phổ thông; Nhà nước Việt Nam xác định giải quyết việc làm cho thanh 
niên và TN DTTS là vấn đề bức xúc của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Vì   vậy,   năm   2009,   Chính   Phủ   ra  Quyết   định   số   1956/2009/QĐ­TTg   ngày 
27/11/2009  về  việc phê duyệt đề  án “Đào tạo nghề  cho lao động nông thôn đến năm  
2020”; trong đó dân tộc thiểu số được coi là đối tượng số 1, được ưu tiên học nghề  và 
có hỗ  trợ  kinh phí học nghề  cũng như  giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp; Trong  
Quyết định 135 giai đoạn II (2006 ­ 2010) của Chính Phủ dành riêng một hợp phần cho  
đào tạo nghề ngắn hạn hàng năm dành đối tượng Thanh niên là người dân tộc thiểu số.  
Quyết định số: 103/2008/QĐ ­ TTg ngày 21/7/2008 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc 
phê duyệt đề án hỗ trợ TN học nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 ­ 2015.
Nghị  Quyết số: 24/NQ/TW ngày 12/3/2003 nhấn mạnh "...ở nhiều vùng dân tộc  
miền núi tỷ  lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung cả nước , khoảng cách chênh 
lệc về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng tăng, chất lượng, hiệu quả 
giáo dục và đào tạo còn thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, công tác chăm sóc  
sức khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xã còn nhiều khó khăn...."; 
4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa 
4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa   có   11 huyện  miền  núi có   7 dân tộc  cùng sinh  sống gồm:   Người  
Mường, Thái, Thổ, Dao, mông, Khơ mú và Kinh
Dân tộc Mường  ở  Thanh Hóa sống chủ  yếu tập trung  ở  các huyện Cẩm Thủy,  

Thạch Thành và Ngọc Lặc, người Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt ­ Mường nên họ 
16


sống gần vùng đồng bằng đồi núi thấp, họ sản xuất bằng trồng lúa nước, ngành nghề 
chính là thủ công có nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát. Có thể khái quát đời sống sinh hoạt 
của người Mường là "Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày tiến, năm lui" có nghĩa  
là: cơm thì đồ bằng chõ để gạo chín bằng hơi nước, nhà thì làm nhà sàn, nước thường 
được đựng vào  ống cây bương, cây luồng để  dùng ăn uống, thịt lợn được nướng trên 
bếp lửa cho chín bằng than củi, cách tính ngày tháng được tính theo sao trên trời thường 
là chòm sao tua rua đi qua mặt trăng... Chỉ  có dân tộc Mường mới có đẩy đủ  các đặc 
điểm trên. 
Dân tộc Thái sống chủ  yếu  ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn và huyện Mường 
Lát, Người Thái cũng có nghề  trồng lúa nước và lúa nương và được đúc kết như  câu 
thành ngữ  "Mương ­ Phai ­ Lái ­ Lin" tức là khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật  
chướng ngại, đặt máng trên các cánh đồng thung lũng. Họ  làm ruộng cấy một vụ  lúa  
nếp, hiện nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu,  
cây thực phẩm và đặc biệt là cây bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải, làm gốm; 
dệt thổ cẩm là nghề và là một trong những mặt hàng truyền thống độc đáo. 
Người Mông  ở  Thanh Hóa có khoảng 14.000 người, chủ  yếu sống  ở  vùng núi 
cao các Huyện Mường Lát, Quan Hóa và Quan Sơn, sản xuất chính là trồng lúa nương 
và ruộng bậc thang, trồng ngô, cây đay để dệt thành sản phẩm vải lanh, vải đũi, nghề 
rèn cũng là nghề truyền thống của người Mông. Song họ có tập tục sống du canh, du cư 
nên họ  sống tạm bợ  từ  nhà cửa cho đến đồ  dùng sinh hoạt, Nhà nước rất khó khăn 
trong đầu tư xây dựng để ổn định cuộc sống của họ.
Các dân tộc Dao, Thổ và Khơ mú ở Thanh Hóa chiếm tỷ lệ khoảng < 10% / tổng 
số người DTTS (khoảng 650.000 người), về phong tục, tập tục có ảnh hưởng lớn của 
người Mường, Thái và người Kinh2.
Nói chung người DTTS đều chăm chỉ và khéo léo trong sinh hoạt và ứng xử trong 
cuộc sống, đời sống tinh thần phong phú và các lễ  hội văn hóa đặc sắc đậm đà chất 

 Công tác đoàn kết, tập hợp TN các DTTS tr 90, 105 và 106 của TW ĐTN CS HCM ­ NXB 

2

Thanh Niên.
17


hoang dã của núi rừng, chính vì vậy mà họ  thường thích sống tự  do, ít kỷ  luật, khuôn  
phép và thường thì họ  bằng lòng với cuộc sống khó khăn về  vật chất cộng với hiểu  
biết còn hạn chế.
* Đặc điểm của Thanh niên DTTS: Thanh niên DTTS chiếm khoảng 13% tổng số 
TN toàn tỉnh. Trình độ văn  hóa, đạo đức, nếp sống của TN ngày càng chuyển biến tích 
cực và có nhiều tiến bộ. TN DTTS ngày càng có nhiều cố gắng trong học tập nâng cao 
trình độ học vấn, kiến thức khoa học kỹ thuật, số cán bộ có bằng đại học, thạc sỹ ngày 
càng tăng . Tuy nhiên, trình độ  chuyên môn kỹ  thuật của TN DTTS còn thấp hơn mặt 
bằng chung của tỉnh.
Về lao động, việc làm và nghề  nghiệp, phần lớn là TN các DTTS chịu khó, cần 
cù, song tiếp xúc với kinh tế  thị  trường còn chậm, đa số  họ  có việc làm nhưng chất 
lượng, năng suất lao động không cao. Cùng với dân tộc của họ, họ sinh sống chủ yếu ở 
vùng biên giới rừng núi, vùng sâu, vùng xa; giao thông đi lại khó khăn;  ở  rải rác. Đời 
sống tinh thần, vật chất của TN DTTS còn nhiều thiếu thốn, khó khăn; họ mong muốn  
đời sống ổn định, không còn đói nghèo. TN DTTS bị ràng buộc bởi nhiều phong tục lạc  
hậu nhất là tang ma, cưới hỏi, tín ngưỡng truyền thống, bản địa. Họ  có nhu cầu giao 
lưu văn hóa, hoạt động tập thể, tiếp cận với phương tiện hiện đại, giữ gìn bản sắc văn  
hóa truyền thống của dân tộc họ. 
Tuy nhiên, họ nặng tâm lý tự ty, một số ỷ lại chính sách Nhà nước, không muốn 
tự học hỏi vươn lên hoặc tự thỏa mãn với cuốc sống hiện tại3.
Dân số trung bình năm 2011 ước 3.411,2 nghìn người, tăng 4,4 nghìn người so với  
năm 2010, tốc độ  tăng dân số  0,13%; tỷ  lệ  sinh 14,4%o, tỷ lệ chết 7,4%o, tỷ  lệ tăng tự 

nhiên 7,0%o và mức giảm sinh 0,1%o. 9 tháng năm 2011 đã sắp xếp 44,6 nghìn lao động có  
việc làm mới, đạt 78,2% kế hoạch (trong đó xuất khẩu lao động 6. 820 người) và cả năm  
giải quyết được 57 nghìn lao động có việc làm mới, đạt 100% kế  hoạch. Tổng kinh phí  
năm 2011 là 44.820 triệu đồng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn tỉnh 9 tháng năm 2011 đạt 
43,0%, tăng 6,0% so với năm 2010. Trong  đó Thanh niên độ  tuổi từ  16 ­ 30 khoảng 
 Sđd trang 120 – 121.

3

18


1.027.000 người chiếm 30% dân số; chiếm 46% số người trong độ tuổi lao động của tỉnh.  
Khu vực miền núi, nơi tập trung chủ yếu của đồng bào DTTS có dân số 1,1 triệu người,  
lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 65%4.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo tìm được việc làm đúng nghề chỉ đạt 80, 2%  
trên tổng số lao động được đào tạo;  Trong đó: Ngành nông nghiệp đạt 90%, Công nghiệp 
đạt 80% và dịch vụ đạt 75%. 
Đối với những người có việc làm mới sau khi hoàn thành khóa học tìm được việc 
làm trực tiếp tại doanh nghiệp đã cam kết tạo việc làm đạt 2.756/44.600 người;  sản  
xuất tại gia đình, doanh nghiệp 4.932/44.600 người, chủ  yếu là cung cấp nguyên vật 
liệu và thu mua, bao tiêu sản phẩm đối với các nghề  mây giang xiên, thêu ren ­ đính  
cườm, dệt chiếu.
Sau học nghề, người lao động được làm nghề  và thu nhập bình quân từ  40 ­ 90  
ngàn đồng/ngày, góp phần cải thiện đời sống. So với trước khi học nghề, người lao  
động ngoài việc trồng trọt, chăn nuôi tạo ra nguồn thu nhập chính, thì có thể  sử  dụng  
thời gian nông nhàn làm nghề phụ để tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Đối với những người tiếp tục sản xuất, kinh doanh như trước khi học nghề
Người lao động sau học nghề đã áp dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật vào  
sản xuất, nâng cao năng suất lao động đối với nghề  kỹ  thuật trồng lúa cao sản. Với  

việc áp dụng kỹ thuật cấy lúa đã tiết kiệm công lao động, giống và hạn chế được sâu  
bệnh hại. Nâng cao hiệu quả trong sản xuất lúa. So với phương pháp trồng lúa truyền 
thống, phương pháp mới giảm chi phí giống từ  150.000 đồng/sào xuống còn 120.000  
đồng/sào;   giảm   công   cấy   từ   200.000   đồng/sào   xuống   còn   150.000   đồng/sào;   giảm 
lượng thuốc bảo vệ thực vật từ 350.000 đồng/sào xuống còn 150.000 đồng/sào; lượng  
phân bón không đổi; năng suất tăng từ 54 tạ/ha lên 59 tạ/ha (đối với vụ mùa).
 Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số: 1956/QĐ ­ TTg năm 2011 của Sở Lao động TBXH  

4

tỉnh Thanh Hóa. 

19


Về Khả năng nhân rộng của các mô hình dạy nghề ở địa phương
Đối với nghề  Kỹ  thuật trồng lúa cao sản trước mắt có thể  nhân rộng  ở  tất cả 
các xã thuộc huyện Thọ Xuân là huyện trọng điểm lúa của tỉnh Thanh Hóa.
Đối với nghề dệt chiếu cói có thể  nhân rộng để  duy trì và phát triển làng nghề 
truyền thống ở huyện Nga Sơn. Nghề mây giang xiên có thể nhân rộng ở huyện Thiệu  
Hóa, Yên Định, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Hậu Lộc... Nghề  thêu ren­đính cườm có  
thể   nhân   rộng   ở   các   huyện   Thọ   Xuân,   Quảng   Xương,   Nông   Cống,   Quan   Hóa,   Bá  
Thước, Thường Xuân...
4.2. Thực trạng học nghề của Thanh niên dân tộc thiểu số:
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, những năm gần đây tỷ 
lệ   TN   DTTS   tham   gia   vào   các   lớp   học   nghề   tăng   lên   đáng   kể   khoảng   trên   2000 
người/năm, tập trung chủ  yếu các ngành nghề  ngắn hạn 3 ­ 6 tháng, các nghề  khác có  
thời gian đào tạo 18 tháng trở  lên có rất ít. Tuy nhiên, tình trạng học nghề xong nhưng  
không tự  kiếm được việc làm chiếm đến 20%, số  còn lại 80% chủ  yếu tập trung vào 
ngành nông nghiệp vốn cho sản phẩm với thu nhập thấp, chưa đủ  để  góp phần giảm  

nghèo cho hộ gia đình TN DTTS. Mặt khác, những TN DTTS học nghề trồng trọt, chăn  
nuôi sau mùa vụ  thường ly hương để  kiếm việc làm phổ  thông  ở  các tỉnh khác, tỷ  lệ 
này chiếm đến 40% trên tổng số TN DTTS toàn vùng 11 huyện miền núi.
4.3. Một số  chính sách của tỉnh Thanh Hóa về  nâng cao chất lượng nguồn  
lao động là thanh niên dân tộc thiểu số.
Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề  và giới thiệu việc làm cho thanh niên, 
UBND tỉnh Thanh Hóa có công văn gửi Trung  ương Đoàn về  việc xin thành lập trung 
tâm hướng nghiệp, dạy nghề  và giới thiệu việc làm cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa và 
được chấp nhận tại quyết định số: 385/QĐ ­ TƯ/ĐTN ngày 31/10/2008 của Ban bí thư 
TW Đoàn.
Chính sách cử  tuyển con em là đồng bào dân tộc vào học tại trường Đại học  
Hồng Đức, trường Cao đẳng Y tế; Chính sách hỗ trợ con em đồng bào dân tộc thiểu số 
20


vào học các trường nội trú từ THCS đến THPT và Trường dự bị Đại học Dân tộc Trung  
ương có trụ  sở  tại Thị  xã Sầm Sơn; Chính sách đào tạo nghề  ngắn hạn 3 tháng thuộc  
chương trình 135/ QĐ ­TTg giai đoạn II ( 2005 ­ 2010, đào tạo được 362 học viên, kinh  
phí 2.958 triệu đồng. Ngoài ra Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh có đề án đào tạo nghề cho phụ 
nữ  toàn tỉnh, trong đó vùng dân tộc thiểu số  có 11 huyện đạt tỷ  lệ  30% phụ  nữ  được 
học các nghề thủ công ­ mỹ nghệ: đan cót, dệt thổ cầm, mây giang xiên.....v..v... Đề án 
dạy nghề  cho nông thôn bao gồm các nghề  may công nghiệp, kỹ  thuật trồng trọt, kỹ 
thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm, dệt thổ cẩm...v...v.... Tùy từng địa phương và cam kết  
các doanh nghiệp để đào tạo nghề cho phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp hàm số Mincerian căn bản 
  “Hàm số  thu nhập vốn con người” (HCEF) lần  đầu tiên được phát triển tại 
Chiswick và Becker (1966) và mở  rộng bao gồm cả   đào tạo tại chức trong Mincer  
(1974).   Một phần lớn thuật ngữ  “đào tạo tại chức” gắn với việc học tập từ  kinh  
nghiệm. Mincer (1974) đã trình bày rằng tại Mỹ, thu nhập tương quan chặt chẽ hơn với  

số  năm kinh nghiệm làm việc. Ngoài ra, Mincer (1974) còn phát triển nhân tố  căn bản 
này trong dạng thức bậc hai tiêu chuẩn của biến số kinh nghiệm EXP2. Các số đo của 
lao động hoặc cung cấp   lao động (số  giờ  làm việc mỗi tuần hoặc số  tuần làm việc 
mỗi năm) cũng có thể được hợp nhất thành một phân tích dạng lô­ga. Mô hình phục vụ 
giải thích trên đây có thể được diễn đạt như trong “hàm số thu nhập cơ bản” sau đây:
lnYi =   +  1 Si +  2 EXPi +  3 EXPi2 +  i  
Trong đó Si là số năm học tập của các nhân i, và  EXPi và  EXPi2 là số năm kinh 
nghiệm và bình phương số  năm kinh nghiệm. Trong hàm số  này, hệ  số  năm học tập  
trong trường (β1) có thể được lý giải là lợi suất riêng một năm tăng thêm của việc học  
tập, không kể trình độ học tập. Hệ số số năm học tập trong trường có thể được lý giải 
như lợi suất riêng trung bình của mỗi một năm giáo dục tăng thêm nói chung.

21


5.2. Phương pháp hàm số Mincerian mở rộng
Trên ý tưởng cơ bản là quy hồi một hàm số có lô­ga về tiền công lao động theo  
giờ  như  một biến số  phụ, Hàm số  Mincerian cơ  bản có thể  được phát triển để  hợp 
nhất và định lượng hoá bất kỳ  hệ  số tiềm  ẩn nào với năng suất lao động. Hàm số  cải 
tiến này có thể được diễn đạt là: 
lnYi =   +  1Xi1 +  2Xi2 +  3 Xi3 + .... +  n Xin+   i  
Trong đó, Xi  là các yếu tố quyết định có tiềm năng của năng suất lao động trong  
hồi quy. Xi có thể là bất kỳ biến số nào như  số năm được giáo dục, kinh nghiệm tiềm 
năng, vùng, khu vực, người di cư, sắc tộc, tình trạng hôn nhân hoặc nghề nghiệp,…
Thông qua việc đánh giá ý nghĩa của những biến số  trong hồi quy, ta có thể  so 
sánh và nhận diện những yếu tố nào đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định  
chất lượng của sức lao động.
Đào tạo nghề và chất lượng lao động 
Mặt được: 
Đối với nghề  tiểu thủ  công nghiệp: mây giang xiên, thêu ren ­ đính cườm, dệt  

chiếu, với  ưu điểm người lao động sau học nghề  có thể  sử  dụng thời gian nông nhàn 
để làm nghề tại gia đình hoặc làm việc tại doanh nghiệp, tăng thu nhập, góp phần cải 
thiện đời sống. Doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm cho  
người lao động nên họ yên tâm sản xuất. Một người học nghề có thể truyền nghề cho  
anh em, con cái trong gia đình cùng làm nghề.
Đối với nghề nông nghiệp (trồng lúa sản lượng cao): Thông qua những học viên  
được học và kết quả thực tế đã làm thay đổi nhận thức của người nông dân trong cộng  
đồng về việc áp dụng những kiến thức và kỹ năng nghề trong sản xuất. Những kết quả 
bước đầu này đã tạo động lực để  thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn, 
làng, xã tham gia các khóa đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn.
Khó khăn, tồn tại:
22


+ Đối với các nghề tiểu thủ công nghiệp: thời gian đầu làm nghề thu nhập chưa 
cao nên ảnh hưởng đến tâm lý người dân chưa thật sự muốn làm nghề.
Hiện  trên địa   bàn tỉnh  đã  có  Doanh nghiệp  tư  nhân thương  mại  Mỳ   Quảng,  
Doanh nghiệp tư  nhân SXKD xuất khẩu Việt Trang, Công TNHH Mỹ  Hương­Ninh 
Bình bao tiêu sản phẩm nghề mây giang xiên, chiếu cói cho người lao động, tuy nhiên  
các doanh nghiệp chưa trực tiếp xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài mà đều 
phải qua khâu trung giam thu gom sản phẩm tỉnh ngoài, chịu nhiều chi phí qua các khâu  
trung gian ảnh hưởng đến tiền công của người lao động. 
+ Đối với nghề kỹ thuật trồng lúa cao sản: Do thói quen canh tác, người dân vẫn 
muốn trồng lúa theo phương pháp truyền thống đã rất quen thuộc với bản thân họ do đó 
việc thực hiện theo phương pháp mới có nhiều thay đổi trong quá trình sản xuất nên  
chưa thực sự muốn tham gia học nghề5.
Mục đích của dạy nghề là đào tạo cho người lao động có kỹ  năng nghề, có thể 
làm việc tốt, đúng nghề được đào tạo và cho thu nhập, cải thiện mức sống.
Thanh niên là đối tượng chính trong gia đình có sức khỏe, lao động kiếm tiền 
nuôi sống gia đình họ và họ là người có khả năng nhất về việc học nghề, tiếp thu kiến  

thức và rèn luyện, thực hành các kỹ năng để đạt được lao động có tay nghề, tìm được 
việc làm và cho thu nhập ổn định.
Thanh niên người dân tộc thiểu số là đối tượng nghiên cứu chính của đề  tài mà  
nhóm đã chọn. 
Xuất phát từ  thực tiễn về  công tác đào tạo nghề  cho các đối tượng như  Thanh 
Niên, Phụ Nữ..v..v... số lượng ít so với  nhu cầu lao động, chất lượng, hiệu quả thấp. 
Vì vậy, nhóm lựa chọn đối tượng Thanh Niên dân tộc thiểu số  là đối tượng có  
đặc điểm riêng về  văn hóa, phong tục tập quán, địa bàn sinh sống, quan niệm sống, 
 Báo cáo kết quả  thực hiện Quyết định số: 1956/QĐ ­ TTg năm 2011 và xây dựng kế  hoạch  

5

năm 2012 huyện Quan Hóa. 

23


trình độ  học vấn để  nghiên cứu, hy vọng rằng qua nghiên cứu nhóm chỉ  ra được các 
điểm mạnh, điểm yếu, những cơ  hội và thách thức đối với họ, để  từ  đó giúp họ  biết 
được những hạn chế cần khắc phục để học tốt kỹ năng nghề.
Do hạn chế về mặt thời gian nên trong nghiên cứu này chỉ  sử  dụng các số  liệu  
thứ cấp để tìm hiểu: i) vai trò của  đào tạo nghề  đối với chất lượng lao động là thanh  
niên người dân tộc thiểu số; ii)  tiếp cập của chất lượng lao động với đào tạo nghềp;  
và iii) các yếu tố có thể   ảnh hưởng đến việc tiếp cận của lao động là thanh niên dân 
tộc thiểu số. 
Nhóm sử  dụng phương pháp kế  thừa các dữ  liệu sẵn có và phương pháp thống  
kê trên cơ  sở các báo cáo số  liệu tổng hợp thực hiện dạy nghề đã được  huyện Quan  
Hóa phê duyệt năm 2011; cũng như  dựa trên cơ  sở  quan sát thực tiễn tại trường dạy 
nghề  của  huyện Quan Hóa và  tình hình việc  làm của   đối tượng nghiên cứu (TN ­ 
DTTS).

Theo nhóm nghiên cứu thì đây là phương pháp đơn giản, dễ thu thập số liệu và có 
sức thuyết phục người đọc, do nguồn dữ liệu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thực 
hiện. Nội dung số  liệu được phân kỳ  đầu tư  hàng năm bằng nguồn ngân sách nhà nước 
cho cả giai đoạn từ 2011 ­ 2015 và đến 2020.
6. Nghiên cứu trường hợp huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa
6.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa
Quan Hoá là huyện miền núi, cách trung tâm tỉnh Thanh Hoá 140 km về  phía Tây.  
Phía Bắc giáp tỉnh Sơn La và Hoà Bình, phía Đông giáp huyện Bá Thước, phía Nam giáp 
huyện Quan Sơn, phía Tây giáp huyện Mường Lát và có chung đường biên giới (4,8 km)  
với nước bạn Lào tại xã Hiền Kiệt; toàn huyện có 17 xã và 1 thị trấn. 
­ Tài nguyên đất: Quan Hoá có tổng diện tích tự  nhiên là 99.013,68 ha, trong đó: 
đất   nông   nghiệp   90.158,1ha,   đất   phi   nông   nghiệp   5.086,53   ha,   đất   chưa   sử   dụng  
3.769,05 ha. Đất sản xuất chỉ có 6.036,92 ha chiếm 6,1% diện tích đất tự  nhiên; trong  
đó đất ruộng nước  chỉ  có 730 ha,  Tài nguyên rừng:  Năm 2010, huyện Quan Hoá có 
24


84.082,23 ha đất lâm nghiệp, trong đó rừng sản xuất là 43.984,66 ha, diện tích đã có rừng  
36.979,74 ha, diện tích chưa có rừng 7.004,92 ha. Cây luồng là cây trồng chính của rừng  
sản xuất, diện tích chiếm khoảng gần 22.000 ha.
­ Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp : Năm 2010, năng suất lúa bình quân đạt 48,4 
tạ/ha, ngô đạt 37 tạ/ha; lương thực bình quân đầu người đạt 378 kg/ người/ năm. ­ Sản  
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Trên địa bàn huyện có 26 doanh nghiệp, hợp tác xã 
(10 hợp tác xã dịch vụ  điện năng) và 12 tổ  hợp sản xuất đang hoạt động thường xuyên,  
trong đó có 1 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài sản xuất vàng mã xuất khẩu. ­  
Công tác giáo dục ­  đào tạo: Toàn huyện có 55 đơn vị trường học; 575 lớp, nhóm lớp, với 
9.267 học sinh. Tổng số  cán bộ, giáo viên, nhân viên hiện có 805 người, trong đó mầm 
non 142 người, tiểu học 376 người; THCS có 272 người,  trung tâm giáo dục thường xuyên 
và dạy nghề có 15 người
Hiện nay, toàn huyện có 4.114 hộ  nghèo, với 19.745 khẩu; tỷ  lệ  đói nghèo là  

41,39%; thu nhập bình quân 190 nghìn đồng/tháng; 12/18 xã có tỷ  lệ hộ nghèo còn trên 
50%; hộ cận nghèo chiếm 25,54%. 
Nguyên nhân đói nghèo là do:
­ Do thiếu vốn làm ăn 4.068 hộ, chiếm 96,6 % (so với tổng số hộ nghèo)
­ Do thiếu kinh nghiệm làm ăn 3.981 hộ; chiếm 94,5 %;
­ Do thiếu sức lao động, đông người ăn theo 615 hộ, chiếm 14,6%;
­ Do thiếu đất sản xuất 397 hộ, chiếm 9,4%;
­ Do ốm đau, tàn tật 1.523 hộ, chiếm 36,15%;  
Một số  nguyên nhân khác: trình độ  dân trí còn thấp, cơ  sở  hạ  tầng còn thiếu 
và yếu kém; lao động có tay nghề chiếm tỷ lệ thấp 14% 6.
6.2. Phân tích số liệu thống kê về thực trạng chất lượng lao động là thanh 
niên DTTS ở huyện Quan Hóa
 Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Quan Hóa đến năm 2020

6

25


×