Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nồng độ Interleukin 31 huyết thanh và mối liên quan với mức độ ngứa và các đặc điểm lâm sàng khác ở bệnh nhân chàm thể tạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.28 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN-31 HUYẾT THANH
VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỨC ĐỘ NGỨA VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM
LÂM SÀNG KHÁC Ở BỆNH NHÂN CHÀM THỂ TẠNG
Nguyễn Ngọc Trai*, Lê Thái Vân Thanh*, Văn Thế Trung*

TÓM TẮT
Mở đầu: Vấn đề ngứa được xem là triệu chứng quan trọng nhất trong chàm thể tạng, vì nó ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Vì vậy, một trong những mục tiêu điều trị quan trọng là kiểm
soát ngứa. Tuy nhiên, khác với bệnh lý dị ứng, trong đó dị nguyên kích hoạt các tế bào mast gây giải phóng
histamin, ngứa trên bệnh nhân chàm thể tạng lại không đáp ứng với hầu hết các thuốc kháng histamin thông
thường. Gần đây, vai trò của cytokine IL-31 trong chàm thể tạng được nhấn mạnh vì những nghiên cứu mới cho
thấy IL-31 đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế gây ngứa và sinh bệnh học của các bệnh lý da viêm.
Mục tiêu: Xác định nồng độ IL-31 trong huyết thanh và mối liên quan với mức độ ngứa và các đặc điểm lâm
sàng khác ở bệnh nhân chàm thể tạng.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca có phân tích.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân bị chàm thể tạng đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ
tháng 9/2016 đến tháng 4/2017.
Kết quả: 80 bệnh nhân chàm tể tạng và 30 người bình thường được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình ở
nhóm bệnh là 40,03 ± 19 và ở nhóm chứng là 37,87 ± 22,33, tỉ lệ nam/nữ là 1/1. Nồng độ IL-31 huyết thanh ở
nhóm chàm thể tạng là: 38,07 ± 17,04 (pg/ml), cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa (p < 0,001). IL-31 huyết thanh liên
quan với các triệu chứng lâm sàng: dày chỉ lòng bàn tay, lichen hóa, hồng ban, phù sẩn, rỉ dịch đóng mài, trầy
xước, diện tích tổn thương (BSA). Có sự khác biệt về nồng độ IL-31 huyết thanh giữa các nhóm: nhẹ, trung bình,
nặng theo phân độ SCORAD (p < 0,001). Có mối tương quan thuận, giữa nồng độ IL-31 huyết thanh với điểm
ngứa 5D-itch scale và điểm SCORAD.
Kết luận: Nồng độ IL-31 huyết thanh có liên quan với các triệu chứng lâm sàng của bệnh chàm thể tạng và
mức độ biểu hiện của các triệu chứng trong thang điểm SCORAD, thang điểm ngứa 5D-itch scale. IL-31 có vai
trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh và cơ chế gây ngứa của chàm thể tạng.


Từ khóa: chàm thể tạng, IL-31, thang điểm ngứa 5D.

ABSTRACT
SERUM IL-31 LEVELS AND THE CORRELATION WITH ITCH SEVERITY AND OTHER CLINICAL
SYMTOMPS IN ATOPIC DERMATITIS PATIENTS
Nguyen Ngoc Trai, Le Thai Van Thanh, Van The Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 81 – 87
Background: Pruritus is possibly the most important symptom in atopic dermatitis (AD), as it significantly
impairs patient’s quality of life. Accordingly, one of the main goals in AD treatment is itch management.
However, AD-associated pruritis is often refractory to most traditional H1-antihistamine therapies. Recently, a
novel cytokine, IL-31, was linked to the pathogenesis of pruritis in several chronic inflammatory skin diseases.
* Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS. BS Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310

Email:

81


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018

Recent studies have provided further evidence suggesting a possible etiologic role for IL-31 in AD.
Objective: To identify the serum levels of IL-31 in AD patients and compare with normal people. We also
determine whether IL-31 serum levels are correlated with itch severity and other clinical symptoms in AD
Methods: Descriptive cross-sectional study on AD patients at Hospital of Dermatology and Venereology in
Ho Chi Minh City from September 2016 until April 2017
Results: We recruited 80 AD patients, and 30 healthy, non-atopic controls. The average age was 40.03 ± 19
in AD patients and 37.87 ± 22.33, the proportion of men/women was 1/1. Mean serum level of IL-31 in AD

patients was 38.07 ± 17.04 (pg/ml), and it was significantly elevated in AD patients compared to control group
(p<0.001). There was a significant association between IL-31 and some clinical symptoms: hyper linear palms,
lichenification, redness, swelling, oozing, excoriation, body surface affected (BSA). It was also statistically
correlated with itch severity measured using 5-D itch scale and the SCORAD index
Conclusion: Our data demonstrate a strong correlation between serum IL-31 levels and itch severity using
5D-itch scale, SCORAD index, and some AD related clinical symptoms in certain degrees in AD patients. IL-31
has an important role in pathogenesis and itch mechanism in AD.
Keyword: atopic dermatitis, IL-31. 5D-itch scale

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chàm thể tạng là bệnh lý viêm da mạn tính
thường gặp nhất trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Đặc điểm lâm sàng chính của bệnh bao
gồm ngứa dữ dội, và có nhiều đợt tái phát làm
ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân(1). Vì vậy, một trong những mục
tiêu điều trị quan trọng là kiểm soát ngứa. Tuy
nhiên, khác với bệnh lý dị ứng, ngứa trên bệnh
nhân chàm thể tạng lại không đáp ứng với hầu
hết các thuốc kháng histamin thông thường(2).
Gần đây, vai trò của cytokine IL-31 được
nhấn mạnh vì những nghiên cứu mới cho thấy
IL-31 đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế
gây ngứa và sinh bệnh học của các bệnh lý da
viêm. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã ghi
nhận có sự gia tăng nồng độ IL-31 trong huyết
thanh bệnh nhân chàm thể tạng cũng như sự
tương quan của nó với độ nặng lâm sàng, diễn
tiến bệnh và đáp ứng với điều trị (3,4)
Tại Việt Nam, theo hiểu biết của chúng tôi

chưa có nghiên cứu nào về vai trò của IL-31
trong bệnh chàm thể tạng. Vì vậy, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu "Nồng độ interleukin-31 huyết
thanh và mối liên quan với mức độ ngứa và các
đặc điểm lâm sàng khác ở bệnh nhân chàm thể
tạng", với mục tiêu:

82

- Xác định nồng độ IL-31 trong huyết thanh
ở bệnh nhân chàm thể tạng.
- So sánh nồng độ IL-31 huyết thanh giữa
nhóm bệnh nhân chàm thể tạng và nhóm chứng.
- Xác định mối liên quan giữa nồng độ IL31 huyết thanh với mức độ ngứa và các đặc điểm
lâm sàng khác ở bệnh nhân chàm thể tạng

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Da Liễu
TPHCM từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017 được
chẩn đoán xác định chàm thể tạng theo tiêu
chuẩn Hanifin và Rajka cải tiến theo AAD (2014).
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, mỗi
bệnh nhân chỉ được chọn vào mẫu nghiên cứu 1
lần.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân điều trị các thuốc đường toàn
thân có khả năng ức chế phản ứng viêm hay

phản ứng miễn dịch (corticoid, các thuốc gây độc
tế bào…) gần đây, đang mắc các bệnh da gây
ngứa khác như: mề đay,viêm kết mạc dị ứng,
viêm da tiếp xúc dị ứng, vảy nến…, đang mắc
các bệnh lý đi kèm khác có ảnh hưởng trên tế
bào T CD4+: nhiễm trùng cấp tính hoặc mạn


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

tính, bệnh nội-ngoại khoa mạn tính, rối loạn
chuyển hóa, suy giảm miễn dịch.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca có phân tích.
Phương pháp tiến hành
Khi bệnh nhân vào viện và được chẩn đoán
là chàm thể tạng, sẽ được hỏi kỹ về bệnh sử,
thăm khám lâm sàng.
Các dữ kiện được thu thập bao gồm: hành
chính, các yếu tố giúp chẩn đoán chàm thể tạng
(theo bảng tiêu chuẩn Hanifin và Rajka cải tiến
theo AAD), mức độ ngứa (đánh giá theo thang
điểm 5-D itch scale), đặc điểm độ nặng lâm sàng
của bệnh chàm thể tạng (dựa trên thag điểm
SCORAD gồm: mức độ ngứa theo thang điểm từ
1-10, mất ngủ, diện tích sang thương, vết cào gãi,
da khô tróc vảy, lichen hóa…).
Mẫu máu của bệnh nhân được thu thập

đồng thời. Các ống máu sau đó được quay li tâm
để lấy huyết thanh, tiến hành định lượng nồng
độ IL-31 trong huyết thanh.
Xử lý số liệu
Số liệu được mã hóa, nhập và xử lý bằng
phần mềm thống kê SPSS 16.0.
Giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống
kê, độ tin cậy 95%.

KẾT QUẢ
Chúng tôi thu thập được 80 bệnh nhân chàm
thể tạng và 30 người bình thường.
Nồng độ IL-31 trong huyết thanh bệnh nhân
chàm thể tạng:
Nồng độ IL-31 trung bình ở nhóm bệnh
nhân chàm thể tạng là 38,07 ± 17,04 (pg/ml), ở
nhóm chứng là 10,29 ± 3,06 (pg/ml). Kết quả
kiểm định cho thấy nồng độ IL-31 trung bình
ở nhóm bệnh nhân chàm thể tạng cao hơn
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001

Biểu đồ 1: Nồng độ IL-31 huyết thanh ở nhóm bệnh
và nhóm chứng
Nồng độ IL-31 huyết thanh và các triệu chứng
trong thang điểm SCORAD
Đối với các triệu chứng: hồng ban, phù sẩn,
rỉ dịch đóng mài, trầy xước, lichen hóa, chúng tôi
nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
nồng độ IL-31 huyết thanh giữa mức độ nhẹ (0-1
điểm theo SCORAD) và mức độ nặng (2-3 điểm

theo SCORAD) của các triệu chứng trên (p ≤
0,001). Tuy nhiên chỉ có triệu chứng khô da là
không có mối liên quan với nồng độ IL-31 huyết
thanh (p=0,108 > 0,05).
Nồng độ IL-31 huyết thanh và diện tích tổn
thương da (BSA)
Hệ số tương quan giữa nồng độ IL-31 huyết
thanh với BSA là: R = 0,308, F = 8,17, với p = 0,005
< 0,05.
Có mối tương quan thuận, mức độ trung
bình, giữa nồng độ IL-31 huyết thanh với BSA,
theo phương trình hồi quy tuyến tính sau: Y =
0,226X + 32,95 (pg/ml).
Nồng độ IL-31 huyết thanh và mức độ tổn
thương (phần B trong SCORAD)
Hệ số tương quan giữa nồng độ IL-31 huyết
thanh với BSA là: R = 0,626, F = 50,328, với p <
0.001.
Có mối tương quan thuận, mức độ khá chặt,
giữa nồng độ IL-31 huyết thanh với mức độ tổn

(Biểu đồ 1).

83


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học
thương, theo phương trình hồi quy tuyến tính

sau: Y = 2,805X + 13,457 (pg/ml).
Nồng độ IL-31 huyết thanh và tổng điểm
SCORAD
Hệ số tương quan giữa nồng độ IL-31 huyết
thanh với SCORAD là: R = 0,641, F = 54,259, với p
< 0,001.
Có mối tương quan thuận, mức độ khá chặt,
giữa nồng độ IL-31 huyết thanh với điểm
SCORAD, theo phương trình hồi quy tuyến tính
sau: Y = 0,585X + 11,161 (pg/ml).
Nồng độ IL-31 huyết thanh giữa các nhóm theo
phân độ SCORAD
Bảng 1: Nồng độ IL-31 huyết thanh giữa các nhóm
theo phân độ SCORAD
Phân độ
SCORAD
IL-31 (pg/ml)

Nhẹ
(n=12)

Trung bình
(n=38)

Nặng
(n=30)

11,44 ± 3,59 36,05 ± 11,63 51,27 ± 11,61

Có khác biệt ý nghĩa thống kê về nồng độ IL31 huyết thanh giữa các nhóm theo phân độ

SCORAD (One way ANOVA, F = 58,999 và P <
0,001).
Nồng độ IL-31 huyết thanh và điểm ngứa 5Ditch scale
Điểm 5D-itch scale trung bình của mẫu
nghiên cứu là: 15,38 ± 4,15, điểm thấp nhất là 5
và cao nhất là 24
Hệ số tương quan giữa nồng độ IL-31
huyết thanh với điểm 5D là: R = 0,440, F =
18,776, với p < 0,001.
Có mối tương quan thuận, mức độ trung
bình, giữa nồng độ IL-31 huyết thanh với tổng
điểm 5D-itch scale
Nồng độ Il-31 huyết thanh và phân độ ngứa
theo 5D-itch scale
Nồng độ IL-31 trung bình ở nhóm ngứa
nặng là 44,60 ± 14,09 (pg/ml), còn trị số này ở
nhóm ngứa nhẹ là 31,54 ± 11,38 (pg/ml). Nồng
độ IL-31 trung bình ở nhóm ngứa nặng cao
hơn nhóm ngứa nhẹ có ý nghĩa thống kê, với p
< 0,001.

84

BÀN LUẬN
Nồng độ IL-31 ở nhóm bệnh nhân chàm thể
tạng và nhóm chứng
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ IL31 trung bình ở nhóm bệnh nhân chàm thể tạng
là 38,07 ± 17,04 (pg/ml), còn trị số này ở nhóm
chứng là 10,29 ± 3,06 (pg/ml). Nồng độ IL-31
trung bình ở nhóm bệnh nhân chàm thể tạng cao

hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Điều này phù hợp với những nghiên cứu sau:
Nghiên cứu của các tác giả Kim S., Kim H. J.,
Yang H. S. và cs(3), thực hiện tại Hàn Quốc trên
55 bệnh nhân và 38 người khỏe mạnh không có
bệnh lý cơ địa, kết quả cho thấy: nồng độ IL-31
huyết thanh ở nhóm bệnh nhân chàm thể tạng
cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Nghiên cứu này cũng cho thấy nhóm chàm
nội sinh và ngoại sinh đều có trị số IL-31 huyết
thanh cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Siniewicz-Luzenczyk K.,
Stanczyk-Przyluska A. và cs(4), tiến hành trên
mẫu nghiên cứu gồm 25 trẻ bị chàm thể tạng và
nhóm chứng là 20 trẻ khỏe mạnh (có bệnh hô
hấp tái phát, không suy giảm miễn dịch, không
có bệnh lý cơ địa hay bệnh về da gây ngứa), kết
quả cho thấy nồng độ IL-31 huyết thanh ở nhóm
bệnh nhân chàm thể tạng cao hơn nhóm chứng
có ý nghĩa thống kê (với p < 0,001).
Nghiên cứu của các tác giả Ezzat M. H.,
Hasan Z. E. và cs (2011) thực hiện trên 50 trẻ bị
chàm thể tạng và 40 trẻ tình nguyện trong nhóm
chứng (5). Kết quả cho thấy nồng độ IL-31 huyết
thanh ở nhóm trẻ bị chàm thể tạng cao hơn
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, dù là bệnh
đang ở giai đoạn cấp hay giai đoạn không hoạt
động (với p < 0,0001).
Nghiên cứu của Raap U., Wichmann K. tiến
hành trên 37 bệnh nhân chàm ngoại sinh, 11

bệnh nhân chàm thể tạng nội sinh và 24 người
khỏe mạnh(6). Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân
chàm thể tạng cả ngoại sinh lẫn nội sinh đều có
nồng độ IL-31 huyết thanh cao hơn có ý nghĩa so
với nhóm chứng (2 nhóm đều có p< 0,001).


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
Nồng độ IL-31 huyết thanh bệnh nhân và mối
liên quan với các triệu chứng lâm sàng
Có thể thấy rằng các trong nghiên cứu của
chúng tôi, các bệnh nhân chàm thể tạng có triệu
chứng lâm sàng ở da nặng nề hơn, cấp tính hơn
thì có trị số nồng độ IL-31 huyết thanh cao hơn.
Điều này cũng phù hợp với những nghiên cứu
của các tác giả:
Một số nghiên cứu khác của Takaoka A.,
Arai I. cũng cho thấy ở những con chuột có nồng
độ IL-31 biểu hiện cao hơn, thì hành vi cào gãi
cũng nhiều hơn(7).
Theo các tác giả Dillon S. R., Sprecher C. và
cs: ở tế bào thượng bì, IL-31 kích hoạt nhiều
chemokines có liên quan với bệnh lý viêm da cơ
địa như: CCL1, CCL17, CCL22(8). Chính vì vậy,
tăng IL-31 trong sang thương da chàm thể tạng
sẽ dẫn đến sự tăng quá trình viêm ở da thông
qua sự kích hoạt các chemokine, dẫn tới sự huy
động tế bào T. Ngược lại, các tế bào T được hoạt
hóa lại trở thành nguồn tạo ra IL-31 mới, từ đó
làm khuếch đại phản ứng viêm và ngứa ở da.

Điều đó góp phần hình thành nên vòng xoắn
bệnh lý gây viêm, ngứa, cào gãi và tổn thương
da nặng hơn ở bệnh nhân chàm thể tạng.
Nồng độ IL-31 huyết thanh và điểm SCORAD
Nghiên cứu của Raap U., Wichmann K. và
cs cho thấy: có mối tương quan ý nghĩa thống
kê giữa điểm SCORAD với nồng độ IL-31 huyết
thanh của bệnh nhân (Spearman R = 0,56; P <
0,0001). Khi đánh giá riêng 2 nhóm bệnh nhân
chàm thể tạng nội sinh và ngoại sinh, các tác giả
cũng nhận thấy có sự tương quan rõ rệt giữa
nồng độ IL-31 huyết thanh với điểm SCORAD
của bệnh nhân, đối với nhóm chàm ngoại sinh:
Spearman R = 0,64; P< 0,0001; đối với nhóm
chàm nội sinh: Spearman R =0,75; P< 0,01.
(6)

Nghiên cứu của các tác giả Ezzat M. H.,
Hasan Z. E. và cs(5) cũng cho kết quả tương tự.
Kết quả cho thấy: nồng độ IL-31 huyết thanh
giữa các nhóm nhẹ, trung bình và nặng (theo
phân độ SCORAD) đều có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p< 0,0001). Khi đánh giá lâm

Nghiên cứu Y học
sàng dựa trên các thang điểm khác như LSS, SSS,
kết quả đều cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa
giữa mức độ lâm sàng với nồng độ IL-31 huyết
thanh (p< 0,01).
Nghiên cứu của các tác giả Kim S., Kim H. J.

và cs (2011), với điểm SCORAD trung bình của
bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu là 40,4±13,8(3),
kết quả cũng cho thấy có mối tương quan giữa
nồng độ IL-31 huyết thanh với điểm số SCORAD
của bệnh nhân (P<0,003).
Như vậy, có thể thấy rằng kết quả nghiên
cứu của chúng tôi khá tương đồng với nhiều kết
quả nghiên cứu khác được ghi nhận trong y văn
của thế giới, đó là có sự liên quan giữa độ nặng
của chàm thể tạng theo SCORAD với nồng độ
IL-31 huyết thanh.
Nồng độ IL-31 huyết thanh và điểm ngứa theo
thang điểm 5D-itch scale
Triệu chứng ngứa là một vấn đề lớn trong
bệnh lý chàm thể tạng, ảnh hưởng đến cả đời
sống thể chất, tinh thần, và xã hội của bệnh
nhân(1). Tuy vậy, cơ chế ngứa trong chàm thể
tạng chưa thật sự được hiểu rõ. Với việc thuốc
kháng histamin có hiệu quả rất ít trong việc giảm
ngứa, cho thấy histamin không phải là chất
trung gian gây ngứa chính trong chàm thể tạng(9).
Một số giả thuyết cho rằng các
neuropeptides, proteinases, dẫn xuất của
arachidonic acid và các cytokines có thể đóng
một vai trò quan trọng trong cơ chế gây ngứa(9).
Nồng độ trong máu của β-endorphin, một
neuropeptide gắn với thụ thể opioids, cũng cho
thấy có liên quan với mức độ ngứa của chàm thể
tạng. β-endorphin và các thụ thể của nó hiện
diện ở tế bào sừng và các đầu tận cùng thần

kinh. IL-1 và tia UV, những yếu tố thường làm
tăng ngứa ở bệnh nhân, cũng làm tăng giải
phóng β-endorphin từ các tế bào sừng. Ngược
lại ở những bệnh nhân chàm đã được điều trị
với PUVA, thì nồng độ endorphin lại giảm
xuống. Như vậy, mặc dù cơ chế khởi phát ngứa
của endorphin thông qua các thụ thể µ-opioid
ngoại biên chưa được xác định chính xác trong y

85


Nghiên cứu Y học
văn, nhưng qua các chứng cứ gián tiếp có thể
thấy β-endorphin có liên quan mật thiết với triệu
chứng ngứa ở bệnh nhân chàm thể tạng.
Các cytokine được xem như những chất
trung gian quan trọng trong chàm thể tạng.
Trong đó IL-31 được xem là cytokine có liên
quan mật thiết với cơ chế ngứa của bệnh nhân.
Trên thế giới đã có nhiều tài liệu y văn nghiên
cứu về mối liên quan giữa vai trò của IL-31 và
vấn đề ngứa của bệnh nhân:
Thông thường cảm giác ngứa, đau đều được
điều hòa trực tiếp bởi sợi thần kinh C không bao
myelin của các tế bào thần kinh cảm giác với
thân tế bào nằm ở hạch rễ lưng(9,10). Tương tự IL31, nhiều thụ thể cytokine và chemokine cũng
được tìm thấy ở hạch rễ lưng, dẫn truyền tín
hiệu thông qua các thụ thể này góp phần làm
tăng nhạy cảm trong quá trình viêm. Những dữ

liệu trên cho thấy IL-31 có thể khởi phát triệu
chứng ngứa thông qua điều hòa chức năng của
tế bào thần kinh cảm giác.
IL-31 có thể kích hoạt sự giải phóng βendorphin (neuropeptide liên quan ngứa) từ các
tế bào sừng thông qua con đường kênh Ca và sự
hoạt hóa STAT3. Trục phản ứng IL-31/STAT3/βendorphin có thể đóng vai trò quan trọng trong
cơ chế điều hòa ngứa ở bệnh nhân chàm thể
tạng. IL-31 được sản xuất từ các tế bào T-helper ở
da, sẽ hoạt hóa các thụ thể IL-31R ở tế bào
thượng bì. Từ đó sẽ huy động kênh Ca và hoạt
hóa STAT3, dẫn tới sự giải phóng β-endorphin,
chất này sẽ gắn vào các thụ thể µ-opioids ở tế
bào thượng bì hoặc các đầu tận cùng thần kinh,
gây nên cảm giác ngứa rát. Các thuốc ức chế
hoạt hóa STAT3 sẽ làm giảm sự phóng thích βendorphin. Nghiên cứu trên cũng cho thấy nồng
độ trong máu của IL-31 và β-endorphin có liên
quan với nhau, cả ở nhóm bệnh nhân chàm thể
và nhóm chứng. Ở da bệnh nhân chàm, nồng độ
IL-31RA và β-endorphin cũng tăng.
Gần đây, một nghiên cứu của các tác giả
Nemoto O., Furue M., Nakagawa H. và cs
(2016)(10), nghiên cứu sử dụng thuốc CIM331,

86

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
kháng thể chống lại thụ thể IL-31RA (nghiên cứu
ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng, sử dụng
giả dược). Nghiên cứu được tiến hành trên 36
bệnh nhân Nhật có chàm thể tạng, nhóm chứng

gồm 56 người Nhật khỏe mạnh và 24 người da
trắng khỏe mạnh tình nguyện. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: thuốc an toàn, không có tác dụng
phụ nghiêm trọng được ghi nhận. Trên nhóm
bệnh nhân chàm thể tạng, thuốc làm giảm mức
độ ngứa trên 20% ngay sau tuần thứ nhất (ở
nhóm giả dược chỉ giảm 9%), giảm trên 50% ở
tuần thứ tư (so với 20% ở nhóm sử dụng giả
dược), ngoài ra CIM331 còn làm tăng hiệu quả
giấc ngủ cho bệnh nhân, và giảm tần suất dùng
hydrocortisone butyrate (p < 0,01).
Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho kết quả khá tương đồng với các kết quả
được ghi nhận trong y văn của thế giới. Nồng
độ IL-31 huyết thanh có mối tương quan và tỉ
lệ thuận với mức độ ngứa của bệnh nhân
chàm thể tạng.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 80 bệnh nhân chàm thể
tạng và 30 người khỏe mạnh, chúng tôi ghi nhận
một số kết luận như sau:
Nồng độ IL-31 huyết thanh trung bình ở
bệnh nhân chàm thể tạng là: 38,07 ± 17,04
(pg/ml)) và cao hơn nhóm người bình thường có
ý nghĩa thống kê (p < 0,001)
Nồng độ IL-31 huyết thanh có liên quan với
các triệu chứng lâm sàng: lòng bàn tay nhiều
đường kẽ, lichen hóa, hồng ban, phù sẩn, rỉ dịch
đóng mài, trầy xước, lichen hóa, diện tích tổn

thương (BSA), mức độ tổn thương (phần B trong
SCORAD)
Có mối tương quan thuận giữa điểm ngứa
5D-itch scale và điểm SCORAD của bệnh nhân
với nồng độ IL-31
Có sự khác biệt về nồng độ IL-31 huyết
thanh giữa các nhóm: nhẹ, trung bình, nặng theo
phân độ SCORAD (p < 0,001). Tuy nhiên, không
có khác biệt về nồng độ IL-31 huyết thanh giữa
nhóm nhẹ (SCORAD) với nhóm chứng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

Nồng độ IL-31 huyết thanh ở nhóm ngứa
nặng cao hơn nhóm ngứa nhẹ

7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

8.

1.

2.
3.


4.

5.

6.

Châu Văn Trở (2008), "Vai trò của Staphylococcus aureus trên
bệnh chàm thể tạng", Tạp chí Y Học TPHCM, 12 (1), pp. 249257.
Bieber T, Bussmann C (2012), "Atopic Dermatitis", Bolognia's
Dermatology, Elsevier, pp. 203-219
Kim S, Kim HJ, Yang HS, et al (2011), "IL-31 Serum Protein
and Tissue mRNA Levels in Patients with Atopic Dermatitis",
Ann Dermatol, 23 (4), pp. 468-73
Siniewicz-Luzenczyk K., Stanczyk-Przyluska A., Zeman K.
(2013), "Correlation between serum interleukin-31 level and
the severity of disease in children with atopic dermatitis",
Postepy Dermatol Alergol, 30 (5), pp. 282-5
Ezzat MH, Hasan ZE, Shaheen KY (2011), "Serum
measurement of interleukin-31 (IL-31) in paediatric atopic
dermatitis: elevated levels correlate with severity scoring", J
Eur Acad Dermatol Venereol, 25 (3), pp. 334-9
Raap U, Wichmann K, Bruder M, et al (2008), "Correlation of
IL-31 serum levels with severity of atopic dermatitis", J Allergy
Clin Immunol, 122 (2), pp. 421-3.

9.
10.

Takaoka A, Arai I, Sugimoto M, et al (2006), "Involvement of
IL-31 on scratching behavior in NC/Nga mice with atopic-like

dermatitis", Exp Dermatol, 15 (3), pp. 161-7
Dillon SR, Sprecher C, Hammond A, et al (2004), "Interleukin
31, a cytokine produced by activated T cells, induces
dermatitis in mice", Nature immunology, 5 (7), pp. 752-760
Yosipovitch G, Greaves MW, Schmelz M (2003), "Itch", The
Lancet, 361 (9358), pp. 690-694
Nemoto O, Furue M, Nakagawa H, et al (2016), "The first trial
of CIM331, a humanized antihuman interleukin-31 receptor A
antibody, in healthy volunteers and patients with atopic
dermatitis
to
evaluate
safety,
tolerability
and
pharmacokinetics of a single dose in a randomized, doubleblind, placebo-controlled study", Br J Dermatol, 174 (2), pp.
296-304.

Ngày nhận bài báo:

14/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

20/11/2017

Ngày bài báo được đăng:

28/02/2018


87



×