Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.04 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

RỐI LOẠN CHỨC NĂNG ĐIỀU HÀNH TRONG GIAI ĐOẠN TRẦM
CẢM Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC LƯỠNG CỰC
Nguyễn Viết Chung, Nguyễn Văn Tuấn
Trường Đại học Y Hà Nội
Rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực thường gặp
và đa dạng, trong thực hành lâm sàng hiện nay còn chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 34 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ 9/2017 tới 8/2018
với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn
cảm xúc lưỡng cực. Kết quả thu được: tỷ lệ rối loạn khả năng tư duy trừu tượng (79,4%), sự lưu loát lời nói và chậm
chạp tâm thần vận động (70,6%), khả năng lên kế hoạch (52,9%) và giải quyết vấn đề (47,1%). Suy giảm chức
năng điều hành gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ, thời gian bị bệnh
từ dưới 36 tháng. Các triệu chứng rối loạn chức năng điều hành đa dạng, phong phú và thường gặp với tỷ lệ cao.
Từ khóa: rối loạn chức năng điều hành , rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm lưỡng cực

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai
đoạn trầm cảm là một chẩn đoán thường gặp
trong thực hành lâm sàng. Rối loạn đặc trưng
bằng quá trình ức chế toàn bộ tâm thần, biểu
hiện bằng hội chứng trầm cảm, giai đoạn này
kéo dài ít nhất 2 tuần và trước đó phải có ít
nhất một giai đoạn mà khí sắc biểu hiện bằng
hội chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ.
Theo Grande và cộng sự (2016), rối loạn cảm
xúc lưỡng cực gặp ở hơn 1% dân số thế giới
nói chung, trong đó có 31% tới 52% đáp ứng
với các tiêu chuẩn của một giai đoạn trầm cảm,
cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm lưỡng cực cao
và là một vấn đề sức khoẻ luôn được quan tâm


của ngành y tế nói chung và của ngành tâm
thần học nói riêng [1].
Rối loạn trầm cảm trong rối loạn cảm xúc
lưỡng cực thường khởi phát sớm trong độ tuổi
Tác giả liên hệ: Nguyễn Viết Chung, Trường Đại
học Y Hà Nội
Email:
Ngày nhận: 08/03/2019
Ngày được chấp nhận: 18/04/2019

88

từ 18 đến 22 nên ảnh hưởng rất lớn đến việc
học tập, sự phát triển trong nghề nghiệp, các
chức năng gia đình và xã hội,... từ đó mang lại
gánh nặng, tổn thất lớn về cả tinh thần và vật
chất cho gia đình và xã hội. Một trong những
nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng này
được cho là do chức năng nhận thức bị suy
giảm đặc biệt là các chức năng điều hành
như lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, tư duy
trừu tượng,… [2 - 3]. Các triệu chứng này đều
có thể được nhận biết bởi các bác sĩ điều trị,
nhằm có biện pháp can thiệp và giúp bệnh
nhân tuân thủ điều trị.
Trong những năm gần đây có một số lượng
lớn các nghiên cứu trên thế giới đều chỉ ra rằng
rối loạn nhận thức trong trầm cảm có thể nhận
thấy trong các chức năng trí nhớ làm việc và
các khía cạnh của chức năng điều hành [4 - 5].

Natalia và cộng sự nhận thấy các bệnh nhân
rối loạn các chức năng điều hành càng nặng
khi mức độ trầm cảm càng nặng [6]. Bệnh
nhân suy giảm trong việc lập các kế hoạch,
giải quyết vấn đề đến với mình, sử dụng ngôn
ngữ, sắp xếp công việc, từ đó ảnh hưởng rất
TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
lớn đến các hoạt động hàng ngày, các chức
năng nghề nghiệp, gia đình, xã hội, khả năng
thích ứng với môi trường xung quanh,... dẫn
đến bệnh nhân càng có nhiều trải nghiệm khó
khăn và căng thẳng, áp lực trong cuộc sống,
kém tuân thủ điều trị và là nguy cơ cao dẫn đến
tái phát của một giai đoạn bệnh tiếp theo [4].
Hiện tại ở Việt Nam chưa có nghiên cứu
nào về chủ đề này, vì vậy chúng tôi thực hiện
nghiên cứu với mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm
sàng rối loạn chức năng điều hành trong giai
đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc
lưỡng cực điều trị nội trú.

II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
34 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn cảm
xúc lưỡng cực hiện tại giai đoạn trầm cảm
theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10 điều trị
nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần trong thời

gian từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2018. Loại
trừ những bệnh nhân có tiền sử sa sút trí tuệ,
bệnh nhân có tiền sử chậm phát triển tâm thần,
bệnh nhân có tổn thương não được nhân thấy
qua thăm khám trên lâm sàng, bệnh nhân hoặc
người nhà không đồng ý tham gia vào nghiên
cứu.

Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Bệnh nhân nhập viện tại Viện Sức khỏe
Tâm thần được bác sĩ bệnh phòng chẩn đoán
rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm
sẽ được nghiên cứu viên đánh giá lại chẩn
đoán bệnh theo tiêu chuẩn ICD - 10. Các bệnh
nhân có chẩn đoán không phù hợp hoặc nghi
ngờ chẩn đoán sẽ bị loại. Các đối tượng còn
lại sẽ được đưa vào nghiên cứu khi họ được
thông báo về mục tiêu của nghiên cứu, đồng
thời có sự chấp thuận của bệnh nhân và gia
đình. Bệnh nhân được đánh giá về các yếu
tố nhân khẩu - xã hội học, đánh giá các chức
năng điều hành trên lâm sàng ở thời điểm vào
viện.
Số liệu được phân tích, xử lý bằng phần
mềm SPSS 20.0. Với các thuật toán tỷ lệ, giá
trị trung bình.
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu
phục vụ khoa học, nhằm nâng cao chất lượng
chẩn đoán và điều trị bệnh; Loại hình nghiên

cứu mô tả nên không ảnh hưởng hay can thiệp
gì đến quá trình điều trị khách quan của bênh
nhân; Nghiên cứu được hội đồng đề cương
luận văn thạc sĩ Trường Đại học Y Hà Nội
thông qua.

2. Phương pháp

III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Giới
Tuổi
Nơi sống
TCNCYH 119 (3) - 2019

Số bệnh nhân (n)

Tỷ lệ (%)

Nam

8

23,5

Nữ

26


76,5

Tuổi trung bình

42,85 ± 15,70

Thành thị

20

58,8

Nông thôn

14

41,2
89


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đặc điểm

Trình độ học vấn

Tình trạng hôn nhân

Hoàn cảnh sống


Chẩn đoán bệnh

Số bệnh nhân (n)

Tỷ lệ (%)

THCS

9

26,5

THPT

7

20,6

Cao đẳng / đại học

18

52,9

Chưa kết hôn

7

20,6


Đang kết hôn

24

70,6

Ly dị/goá

3

8,8

Sống một mình

1

2,9

Sống với gia đình

33

97,1

F31.3

12

35,3


F31.4

10

29,4

F31.5

12

35,3

Số bệnh nhân nam chiếm 23,5%. Tổng số bệnh nhân nữ cao hơn gấp 3,26 lần so với tổng số
bệnh nhân nam. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 42,85 ± 15,7. Số bệnh nhân sống ở
thành thị chiếm tỷ lệ cao nhất (58,8%). Hơn một nửa số bệnh nhân có trình độ học vấn là học cao
đẳng/đại học (52,9%). Số bệnh nhân đang kết hôn chiếm tỉ lệ cao nhất 70,6%; 1 trường hợp ly
dị và 2 trường hợp góa. Hầu hết bệnh nhân sống với gia đình (97,1%). Tỷ lệ bệnh mức độ nặng
chiếm 64,7%.
2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn chức năng điều hành



Biểu đồ 1. Tỷ lệ rối loạn chức năng điều hành
90

TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Sự suy giảm khả năng tư duy trừu tượng chiếm tỷ lệ cao nhất 79,4%

Sự suy giảm sự lưu loát, chậm chạp tâm thần vận động, kiến tạo thị giác gần bằng nhau, với tỉ
lệ tương đối, lần lượt là 70,6%; 70,63%; 67,6%
Sự suy giảm khả năng lên kế hoạch và giải quyết vấn đề chiếm tỉ lệ 52,9% và 47,1%.
Sự suy giảm khả năng tính toán chiếm tỉ lệ 41,2% và thấp nhất là khả năng sắp xếp với 20,6%
3. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành trên các nhóm bệnh nhân
Bảng 2. Tỷ lệ rối loạn chức năng điều hành trên các nhóm bệnh nhân
Rối loạn chức năng điều
hành

Chậm chạp
âm thần vận
động (%)

Tư duy
trừu
tượng (%)

Lưu loát
lời nói
(%)

Tính
toán
(%)

Lên kế
hoạch
(%)

Mức độ trầm

cảm

Mức độ vừa

66,7

58,3

41,7

66,7

58,3

Mức độ nặng

86,4

77,3

40,9

45,5

63,6

Số giai đoạn
trầm cảm
trong quá khứ


1 - 2 giai đoạn

76,9

38,5

38,5

46,2

57,7

> 2 giai đoạn

87,5

75

50

75

75

Số đợt tái
phát bệnh

< 4 đợt

73,9


78,3

43,5

47,8

52,2

≥ 4 đợt

90,9

54,5

36,4

63,6

81,8

Thời gian bị
bệnh

≤ 36 tháng

80

80


50

60

65

> 36 tháng

78,6

57,1

28,6

42,9

57,1

Trên nhóm bệnh nhân trầm cảm nặng có tỷ lệ rối loạn cao hơn: sự chậm chạp tâm thần vận
động (86,4%), tư duy trừu tượng (77,3%), lên kế hoạch (63,6%)
Trên nhóm bệnh nhân có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ có tỷ lệ rối loạn các chức năng
nhận thức cao hơn nhóm có 1 - 2 giai đoạn
Nhóm bệnh nhân có từ trên 4 đợt tái phát bệnh có tỷ lệ rối loạn các chức năng nhận thức cao
hơn: sự chậm chạp tâm thần vận động (90,9%), Tính toán (63,6%), lên kế hoạch (81,8%).
Nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng có tỷ lệ rối loạn cao hơn ở tất cả các
khía cạnh của chức năng điều hành.

IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ

gấp khoảng 3,26 lần so với nam. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu tổng quan của
Arianna Diflorio và Ian Jones năm 2010, nữ
giới có tỷ lệ cao hơn bị mắc RLCXLC II [7].
Độ tuổi trung bình của nhóm là 42,85 ± 15,7,
kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
TCNCYH 119 (3) - 2019

Lê Thị Thu Hà là 42,34 tuổi [8]. Mặt khác đây
là độ tuổi trưởng thành với kết quả tỷ lệ đang
kết hôn chiếm tỷ lệ cao nhất 70,6% và hầu hết
bệnh nhân sống cùng gia đình 97,1%. Tỷ lệ
bệnh nhân có trình độ học vấn Cao đẳng/đại
học chiếm tỷ lệ cao nhất 52,9%, đây là nguồn
nhân lực cho các vùng thành thị, phù hợp với tỷ
lệ bệnh nhân sống ở thành thị chiếm tới 58,8%.
91


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đáng chú ý là bệnh nhân nặng chiếm
64,7% ( 29,4% không có loạn thần, 35,3% có
loạn thần). Có thể thấy, nhóm bệnh nhân rối
loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm
điều trị nội trú thường ở mức độ nặng.
2. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành
trong giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối
loạn cảm xúc lưỡng cực
Suy giảm trong khả năng tư duy trừu tượng
thường gặp nhất với tỷ lệ 79,4%, bệnh nhân

khó khăn trong việc liên tưởng, hiểu ý nghĩa
của các từ, sự giống và khác nhau giữa các
khái niệm. Điều này ảnh hưởng tới việc bệnh
nhân hiểu các câu chuyện, các giao tiếp hàng
ngày và trong công việc. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, khi hỏi các bệnh nhân sự giống nhau
giữa các khái niệm: “ quả cam” với “ quả chuối”,
“ tàu hoả” với “xe đạp”; Bệnh nhân thường gặp
khó khăn để liên tưởng và tìm ra các điểm
chung giữa các khái niệm này. Thường người
bệnh chỉ có khả năng nói rằng đều có màu
vàng thay vì đều là hoa quả hay đều có bánh
thay vì đều là phương tiện đi lại.
Chậm chạp tâm thần vận động gặp ở
70,6% bệnh nhân, kết quả này cao hơn so với
Gallagher và cộng sự (2014) là 34% [5]. Sở
dĩ có sự khác biệt này là do nghiên cứu của
Gallagher thực hiện trên đối tượng bệnh nhân
có mức độ bệnh nhẹ hơn, Hamilton D trung
bình 20 điểm và bệnh nhân không có triệu
chứng loạn thần trong đợt bệnh này. Sự khác
biệt về mức độ nặng bệnh cũng là yếu tố ảnh
hưởng tới mức độ suy giảm nhận thức.
Suy giảm trong sự lưu loát lời nói gặp ở
70,6% bệnh nhân, sự suy giảm này khiến
bệnh nhân khó khăn trong giao tiếp hàng ngày,
khó lựa chọn từ ngữ, khó diễn đạt ý định của
mình. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Basso và cộng sự (2002) [9], trong nghiên cứu
này ông cũng thấy sự suy giảm về sự lưu loát

lời nói ở bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực
92

giai đoạn trầm cảm so với nhóm chứng khoẻ
mạnh. Những rối loạn sự lưu loát về lời nói có
nhiều dạng khác nhau, bao gồm sự bảo tồn,
sự lặp lại những từ hoặc sự hình thành những
từ ngữ không thuộc bảng cho sẵn. Sự suy
giảm trong các bài kiểm tra sự lưu loát bằng
lời nói nhìn chung là một chỉ điểm chẩn đoán
tốt của rối loạn chức năng thùy trán, đặc biệt
là bán cầu não trái. Tuy nhiên, một bài kiểm
tra sự lưu loát về lời nói có thể cho thấy sự
thay đổi hoặc những rối loạn chức năng của vỏ
não thái dương trái hoặc vùng não trước trán
trái. Herrmann và các đồng nghiệp cho thấy
sự suy giảm sự lưu loát bằng lời nói ở những
bệnh nhân bị trầm cảm có thể là do giảm
oxyhemoglobin xung quanh thùy trán so với
người khỏe mạnh. Tương tự như vậy, giảm lưu
lượng máu và hoạt động trao đổi chất có thể
có mối liên hệ giữa sự thay đổi nhận thức và
trầm cảm, đặc biệt là ở người cao tuổi. Những
liên kết các công việc khác làm giảm sự lưu
loát lời nói đến các hoạt động thần kinh gần tối
ưu xung quanh nhân đuôi và phần trán của các
nếp cuộn thể trai ở bán cầu trái [10].
Khả năng kiến tạo thị giác bị rối loạn ở
67,6% bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi; bệnh nhân biểu hiện qua việc không thể vẽ

lại được hình khối lập phương hay vẽ đồng hồ
trong test MoCA.
Rối loạn các chức năng nhận thức cao cấp
khác như: Khả năng tính toán (41,2%), Lập kế
hoạch (52,9%), giải quyết vấn đề (47,1%) và
sắp xếp công việc (20,6%). Suy giảm ở những
khía cạnh này ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng làm việc của bệnh nhân về sự chính xác
và hiệu quả trong công việc. Khả năng giải
quyết vấn đề đang bị cản trở bởi những khó
khăn trong việc tạo ra hệ thống các giải pháp
có thể, do suy giảm trong việc lên kế hoạch,
cũng như việc ra quyết định, kiểm nghiệm một
điều gì đó. Điều này được cho là dựa trên nền
TCNCYH 119 (3) - 2019


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tảng hoạt động gần tối ưu của vỏ não trước
trán bên đã bị suy giảm ở bệnh nhân rối loạn
cảm xúc lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm
[11].
3. Đặc điểm rối loạn chức năng điều hành
ở các nhóm bệnh nhân
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy
rằng tỷ lệ rối loạn các chức năng điều hành
hầu hết gặp nhiều hơn trong nhóm bệnh nhân
trầm cảm mức độ nặng so với nhóm mức độ
vừa. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với
nghiên cứu của Natalia và cộng sự (2016) khi

đánh giá trên 100 bệnh nhân rối loạn cảm xúc
lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm, ông nhận
thấy rằng các chức năng điều hành gặp nhiều
hơn và nặng nề hơn trên nhóm bệnh nhân có
mức độ trầm cảm nặng hơn. Trong nghiên cứu
này ông cũng đưa ra kết luận rằng chính sự rối
loạn nhận thức nặng hơn này dẫn đến chức
năng chung về gia đình, xã hội và công việc
của bệnh nhân bị suy giảm [6].
Tuy nhiên trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi thấy rằng tỷ lệ rối loạn khả năng tính
toán lại gặp cao hơn trên nhóm bệnh nhân
trầm cảm mức độ vừa so với nhóm trầm cảm
mức độ nặng. Sự khác biệt này có thể gợi ý
một cơ chế rối loạn khả năng tính toán độc lập
với mức độ trầm cảm và các chức năng điều
hành khác. Chúng ta cần thêm những nghiên
cứu để tìm hiểu thêm về khía cạnh này. Khả
năng tính toán được đánh giá qua test 100 - 7,
có thể khả năng tính toán này là khả năng đã
được bệnh nhân rèn luyện qua nhiều năm học
tập và làm việc và trở nên bền vững, nên nó
khác biệt so với các chức năng điều hành khác
và ít bị dao động hơn trong giai đoạn trầm cảm
hiện tại của bệnh nhân.
Trong khi đó, rối loạn các chức năng điều
hành gặp tỷ lệ cao hơn trong nhóm bệnh nhân
có nhiều hơn các giai đoạn trầm cảm trong
quá khứ, có nhiều đợt tái phát bệnh hơn và
TCNCYH 119 (3) - 2019


có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng. Lý do
các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
có thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng có tỷ lệ
rối loạn các chức năng điều hành nhiều hơn
là do nhóm bệnh nhân này trong nghiên cứu
của chúng tôi gặp nhiều hơn các bệnh nhân
trầm cảm mức độ nặng và có nhiều đợt tái phát
bệnh hơn so với nhóm có thời gian bị bệnh trên
36 tháng.

V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đặc điểm rối loạn chức
năng điều hành của 34 bệnh nhân rối loạn cảm
xúc lưỡng cực trong giai đoạn trầm cảm điều
trị nội trú; Rối loạn các chức năng điều hành
thường gặp, đa dạng; Chức năng điều hành
bị suy giảm nhiều hơn ở các bệnh nhân có
trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ. Tạo
nên vòng xoắn bệnh lý giữa sự suy giảm chức
năng điều hành và sự tái phát các giai đoạn
trầm cảm.

Lời cảm ơn
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Bộ
môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội, Viện
Sức khoẻ Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai đã
cho phép và giúp đỡ chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu.
Chúng tôi xin cam đoan nghiên cứu này

không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác đã được công bố tại Việt Nam. Các số
liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn
chính xác, trung thực và khách quan, đã được
sự xác nhận và chấp nhận của cơ sở nghiên
cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Grande I, Berk M, Birmaher B et
al (2016). Bipolar disorder. The Lancet,
387(10027), 1561 – 1572.
2. Hilty D.M, Leamon M.H, Lim R.F et al
(2006). A Review of Bipolar Disorder in Adults.
93


TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Psychiatry (Edgmont), 3(9), 43 – 55.
3. Merikangas KR, Jin R, He J et al (2011).
Prevalence and correlates of bipolar spectrum
disorder in the world mental health survey
initiative. Archives of General Psychiatry,
68(3), 241 – 251.
4. Julita Ś và Alina B (2014). Cognitive
functioning in a depressive period of
bipolar disorder. Archives of Psychiatry and
Psychotherapy, 16(4), 27 – 37.
5. Gallagher P, Gray J.M, Watson S et al
(2014). Neurocognitive functioning in bipolar
depression: a component structure analysis.

Psychological Medicine, 44(5), 961 – 974.
6. Natalia S.K, Joana C.N, Pedro V.M et
al (2016). Cognition and functioning in bipolar
depression. Revista Brasileira de Psiquiatria,
38(3), 201 – 206.
7. Diflorio A và Jones I (2010). Is sex
important? Gender differences in bipolar
disorder. International Review of Psychiatry,

22(5), 437 – 452.
8. Lê Thị Thu Hà, Nguyễn Kim Việt,
Trần Hữu Bình và cộng sự (2018). Nhận xét
một số đặc điểm thực trạng điều trị trầm cảm ở
người bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Y Học
Việt Nam, 463(1), 165 – 169.
9. Michael R. Basso et al (2002).
Neuropsychological Impairment among manic,
depressed, and mixed-episode inpatients with
bipolar disorder. Neuropsychology, 16, 84 – 91.
10. Okada G, Okamoto Y, Morinobu S et
al (2003). Attenuated Left Prefrontal Activation
during a Verbal Fluency Task in Patients with
Depression. Neuropsychobiology, 47(1), 21 –
26.
11. David B D., Russell A.B, Juliana E.P
et al (2005). Dissociable Controlled Retrieval
and Generalized Selection Mechanisms in
Ventrolateral Prefrontal Cortex. Neuron, 47(6),
907 – 918.


Summary
EXECUTIVE DYSFUNCTION IN A DEPRESSIVE PERIOD
OF BIPOLAR DISORDER
Executive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder is common and expressed
as a variety of symproms. However, it has yet to receive much attention in research circles nor
is it commonly assessed in clinical practice. A cross-sectional study was performed by recruiting
34 in-patients at National Institute of Mental Health during 9/2017 – 8/2018 to describe clinical
features of executive dysfunction in a depressive period of bipolar disorder. We obtained the
following results: The rate of executive dysfunction: Abstraction (79.4%), verbal fluency and
psychomotor retardation (70.6%), planning (52.9%), problem solve (47.1%). Executive dysfunction
is more common in the group of patients who have had more than 2 depressive episodes in
the past or the duration of disease is lower than 36 months. This study confirmed that clinical
features of cognitive dysfunction among bipolar depressive patients were diverse and common.
Key words: executive dysfunction, bipolar disorder, bipolar depressive

94

TCNCYH 119 (3) - 2019



×