Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đồ án tốt nghiệp: Nghiên cứu các điều kiện nuôi cấy thu sinh khối và các phương pháp thu hoạch, bảo quản tảo Spirulina platensis

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.49 MB, 72 trang )

Đồ án tốt nghiệp                                         1                        

MỞ ĐẦU
Trong những năm cuối cùng của thế kỉ 20, các nhà sinh học đã phát hiện ra 
các nhóm sinh vật có tốc độ sinh trưởng nhanh. Vi tảo ( Microalgae) là những 
sinh vật bậc thấp có trong sự  chú ý đó vì chúng không chỉ  có những cơ  chế 
đặc thù mà còn sinh trưởng và phát triển cực kì nhanh. Hàng năm có 200 tỉ tấn 
chất hữu cơ được tạo thành trên toàn thế giới, trong số đó 170­ 180 tỉ tấn là do  
tảo tạo thành. Vi tảo chiếm 1/3 sinh khối của thực vật trên trái đất.
Cho đến nay hàng loạt các công nghệ  nuôi trồng, thu hoạch, chế biến sinh 
khối vi tảo, các loại công nghệ này đang không ngừng được hoàn thiện, hạ giá  
thành và nâng cao chất lượng sinh khối, mặt khác sử  dụng vi tảo đang được 
mở rộng trong các lĩnh vực như dùng làm thức ăn bổ dưỡng cho người và thức  
ăn cho động vật, đặc biệt là các ngành nuôi trồng thủy sản, nguồn phân bón  
sinh học, năng lượng sạch, các hóa chất trong công nghiệp và dược phẩm, xử 
lý môi trường.
Tuy  ở  nước ta đã có nhiều nghiên cứu về  loại tảo này nhưng quy mô  ứng 
dụng còn chưa rộng. Hiện tại ở Đà Nẵng vẫn chưa có cơ sở nào sản xuất sinh  
khối để phục vụ cho các ngành thực phẩm và y học, sở dĩ như thế là do thành 
phần môi trường nuôi cấy còn sử  dụng quá nhiều hóa chất nên môi trường  
nuôi cấy đắt, do đó kém kinh tế dẫn đến chi phí đầu tư cao, các điều kiện để 
nuôi cấy cũng chưa tốt nhất và phương pháp thu nhận sinh khối tảo chưa  
được triệt để, hiệu quả  chưa cao. Ngoài ra, cũng chưa có phương pháp bảo 
quản giống tốt trong một thời gian dài để  chủ  động được nguồn giống để 
giảm chi phí sản xuất cho những đợt sau. Trước những lý do như thế chúng tôi 
chọn  đề  tài:  “Nghiên  cứu  các  điều kiện  nuôi  cấy  thu  sinh  khối và   các 
phương pháp thu hoạch, bảo quản tảo   Spirulina platensis”. Nhằm mục 
đích tìm ra môi trường ít thành phần hóa chất, rẻ tiền, phương pháp thu hoạch  

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long




Đồ án tốt nghiệp                                         2                        

tốt và các phương pháp bảo quản giống trong một thòi gian dài để  chủ  động  
trong quá trình nuôi cấy và mang lại tính kinh tế.

PHẦN I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về đối tượng thí nghiệm
1.1.1. Vai trò, vị trí của tảo Spirulina trong công nghệ sinh học (CNSH)  
Công nghệ sinh học là một lĩnh vực công nghệ cao dựa trên nền tảng khoa  
học về  sự  sống, kết hợp với quy trình và thiết bị  kỹ  thuật nhằm tạo ra các 
công nghệ  khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế  bào thực vật và  
động vật để  sản xuất  ở  quy mô công nghiệp các sản phẩm sinh học có chất 
lượng cao phục vụ  cho lợi ích, nhu cầu của con người đồng thời phát triển 
kinh tế­ xã hội và bảo vệ môi trường [30].
Trong tự  nhiên vai trò của giới tảo (Algae) nói chung, nhất là tảo biển với 
vai trò quang hợp gắn giữ cacbonic đã tạo ra khoảng 500 tỷ tấn chất hữu cơ có 
thể  sử dụng được (trong đó có nhiều hoạt chất sinh học quý) và thải ra 90% 
lượng oxy trong bầu khí quyển cần cho sự  hô hấp của người và động vật.  
Chính điều này đã kích thích nghề nuôi tảo biển ra đời và đặc biệt xuất hiện  
Công nghệ  sinh học vi tảo với bộ  3 nổi tiếng là  Chlorella,  Scenedesmus  và 
Spirulina,  chúng có nhiều giá trị  trong công nghiệp thực phẩm, mỹ  phẩm và  
dược phẩm... Trong 3 nhóm tảo trên thì  Spirulina  hiện được chọn để  phát 
triển sản xuất hơn 2 loại kia do 5 ưu thế sau: 
­ Hiệu quả kinh tế cao và góp phần bảo vệ, cải thiện môi trường:  Spirulina 
không những đơn giản trong nhu cầu dưỡng chất mà còn rất hiệu quả trong sử 
dụng năng lượng ánh sáng mặt trời, nước (có thể  dùng nước biển, nước lợ,  


SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         3                        

nước mặn,...)…, tạo ra 16,8 tấn oxy/năm... Điều này giúp bảo vệ môi trường 
khí quyển, giảm hiệu ứng nhà kính (green house). 
­ Giá trị  sử  dụng đã vượt ra khỏi ranh giới truyền thống là dùng làm thực  
phẩm. Theo Thạc sĩ­ Dược sĩ Lê Văn Lăng, giảng viên Trường Đại học Y  
Dược TpHCM, Spirulina là nguồn dinh dưỡng quý của tự nhiên. Nó có đủ các  
thành phần thiết yếu: protein­ lipid­ glucid cùng khoảng 30 vi lượng và hầu 
hết các vitamin cần thiết cho cơ  thể, đáp  ứng hoàn hảo công thức chuẩn về 
chế phẩm dinh dưỡng­ vi lượng khoáng­ vitamin do FAO/WHO công bố và là 
sản phẩm cải thiện suy dinh dưỡng rất tốt cho trẻ em, người già, người bệnh 
sau   phẫu   thuật...   Mặt   khác,   với   các   hoạt   chất:   Phycocyanin,   Sulfolipid,  
Spirulan, Betacaroten, các khoáng vi lượng (coban, kẽm, sắt…) và các vitamin 
cần thiết, tảo Spirulina còn có giá trị dược liệu, giúp cơ thể tăng cường miễn 
dịch, chống lại bệnh tật. Có thể  dùng tảo  Spirulina hỗ  trợ  trong điều trị  các 
bệnh: viêm gan, suy gan, đục thủy tinh thể, suy giảm thị lực, rụng tóc… Song  
song đó, tảo Spirulina cũng có tác dụng trong phòng chống một số  bệnh ung  
thư  do các hoạt chất tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa, bảo vệ  tế  bào, 
chống đột biến gen. Năm 1996­ 1997, một nhóm nhà khoa học người Nhật đã  
phân lập và xác định cấu trúc một hoạt chất mới trong  Spirulina và đặt tên là 
Spirulan (Ca­Sp). Các thử nghiệm đã chứng tỏ Ca­ Sp có tác dụng kháng virus 
HIV type 1 và virus Herpes simplex type 1 [31].
­ Tham gia vào việc xử lý môi trường: ngoài việc cung cấp dưỡng khí oxy, 
Spirulina  còn có khả  năng gắn giữ  mạnh các cation độc như  chì, thuỷ  ngân, 
cadimi,... nên chúng có thể dùng để xử lý chất thải lỏng, xử lý nước thải [29]. 
­ Spirulina có thể là đối tượng chuyển tải các tiến bộ khoa học kỹ thuật rất 

hiện đại trong công nghệ sinh học: 
+ Nuôi định hướng thu các chất có lợi cho dinh dưỡng và trị bệnh cho người 
và động vật. Đã có các tiến bộ về nuôi cấy Spirulina gắn Iod (phòng trị bệnh 
thiếu vi chất iod), gắn Selen, gắn Germani (chất chống oxy hoá, chống lão 
hoá, phòng chống ung thư...)v.v...  Hoặc nuôi với những tiền chất định hướng 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         4                        

cho sinh khối  Spirulina  giàu acid béo cần thiết, giàu beta­caroten. Sự  thành 
công trong tương lai phụ  thuộc vào việc chọn giống Spirulina và tìm tòi công 
nghệ  phù hợp, sẽ  cho những lô/mẻ  sinh khối  Spirulina  rất có giá trị  trong y 
dược. 
+  Spirulina  với công nghệ  chuyển nạp gen: Chuyển nạp gen là kỹ  thuật 
phân lập gen từ cơ thể cho (donor) cấy ghép vào bộ máy di truyền của cơ thể 
nhận (receiver) nhằm tạo ra tính trạng mới cần thiết từ  cơ thể  đó. Kỹ  thuật 
tân tiến này đang được nghiên cứu với Spirulina ở 2 hướng sau: 
Chuyển gen chịu trách nhiệm di truyền tạo phao khí của Spirulina giúp 
vi  sinh vật nổi trên mặt nước dễ  dàng. Ta biết muốn phòng trừ  bệnh sốt rét 
phải diệt muỗi Anopheles stopenis, bệnh sốt xuất huyết phải diệt muỗi  Aedes  
aegypti, bệnh giun chỉ  phải diệt muỗi  Culex quinquefasciatus. Một cách hiệu 
quả cắt đứt vector truyền bệnh này là diệt ấu trùng (bọ gậy, lăng quăng...) của  
chúng. Hiện một số nghiên cứu cho thấy có những vi sinh vật, hoặc vi nấm có 
thể thực hiện được điều này. Tuy vậy, việc phải sống trôi nổi trên mặt nước 
(môi trường ấu trùng các loại muỗi gây bệnh sinh sống) để diệt ấu trùng muỗi 
lại là điểm không có hoặc yếu kém của các vi sinh vật này. Do vậy có thể tách 
gen di truyền tạo phao khí nổi trên mặt nước của  Spirulina ghép vào vi sinh 
vật có ích trên, tạo ra những đặc điểm mong muốn diệt  ấu trùng muỗi gây  

bệnh [1].
Chuyển nạp gen tạo chất dẻo sinh học cho  Spirulina: có thể  ghép vào 
Spirulina  gen tạo chất  polyhydroxyl butylat  (P.H.B), gen này có  ở  vi khuẩn 
Aleutroplus,  để  tạo ra giống  Spirulina  mới có đặc tính phát triển sinh khối 
nhanh, đồng thời chứa P.H.B với hàm lượng thích hợp. Trích ly chất P.H.B để 
sản xuất nhựa thay thế nhựa dẻo (như polystyrene) và chất dẻo mới này dễ bị 
phân huỷ không làm ô nhiễm môi trường v.v... [22]. 
­ Spirulina tương đối thích nghi với mọi quy mô sản xuất: có thể thu hoạch 
từ tự nhiên hoặc nuôi ở quy mô nhỏ (hộ gia đình, làng xã), trong điều kiện bán 

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         5                        

tự  nhiên với kỹ  thuật đơn giản như  nuôi trồng thuỷ  sản, và nuôi  ở  quy mô 
công nghiệp [11].
1.1.2. Phân loại học
Mang nhiều tên gọi khác nhau như  Spirulina, Arthrospira và là một chủ  đề 
được thảo luận nhiều từ  trước đến nay, nhất là khi cái tên “tảo” được nhắc  
đến   lần   đầu   tiên.   Năm   1852,   việc   phân   loại   học   đầu   tiên   được   viết   bởi  
Stizenberger. Ông đưa ra tên loài mới là  Arthrospira  dựa vào cấu trúc chứa 
vách ngăn, đa bào, dạng xoắn. Gomont đã khẳng định những nghiên cứu của  
Stizenberger vào năm 1892, đồng thời Gomont bổ sung thêm loài không có vách  
ngăn là Spirulina và loài có vách ngăn là Arthrospira. Như vậy, tên được công 
nhận là  Arthrospira, nhưng trong những hoạt động khảo sát và nghiên cứu 
Arthrospira được gọi là Spirulina, do đó tên Spirulina được sử dụng phổ biến 
cho đến nay thay cho tên Arthrospira. 
1.1.3. Đặc điểm sinh học của Spirulina 

Loài Spirulina (Arthrospira) platensis thuộc[2]: 
Chi        : Spirulina (Arthrospira) 
Họ        : Oscillatoriceae 
Bộ        : Oscillatoriales 
Lớp      : Cyanophyceae 
Ngành  : Cyanophyta

Hình 1.1: Tảo Spirullina platensis

1.1.3.1. Đặc điểm hình thái 
Tên “Spirulina” xuất phát từ  tiếng Latinh “helix” hoặc “spiral” biểu hiện 
hình dạng xoắn của nó. Spirulina là tảo đa bào, dạng sợi, sống cộng sinh, các 
tế  bào được phân biệt bởi vách ngăn, dạng sợi xoắn hình lò xo không phân  
nhánh, số vòng xoắn lớn nhất là 6­ 8 vòng đều nhau. Đường kính xoắn khoảng 
35­ 50 m, bước xoắn là 60 m, chiều dài sợi tảo có thể  đạt 250 m. Nhiều 
trường hợp Spirulina có kích thước lớn hơn. Các vách ngang chia sợi Spirulina 
thành  nhiều  tế   bào  riêng  rẽ   liên  kết  với   nhau  bằng  cầu  liên  bào.   Sợi   tảo 

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         6                        

Spirulina có khả năng chuyển động và tự vận động theo kiểu trượt quanh trục  
của sợi [13].
1.1.3.2. Đặc điểm cấu tạo 
Tế bào Spirulina có cấu trúc giống với sinh vật Prokaryote thiếu các hạt liên
kết với màng. Thuộc gram âm, thành tế  bào nhiều lớp và được bao bọc bởi  
màng polysaccharide nhầy. Thành tế bào Spirulina không chứa celulose mà hệ 

tiêu hóa con người không phân cắt được. Spirulina có tỷ lệ chuyển hóa quang 
hợp khoảng 10% so với chỉ 3% của các thực vật sống trên cạn như đậu nành. 
Tế bào tảo Spirulina chưa có nhân điển hình, vùng nhân chỉ là vùng giàu axit 
nucleic chưa có màng nhân bao bọc, phân bố trong nguyên sinh chất. Thành tế 
bào  Spirulina  có   cấu   trúc   nhiều   lớp,   không   chứa   celulose   mà   chứa 
mucopolyme, pectin và các loại polysacharid khác. Màng tế  bào nằm sát ngay 
dưới thành tế  bào và nối với màng quang hợp thylakoid tại một vài điểm.  
Spirulina không có lục lạp mà chỉ chứa thylakoid quang hợp nằm rải rác trong 
nguyên sinh chất. Màng thylakoid bao quanh các hạt polyphosphat có đường 
kính   0,5­   1μ  thường   nằm   ở   trung   tâm   tế   bào.   Sắc   tố   quang   hợp   chính   là 
phycocyanin,   bên   cạnh   đó   còn   có   chlorophyll   a.   Ngoài   ra,   tế   bào   Spirulina 
không có không bào thực, chỉ có không bào chứa khí làm chức năng điều chỉnh 
tỉ  trọng tế  bào. Không bào khí có vai trò rất quan trọng trong việc làm cho  
Spirulina nổi lên mặt nước [10].
Spirullina là một chi tảo thuộc ngành tảo lam, tế bào  Spirulina không có ty 
thể  và mạng lưới nội chất, tuy nhiên tế  bào vẫn có ribosome với hệ  số  lắng 
70S   và   một   số   thể   vùi   như   hạt   polyphotphat,   glycogen,   phycocyanin,  
cacboxysome và hạt mesosome [10]. 
Thành tế bào dưới kính hiển vi điện tử hiện lên gồm 4 lớp: từ lớp L 1 đến 
L1

L2

L3

L4

lớp L4 (L1, L2, L3, L4). L1 và L3 chứa vật liệu dạng sợi. L2 là một peptidoglycan 
giống như   ở tế  bào vi khuẩn. L4  được sắp xếp chạy theo chiều dọc của trục  
sợi Spirulina [4].


SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long

Hình 1.2. Lát cắt tế bào Spirulina 


Đồ án tốt nghiệp                                         7                        

Hình 1.2. cũng cho thấy một vách ngăn đang hình thành, vách ngăn này gồm  
ba lớp: L2 kẹp giữa hai L1, có thể hình dung như hình 1.3.
L4
L3
L2
L1
Màng sinh chất

L1 L2 L1

Hình 1.3. Mô hình sắp xếp vách tế bào Spirulina 
Lớp L1 và L3 có chức năng vận chuyển điện tử, do đó hai lớp L2 và L4 tập 
platensis
trung các điện tử đó. Độ dày của mỗi lớp từ 10­15nm, nên độ dày của toàn bộ 
thành tế bào là khoảng 40­ 60nm. Các lớp L1, L3, L4 có độ dày bằng nhau, lớp 
L1 lớn hơn [2]. 
1.1.3.3. Đặc điểm sinh thái
Spirulina là chi tảo lam phân bố  rộng trong đất, nước ngọt, nước lợ, nước  
mặn và suối nước nóng. Đây là một trong khoảng 2500 loài cyanophyta cổ 
nhất, tự dưỡng đơn giản, có khả năng tổng hợp các chất cần thiết cho cơ thể,  
kể  cả  các đại phân tử  phức tạp để  xây dựng tế  bào và có khả  năng cố  định 

đạm rất cao, chúng không thể sống hoàn toàn trong tối… 

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         8                        

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển tảo Spirulina chịu  ảnh hưởng của 
các yếu tố  môi trường. Những yếu tố  như  ánh sáng, nhiệt độ, pH và thành  
phần dinh dưỡng không chỉ   ảnh hưởng đến quang hợp và sản xuất sinh khối 
tế bào mà còn ảnh hưởng tới các hoạt động chuyển hóa của tế bào.
a) Ảnh hưởng của ánh sáng 
Ánh sáng là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quang hợp của các sinh 
vật. Do bản chất tiền nhân của Spirulina nên ánh sáng không ảnh hưởng nhiều 
tới quá trình phát triển. Tuy nhiên,  Spirulina  cũng giống như  nhiều loài tảo 
khác có khả  năng quang tự  dưỡng và phụ  thuộc vào ánh sáng vì đây là nguồn  
năng lượng chính [28].
Hầu hết, các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về  đáp ứng của Spirulina 
đối với ánh sáng là được thực hiện dưới điều kiện phát triển quang tự dưỡng 
bằng việc sử dụng môi trường khoáng và bicarbonate như  một nguồn carbon. 
Từ  các nghiên cứu đó cho thấy sự  phát triển của  Spirulina trở  nên bão hòa  ở 
cường độ  ánh sáng 1µmol m­2  s­1  khoảng bằng 10­ 15% lượng ánh sáng mặt 
trời ở bước sóng 400­ 700nm, giá trị này tùy thuộc vào điều kiện phát triển và  
mối tương quang giữa chlorophyll và sinh khối [28]. Ngoài ra, cường độ chiếu 
sáng còn ảnh hưởng đến các hàm lượng các chất bên trong tế bào tảo. Một số 
nghiên cứu đã nhận định rằng khi cường độ chiếu sáng tăng thì hàm lượng của 
acid béo (PUFA) giảm [26]. 
Theo Seshadri & Thomas (1979), sự tác động của ánh sáng tới  Spirulina là 
bởi hai yếu tố  chính đó là thời gian và cường độ  chiếu sáng. Quá trình nuôi 

cấy ngoài trời thì cường độ  ánh sáng tối hảo cho  Spirulina trong khoảng 20­ 
30klux. Về  thực hành nuôi cấy Spirulina thì cường độ  ánh sáng tối  ưu là 25­ 
30klux, ở khoảng này hoạt tính quang hợp cao nhất, cần điều chỉnh đạt được 
khoảng cường độ chiếu sáng này trong nuôi cấy [11]. Ngoài ra, cường độ ánh 
sáng còn phụ  thuộc vào mật độ  nuôi cấy của tảo, vì khi cường độ  ánh sáng 
cao mà mật độ tảo lớn thì mỗi sợi tảo vẫn nhận được cường độ ánh sáng nhỏ. 
Nhiều loại vi tảo có cường độ  quang hợp bão hoà ở  khoảng 33% tổng lượng  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         9                        

cường độ ánh sáng. Vì vậy trong điều kiện ánh sáng có cường độ cao và thời  
gian chiếu sáng dài, người ta thấy xuất hiện hiện tượng quang  ức chế có thể 
làm tảo chết hoặc làm giảm đáng kể năng suất nuôi trồng [1].
Theo Charenkova C.A (1977) thì thời gian chiếu sáng càng dài thì năng suất 
tảo  Spirulina  càng cao. Năng suất tảo đạt cao nhất khi chiếu sáng liên tục. 
Như vậy tảo Spirulina không có chu kỳ quang [1]. 
b) Ảnh hưởng của nhiệt độ  
Trong khi ánh sáng được xem là nhân tố  môi trường quan trọng nhất cho 
quang hợp của vi sinh vật thì nhiệt độ là nhân tố cơ bản nhất cho sự sống của  
sinh vật. Nhiệt độ ảnh hưởng đến tất cả hoạt động sống của vi sinh vật như 
quá trình trao đổi chất, thành phần dinh dưỡng cũng như  các đặc tính sinh lý  
khác. Nhiệt độ  môi trường luôn là một trong những yếu tố  nhạy cảm  ảnh 
hưởng đến bất kỳ  sinh vật nào. Nhiệt độ  môi trường nuôi là yếu tố  cần đáp 
ứng liên tục, vì rất dễ bị chi phối và tác động bởi điều kiện xung quanh, mức  
độ và thời gian chiếu sáng. Do vậy nhiệt độ là một trong những yếu tố thường  
xuyên được theo dõi trong công nghệ nuôi trồng vi tảo [28]. 
Spirulina phát triển ở nhiệt độ khá cao, chúng có khả năng phát triển mạnh 

ở khoảng nhiệt độ 32­ 400C. Nhiệt độ cực thuận cho nuôi cấy Spirulina là 35­ 
380C.  Ở  nhiệt độ  dưới 250C  Spirulina  phát triển rất chậm,  ở  nhiệt độ  trên 
380C tảo này sẽ  chết rất nhanh [21]. Tuy vậy, trong tự  nhiên người ta phát 
hiện Spirulina ở những suối nước nóng đến 690C.
Ngoài ra, nhiệt độ  còn  ảnh hưởng đến thành phần sinh hóa của tảo. Theo  
một nghiên cứu đã cho thấy rằng:  ở nhiệt độ  350C không ảnh hưởng xấu lên 
sản xuất sinh khối nhưng lại ảnh hưởng tích cực lên sản xuất protein, lipid và  
phenolic. Nhiều chủng khác nhau sẽ  phát triển  ở  các khoảng nhiệt độ  khác 
nhau [28].
Có một mối liên hệ giữa nhiệt độ và ánh sáng trong quá trình nuôi cấy tảo.  
Giống như hai mặt đối lập của một quá trình thống nhất, chúng đều đóng vai 
trò   quan   trọng   quyết   định   đến   năng   suất   và   sinh   khối   của   Spirulina.   Sinh 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         10                        

trưởng của tảo đạt cao nhất với một cường độ  và thời gian chiếu sáng thích  
hợp, kèm theo nó là một chế độ nhiệt tương đối ổn định. 
c) Ảnh hưởng của pH 
pH môi trường là một trong các nhân tố quan trọng trong nuôi cấy Spirulina. 
pH tối ưu cho sự phát triển của chi này là kiềm và kiềm cao. Đây là ưu thế lớn 
giúp Spirulina ít bị lây nhiễm bởi các tảo khác [14]. 
Tuy nhiên, pH là yếu tố nội tại luôn luôn thay đổi, không những do chế độ 
chiếu sáng, nhiệt độ  hàm lượng các chất dinh dưỡng tạo nên mà còn do tác 
động ngược lại của chính trạng thái sinh trưởng của quần thể  tảo. Khi tảo 
phát triển càng mạnh, pH môi trường bị thay đổi và trở  thành yếu tố kìm hãm 
cho sự  sinh trưởng và phát triển. Do đó, pH môi trường quá cao hay quá thấp 
đều làm chậm quá trình sinh trưởng của tảo [20]. 

Theo Trần Văn Tựa và Nguyễn Hữu Thước (1993) thì pH môi trường từ 
8,5­ 9 là pH tối  ưu cho tảo  Spirulina  sinh trưởng và phát triển.  Ở  pH này, 
nguồn cacbon vô cơ  được tảo đồng hóa nhiều nhất. Tuy nhiên  ở  pH= 10­ 11 
Spirulina vẫn có khả  năng phát triển nhưng rất chậm. Một nghiên cứu đã chỉ 
ra rằng mặc dù Spirulina là loài tảo sống trong môi trường kiềm nhưng giá trị 
pH > 10,3 là có hại cho môi trường nuôi cấy [6].
Vì vậy pH được coi là yếu tố  chỉ thị, phản ánh các thành phần nuôi dưỡng 
cung cấp cho môi trường nuôi dưỡng tảo, chủ yếu là nguồn bicarbonat và khí 
CO2 hoà tan [11].
d) Ảnh hưởng của thành phần dinh dưỡng
Spirulina có thể  sống trong môi trường tự  nhiên đến các môi trường nhân  
tạo hoặc nửa nhân tạo bằng bổ  sung các chất khoáng cần thiết vào nguồn 
nước   tự   nhiên:   nước   biển,   nước   suối   khoáng,   nước   khoáng   ngầm,   giếng 
khoan...
Thành phần dinh dưỡng bao gồm cả nguyên tố đa lượng (C, N, P, K, S, Mg,  
Na, Cl, Ca và Fe) và nguyên tố vi lượng (Zn, Cu, Ni, Co,W). Tất cả điều  ảnh 
hưởng đến sự sinh trưởng của tảo. Trong đó, các nguyên tố  vi lượng là thành 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         11                        

phần bắt buộc hay tác nhân kích thích hoạt động của nhiều hệ enzyme, có tác  
dụng thúc đẩy sinh tổng hợp chlorophyll và làm giảm sự phân hủy chlorophyll  
nhờ  làm tăng độ  bền vững của phức hệ  liên kết giữa chlorophyll và protein. 
Ngoài ra, nhiều nguyên tố vi lượng còn làm tăng khả năng tổng hợp carotenoid  
[14]. Các nguyên tố  vi lượng thật sự  cần thiết cho quá trình sinh trưởng của  
tảo, tuy nhiên hàm lượng của chúng trong nước tự  nhiên là rất thấp, có thể 
không cung cấp đủ  cho nhu cầu sinh trưởng của tảo do đó việc bổ  sung vi  

lượng vào môi trường nuôi cấy là hết sức cần thiết. Trong nuôi cấy tảo, vi 
lượng thường được bổ sung với một lượng rất nhỏ vì khi hàm lượng vượt quá 
ngưỡng chịu đựng của vi tảo, chúng có khả năng gây độc cho tế bào [20]. 
1.1.4.  Đặc điểm sinh sản
Spirulina có hai hình thức sinh sản đó là sinh sản sinh dưỡng và sinh sản vô 
tính. Hình thức sinh sản sinh dưỡng được thực hiện bằng cách gãy từng khúc 
của sợi tảo, khúc gãy gọi là khúc tản. Từ  một sợi tảo mẹ, hình thành nên  
những đoạn Necridia (gồm các tế bào chuyên biệt cho sự sinh sản). Trong các  
Necridia hình thành các đĩa lõm  ở  hai mặt và sự  tách rời tạo các hormogonia  
bởi sự  chia cắt tại vị  trí các đĩa này. Trong sự  phát triển, dần dần phần đầu  
gắn tiêu giảm, 2 đầu hormogonia trở nên tròn nhưng vách tế bào vẫn có chiều  
dày không đổi. Các hormogonia phát triển, trưởng thành và chu kì sinh sản  
được lập đi lập lại một cách ngẫu nhiên, tạo nên vòng đời của tảo. Kiểu sinh  
sản này thường gặp  ở  các sợi tảo có dạng chuỗi tế  bào xếp nối nhau. Trong  
thời kì sinh sản tảo Spirulina nhạt màu ít sắc tố xanh hơn bình thường [5, 13].

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long

Hình 1.4. Vòng đời của tảo 


Đồ án tốt nghiệp                                         12                        

Trong một số  điều kiện sống không thuận lợi, Spirulina cũng có khả  năng 
tạo bào tử giống vi khuẩn, đó là hình thức sinh sản vô tính. Bào tử tảo có chứa 
nhiều chất dinh dưỡng  ở dạng dự trữ và được bao bọc bởi một lớp dày, khi 
gặp điều kiện thuận lợi, chúng sẽ  tạo thành sợi mới. Chu kỳ  phát triển của  
tảo Spirulina rất ngắn, nuôi trong phòng thí nghiệm thì thời gian thế hệ của nó  
chỉ kéo dài trong 24 giờ, ở điều kiện tự nhiên là khoảng 3­ 5 ngày [7].

1.1.4. Thành phần dinh dưỡng của tảo Spirulina
­ Hàm lượng protein trong Spirulina thuộc vào loại cao nhất trong các thực 
phẩm hiện nay 60­ 70% trọng lượng khô, cao hơn trong thịt bò 3 lần, trong đậu 
tương 2 lần. Cứ 1kg tảo xoắn Spirulina chứa 55mg vitamin B1, 40mg vitamin 
B2, 3mg vitamin B6, 2mg vitamin B12, 113mg vitamin PP, 190mg vitamin E, 
4.000mg caroten trong đó β­Caroten khoảng 1700mg (tăng thêm 1000% so với 
cà rốt), 0,5mg acid folic, inosit khoảng 500­ 1.000mg. Phần lớn ch ất béo trong  
Spirulina  là acid béo không no, trong đó acid linoleic 13.784mg/kg,  γ­linoleic 
11.980mg/kg. Đây là điều hiếm thấy trong các thực phẩm tự nhiên khác. Hàm  
lượng khoáng chất có thể thay đổi theo điều kiện nuôi trồng, thông thường sắt 
là   580­   646mg/kg   (tăng   thêm   5.000%   so   với   rau   chân   vịt),   mangan   là   23­ 
25mg/kg, Magie là 2.915­ 3.81mg/kg, selen là 0,4mg/kg, canxi, kali, phospho 
đều khoảng là 1.000­ 3.000mg/kg hoặc cao hơn (hàm lượng canxi tăng hơn sữa 
500%). Hàm lượng cacbonhydrat khoảng 16,5%, hiện nay đã có những thông 
tin dùng glucose chiết xuất từ  tảo   Spirulina  để  tiến hành những nghiên cứu 
chống ung thư [34, 35]. 
­   Tảo  Spirulina  có   chứa   phong   phú   các   acid   amin   cần   thiết   như   lysin,  
threonin... rất quan trọng cho trẻ  đặc biệt là trẻ  thiếu sữa mẹ. Hàm lượng  
khoáng chất và các nguyên tố  vi lượng phong phú có thể  phòng tránh bệnh 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         13                        

thiếu máu do thiếu dinh dưỡng một cách hiệu quả  và cũng là nguồn bổ  sung  
dinh dưỡng rất tốt cho trẻ lười ăn [34].
­ Trong tảo Spirulina có chứa nhiều loại chất chống lão hóa như  β­caroten, 
vitamin E, acid γ­linoleic. Những chất này có khả  năng loại bỏ các gốc tự  do 
thông qua tác dụng chống ôxi hóa, làm chậm sự lão hóa của tế bào, đồng thời 

sắt, canxi có nhiều trong tảo vừa dễ hấp thụ vừa có tác dụng phòng và hỗ trợ 
điều trị các bệnh thường gặp ở người già như thiếu máu, xốp xương...[34].
­  Có thể  dùng tảo  Spirulina  hỗ  trợ  trong điều trị  bệnh viêm gan, suy gan, 
bệnh nhân bị cholesterol máu cao và viêm da lan tỏa, bệnh tiểu đường, loét dạ 
dày tá tràng và suy yếu hoặc viêm tụy, bệnh đục thủy tinh thể và suy giảm thị 
lực,   bệnh  rụng   tóc.  Với   liều   dùng  vừa   phải,  Spirulina  làm  cân   bằng   dinh 
dưỡng, tổng hợp các chất nội sinh, tăng hormon và điều hòa sinh lý [34]. 
­ Tảo tiêu diệt được Candida albicans, một loại nấm thường kí sinh trong 
đường  ruột  của  nạn nhân AIDS.  Hiện  nay  Spirulina  còn  được  nghiên cứu 
invitro, để  ngăn chặn sự  tấn công của virus HIV. Ngoài ra, tảo  Spirulina  có 
những tác dụng đã và đang được các nhà khoa học nghiên cứu [32, 33, 34].
1.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina 
1.2.1. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina trên thế giới 
Người ta bắt đầu biết đến tảo  Spirulina  qua loại thức ăn Tecuitlatl của 
người dân Aztec (Mêhicô) và bánh Dihé của bộ tộc Kanembu (Cộng hòa Chad 
và Niger). Việc phát hiện và phát triển tảo  Spirulina ra khắp thế giới gắn liền  
với lịch sử  tìm ra châu Mỹ  của Christophe Colomb năm 1492. Mãi đến năm 
1960, khi Leonard và Comperé (người Bỉ) phân tích và công bố  giá trị  dinh 
dưỡng của Tecuitlatl và Dihé chứa hàm lượng protein cao thì Spirulina  được 
giới khoa học quan tâm nhiều hơn. Năm 1963, Giáo sư  Clement thuộc Viện  
nghiên cứu dầu hỏa Pháp là người đầu tiên nghiên cứu nuôi tảo  Spirulina  ở 
quy mô công nghiệp thành công. Năm 1967, nghiên cứu này đã được triển khai  
tại Công ty Sosa Texcoco  ở  Mêhicô,  Spirulina  đã được nuôi trồng  ở  quy mô 
lớn trên suối nước khoáng giàu bicacbonat. Tiếp sau đó, hàng loạt xí nghiệp 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         14                        


sản xuất tảo Spirulina đã xuất hiện  ở  Mỹ,  Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn 
Quốc, Trung Quốc,…[11]. 
Nhu cầu về các chất có giá trị cao trong tảo  Spirulina dùng để làm thuốc và 
thực phẩm chức năng ngày càng tăng. Viện Nghiên cứu truyền nhiễm virus, 
trường Y khoa Harvard, Earthrise Farms (California) gần đây công bố  nghiên 
cứu của họ  về  khả  năng  ức chế  sự  nhân lên của virus HIV­ 1 trong dòng tế 
bào   T   của   nước   chiết   từ  Spirulina.   Nếu   một   người   sử   dụng   2­   3g   tảo  
Spirulina sẽ giúp tăng cường sức khỏe và khả năng tự bảo vệ của cơ thể [27].  
Tảo lam  Spirulina platensis  có thể  là chỉ  thị  tốt nhất cho một vài loại nước 
thải. Spirulina có khả  năng loại bỏ  kim loại nặng cadimi trong nước thải rất 
tốt, do độ hấp thụ cũng như hiệu suất hấp thụ kim loại của nó rất cao [29]. 
Ngoài các hướng nghiên cứu đã được chỉ  ra  ở  trên, hiện nay đã có nhiều  
công bố thông báo về khả năng chuyển gen ở tảo Spirulina bằng việc áp dụng 
công nghệ gen, kỹ thuật DNA tái tổ hợp đang được thực hiện ở Nhật Bản và 
một số  nước, nhằm mục đích tạo ra những chủng giống Spirulina  có những 
đặc tính mong muốn cho định hướng ứng dụng như tăng cường khả năng tổng  
hợp acid γ­ linolenic hoặc là tạo chất dẻo sinh học dễ phân hủy…[22]. 
Việc   sử   dụng  tảo  Spirulina  platensis  trong   các   nghiên  cứu  về   vũ   trụ   là 
hướng có triển vọng. Ý tưởng về  vi hệ  sinh thái tự  cung tự  cấp “MELISSA” 
(Micro Ecological Life Support System Alternative) cho các chuyến du hành vũ 
trụ sử dụng tảo Spirulina platensis để chuyển nước thải, CO2, phân, nước tiểu 
thành sinh khối tảo dinh dưỡng, H2O sạch và O2 cung cấp lại cho người đang 
được NASA (Cơ quan hàng không và vũ trụ Hoa Kỳ) thử nghiệm ở dạng pilot  
[24]. 
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và nuôi trồng tảo Spirulina ở Việt Nam
Ở  Việt Nam, tảo Spirulina được nhập nội từ  Pháp năm 1972 và trở  thành 
đối tượng nghiên cứu sinh lý, sinh hóa, tại Viện Sinh vật học (nay là Viện  
Công  nghệ   sinh  học)   do  cố   Giáo  sư­  TSKH.   Nguyễn  Hữu  Thước   chủ   trì.  
Những thí nghiệm nghiên cứu về tác động của ánh sáng, nhiệt độ, pH đã cho 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 

Long


Đồ án tốt nghiệp                                         15                        

phép đẩy nhanh quá trình thích  ứng của tảo này  ở  điều kiện Việt Nam. Các 
nghiên cứu tác động của các nguyên tố  khoáng lên sinh trưởng và quang hợp 
của tảo Spirulina là cơ sở cho việc thiết lập những  môi trường dinh dưỡng rẻ 
tiền, thích hợp cho nuôi trồng chúng. Chính trên nền môi trường này,  Spirulina 
đã được đưa vào thử nghiệm nuôi trồng đại trà tại Hà Nội, Bình Thuận, Bến 
Tre, Thành phố Hồ Chí Minh [7].
Vào đầu thời điểm năm 1980,  ở  Thuận Hải, hai sản phẩm   Spirulina  đã 
được xí nghiệp dược phẩm TW24 tung ra thị  trường dưới tên gọi “Linavina” 
và “Lactogyl” để làm thuốc bổ dưỡng. Sinh khối  Spirulina cũng được các đơn 
vị  như  bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện phụ  sản Từ  Dũ, bệnh viện tỉnh 
Thuận Hải, trung tâm dinh dưỡng trẻ  em thành phố  Hồ  Chí Minh tiến hành 
thử nghiệm chống suy dinh dưỡng ở trẻ em và người già [11, 18]. 
Trong khoảng thời  gian 1981­ 1985,  Phòng Công  nghệ   Tảo­ Viện Công 
nghệ  sinh học đã hợp tác chặt chẽ  với Bộ  môn Hóa Công nghệ  trường Đại 
học Bách khoa Hà Nội và Công ty Công nghiệp tỉnh Thuận Hải (nay là tỉnh  
Bình Thuận) để  triển khai nuôi trồng   Spirulina  ở  quy mô lớn tại suối nước  
khoáng Vĩnh Hảo giàu bicacbonat và các chất khoáng khác, tận dụng gió, ánh 
sáng, nhiệt độ  cao quanh năm. Ban đầu, Spirulina được nuôi trồng  ở  quy mô 
60 bể  (mỗi bể  45m3) với năng suất 8­ 10g khô/m2/ngày. Cũng trong thời gian 
này, hàng loạt nghiên cứu  ứng dụng sinh khối Spirulina cho gia cầm, cá, vịt, 
ong, tằm cũng đã được thực hiện. 
Năm 1994, Nguyễn Thị  Đệ  đã tiến hành nghiên cứu vai trò và một số  tính  
chất của phycobiliprotein chính trong tảo Spirulina [3,17]. 
Năm 1996, Đặng Đình Kim, Đặng Hoàng Phước Hiền, Dương Trọng Hiền 
đã   khẳng   định   khả   năng   ứng   dụng   của   phycobleu   tách   chiết   từ   Spirulina 

platensis cho bệnh nhân ung thư. Phycobleu có tác dụng nâng cao thể trạng cho 
bệnh nhân ung thư vùng đầu, cổ trong thời gian chiếu xạ hoặc sau phẫu thuật  
và loại sản phẩm này không gây phản ứng phụ nào [15]. 

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         16                        

Năm 1997, một nhóm nhà nghiên cứu đã thử nghiệm một số đặc điểm sinh  
lý, sinh hóa của Spirulina platensis trong điều kiện chịu mặn NaCl và đã kết 
luận rằng hàm lượng chlorophyll và carotenoid có khuynh hướng tăng khi tăng 
nồng   độ   trong   môi   trường.   Như   vậy   muốn   sản   xuất  nhiều   chlorophyll   và 
carotenoid thì trong môi trường nuôi cấy có thể  bổ  sung thêm một ít muối 
NaCl [12]. Năm 2008, Hoàng Sỹ  Nam, Đặng Diễm Hồng đã tiến hành nuôi 
trồng thử  nghiệm 2 chủng tảo  Spirulina platensis CNT  và  Spirulina platensis  
C1  trong các loại nước khoáng Thạch Thành­ Thanh Hóa, Thanh Tân­ Thừa 
Thiên Huế và Thanh Liêm­ Hà Nam đã cho kết quả là cả  3 loại nước khoáng 
điều có thể  sử  dụng để  nuôi trồng tảo, trong đó loại nước khoáng  ở  Thanh  
Hóa thì cho chi phí nuôi tảo giảm được một nửa mà chất lượng tảo vẫn đảm  
bảo để làm thực phẩm cho người và động vật nuôi [9]. 
1.3. Các vấn đề trong nuôi tảo Spirulina platensis 
Trước tình hình nhu cầu sử dụng tảo  Spirulina trong các lĩnh vực khác nhau 
ngày càng tăng ở Việt Nam, song lượng sinh khối tảo này sản xuất ra vẫn còn  
chưa đáp ứng đủ, do đó việc lựa chọn, tạo đột biến được những chủng giống  
tảo Spirulina tốt là điều kiện trước tiên. Ngoài ra, phải tìm được môi trường  
dinh dưỡng thích hợp, rẻ  tiền để  nuôi trồng loài tảo này  ở  quy mô lớn, phù  
hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam nhằm không ngừng nâng cao năng suất  
và chất lượng sinh khối tảo là điều cần được quan tâm và có ý nghĩa thực tiễn  

to lớn.
*Spirulina sản xuất ra đường (carbohydrate hoặc saccharide) trong suốt quá 
trình chúng quang hợp. Khi nồng độ các chất này trở nên dư thừa trong cơ thể,  
chúng sẽ tiết ra môi trường. Vì những chất đường nhầy nên khi sợi tảo trườn 
lên sẽ tạo ra khối nhầy và các sợi tảo sẽ không tiếp xúc được với môi trường  
dinh dưỡng nên  chúng sẽ bị chết vì đói. Chúng ta phải cảnh giác với 3 nguyên 
nhân dẫn đến việc sản sinh đường quá mức, đặc biệt khi nhiệt độ cao đe dọa  
quang   phân   giải.   Thứ   hai   là   thiếu   nitrogen   phức   hợp   trong   môi   trường   vì 
nitrogen phức hợp trong tế  bào được sử  dụng để  chuyển hóa polysaccharide  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         17                        

thành protein. Khi chúng không được chuyển hóa thành protein thì chúng sẽ 
tiết ra môi trường. Và sự  thừa bicarbonate hoặc thiếu sulfur trong môi trường 
cũng dẫn tới làm sản sinh đường dư thừa [12].
*Các vi sinh vật nhiễm tạp:
­ Động vật chân chèo (Rotifers) kích thước từ 100­ 2mm 
Đôi khi  một  số   động  vật chân chèo rơi   vào trong  môi  trường  và   chúng 
thường sử dụng tảo làm thức ăn. Vào ban đêm, tảo tiêu thụ oxygen và sản sinh 
ra CO2, khí này có tác dụng đầu độc động vật. Vì vậy, nên dừng khuấy vào 
ban đêm và tảo sẽ  sử  dụng oxygen hòa tan và do đó động vật thiếu oxygen 
chúng sẽ bị chết. Cách khác để hạn chế động vật là sử dụng chúng. Dùng một 
lưới dài, hình túi (mắt lưới đường kính 10m) gắn bên trong bể, tại các góc bên  
phải theo hướng di chuyển của môi trường nuôi cấy như  vậy các động vật  
này sẽ bị giữ lại trên lưới. Những động vật này là thức ăn rất tốt cho tôm hoặc 
cá con [12, 38] .
­ Amoeba 

Những loài này khác với động vật nguyên sinh  ở  chỗ  chúng ăn tảo. R.R. 
Kudo đã mô tả 74 loài amoeba khác nhau. Có một loài trong số chúng gây nguy  
hiểm cho người đó là Entamoeba histolytica. Chúng lan truyền bằng các bào tử 
“hình trứng”, các bào tử  này bị  chết trong nước nhiệt độ  450C trong thời gian 
1h và  ở  nhiệt độ  550C trong ít giây. Nhiệt độ  bên trong của thiết bị  sấy sử 
dụng năng lượng mặt trời dao động từ  50­600C và qúa trình làm khô diễn ra 
trong suốt 4h, vì vậy nguy cơ tiềm  ẩn từ  những sinh vật loại này bị  diệt trừ 
gần như tuyệt đối [12]. 
­ Tảo 
Môi trường nuôi cấy còn bị  nhiễm các loại tảo khác. Nhưng do nồng độ 
muối, pH cao của môi trường, do đó thường trở nên không thuận lợi với đa số 
các loài tảo. Ở nồng độ muối đạt 20 g/l hầu như các loài tảo bị tiêu diệt. Tuy 
nhiên, loài tảo silic Navicula, tảo xanh lục, và tảo lục Chlorella vẫn sống sót 
được trong các bể  nuôi  Spirulina. Chúng thường sống  ở  đáy bể  và nếu như 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         18                        

mật độ  của  Spirulina  trở  nên dày đặc thì  ức chế  các tảo khác do ánh sáng 
không xuống được tới đáy. Trong trường hợp chúng phát triển mạnh thì người  
ta sẽ  dừng khuấy, thu vớt sinh khối tảo  Spirulina trên bề mặt, chuyển chúng 
sang bể khác, tiếp theo rửa sạch bể để loại bỏ tảo nhiễm tạp [12, 38]. 
*Môi trường nuôi cấy sau khi thu hoạch có mùi tanh nồng nếu thải ra môi 
trường sẽ bị ô nhiễm vì có tính kiềm mạnh vì vậy cần xử lý trước khi thải ra  
ngoài.
1.4. Mật rỉ (hay rỉ đường)
Mật rỉ   là  sản  phẩm  cuối  cùng  của  quá  trình sản xuất  đường mà  từ   đó 
đường  không  thể  kết  tinh  một  cách kinh  tế  nữa  bởi  các  công nghệ   thông 

thường. Có hai loại rỉ  đường: rỉ  đường mía và rỉ  đường củ  cải. Ở  Việt Nam 
chỉ  dùng rỉ  đường mía. So với rỉ  đường củ  cải thì rỉ  đường mía có lượng 
saccharose   thấp   hơn   nhưng   lượng   đường   khử   cao   hơn .   Rỉ   đường   thường 
chiếm khoảng 3­ 5% trọng lượng của mía ép hay 100 tấn mía sẽ  tạo ra 3­ 5 
tấn rỉ  đường.  Thành phần của rỉ  đường mía phụ  thuộc vào giống mía, thổ 
nhưỡng, điều kiện canh tác và công nghệ sản xuất. 
Rỉ đường mía thu được khi chế biến đường thô là một hỗn hợp phức tạp có  
chứa các đường lên men, các chất hữu cơ, chất có chứa nitơ cũng như các hợp 
chất vô cơ. Trong rỉ  đường có 15­ 20% là nước, 80­ 85% chất khô hoà tan.  
Trong chất khô có từ  25­ 40 % là đường, trong  đó saccharose chiếm 30­35%,  
đường glucose, fructose chiếm 15­ 20%, còn lại những chất không phải là  
đường hoà tan trong nước gồm có 30­ 32% là các chất hữu cơ  như  pectin,  
furfurol, acid hữu cơ, caramen, các chất màu, acid amin, vitamin, chất kích 
thích sinh trưởng và 18­ 20% là chất vô cơ có các ion: K +, Na+, Cl­, Ca2+, Mg2+, 
SO32­ … [37].
Tuy nhiên, rỉ đường cũng có những đặc điểm không phù hợp cho quá trình 
nuôi cấy. Muốn sử dụng chúng cho quá trình nuôi cấy đòi hỏi phải có các quá 
trình xử lý thích hợp. Các đặc điểm cần lưu ý mật rỉ bao gồm: 

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         19                        

­ Rỉ đường thường có màu sẫm. Màu này khó bị phá huỷ trong quá trình nuôi  
cấy. Sau nuôi cấy chúng sẽ bám vào sinh khối sinh vật và bám vào sản phẩm. 
Việc tách màu ra khỏi sinh khối và sản phẩm thường rất tốn kém và rất khó 
khăn.  Vì vây phải xử lý trước khi tiến hành quá trình nuôi cấy. 
­ Hàm lượng đường khá cao (thường nằm trong khoảng 40­ 50%). Lượng 

đường này chủ yếu là saccharose nên khi tiến hành lên men phải pha loãng tới  
nồng độ thích hợp. 
­ Đặc điểm gây khó khăn lớn nhất cho quá trình nuôi cấy là hệ  keo trong  
mật rỉ. Keo càng nhiều thì khả năng hoà tan oxy càng kém và khả năng trao đổi 
chất của oxy càng kém. Do đó công việc quan trọng nhất khi sử dụng mật rỉ là  
phải phá hệ keo này.
­ Vì rỉ  đường là chất dinh dưỡng khá lý tưởng nên chúng rất dễ  bị  vi sinh  
vật xâm nhập và phát triển. Như vậy chất lượng mật rỉ cũng dễ thay đổi theo 
thời gian bảo quản. 
Để giải quyết những đặc điểm không thuận lợi có trong mật rỉ đối với quá 
trình lên men, người ta thường sử dụng acid sunfuric đậm đặc với lượng 3,5kg  
cho một tấn mật rỉ. Khi cho H2SO4 vào mật rỉ, ta có ba cách thực hiện quá trình 
xử lý này : 
+ Cách thứ  nhất: Khi cho 3,5kg H2SO4 vào một tấn mật rỉ, người ta khuấy 
đều ở nhiệt độ thường trong thời gian 24h, sau đó ly tâm thu dịch trong. 
+ Cách thứ hai: Khi cho 3,5kg H2SO4 vào một tấn mật rỉ, người ta đun toàn 
bộ lên 850C và khuấy đều liên tục trong 6h, sau đó ly tâm thu dịch trong. 
+ Cách thứ ba: Cho H2SO4 đến khi pH của mật rỉ đạt được giá trị là 4, người 
ta đun nóng đến 120­ 1250C trong một phút để các chất vô cơ kết tủa, sau đó ly 
tâm thu dịch trong.
Thực hiện một trong ba cách trên sẽ thu được dịch mật rỉ đã loại thể keo và  
màu. Từ  mật rỉ  đã qua xử  lý này đem pha chế  thành các loại môi trường có 
nồng độ  khác nhau.. Tuy nhiên giá trị  của mật rỉ  trong quá trình nuôi cấy thu  
nhận sinh khối không chỉ  do lượng đường saccharose có trong mật rỉ  mà còn  
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         20                        


do các loại muối khoáng, các chất kích thích sinh trưởng và các thành phần  
khác quyết định [15].
1.5. Giới thiệu về hệ thống ánh sáng đèn Led trong nuôi cấy tảo
Vấn đề môi trường đang là thách thức lớn của nhân loại. Việc thải khí CO2 
của các nhà máy điện sử  dụng nhiên liệu hóa thạch được coi là một trong  
những nguyên nhân chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính làm cho khí hậu nóng dần 
lên, dẫn đến hàng loạt những biến đổi khí hậu trên thế giới trong những năm 
gần đây. Do vậy, tiết kiệm điện năng là vấn đề  của tất cả  các quốc gia trên  
thế  giới không phân biệt là nước giàu hay nghèo. Tiết kiệm điện năng trước  
hết là sử  dụng hợp lý các thiết bị  tiêu thụ  điện trong đó có các thiết bị  chiếu  
sáng, tạo ra môi trường ánh sáng tiện nghi cho con người mà còn tiết kiệm chi 
phí cho điện năng tiêu thụ  và các chi phí khác. Nhưng trong hoàn cảnh thiếu  
hụt điện năng như bây giờ, đèn Led là lựa chọn số 1, vừa bởi hiệu quả chiếu 
sáng cao, vừa bởi hiệu quả tiết kiệm điện [16].  
LED là viết tắt của Light­Emitting­Diode có nghĩa là “đi­ốt phát sáng” là  
một nguồn sáng phát sáng khi có dòng điện tác động lên nó. Được biết tới từ 
những năm đầu của thế kỷ 20, công nghệ LED ngày càng phát triển từ những  
diode phát sáng đầu tiên với ánh sáng yếu và đơn sắc đến những nguồn phát  
sáng đa sắc, công suất lớn và cho hiệu quả chiếu sáng cao.

Hình 1.5: Đèn Led và hệ thống đèn Led xanh dùng trong nuôi tảo
Hoạt động của LED dựa trên công nghệ bán dẫn. Trong khối điốt bán dẫn, 
electron chuyển từ trạng thái có mức năng lượng cao xuống trạng thái có mức 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         21                        

năng lượng thấp hơn và sự  chênh lệch năng lượng này được phát xạ  thành  

những dạng ánh sáng khác nhau. Màu sắc của LED phát ra phụ thuộc vào hợp 
chất bán dẫn và đặc trưng bởi bước sóng của ánh sáng được phát ra.
Một đặc điểm của đèn LED là ít tiêu hao năng lượng và không nóng. Bóng 
đèn truyền thống, đèn neon, đèn halogen... đều cần từ  110­ 220V mới cháy 
được, trong khi đèn LED trắng chỉ cần từ  3­ 24V để  phát sáng.  Nhiệt độ làm 
việc của bóng đèn LED cao hơn nhiệt độ môi trường khoảng 5­ 80C, thấp hơn 
so với đèn huỳnh quang thông thường là khoảng 13­ 250C. Đèn LED có hiệu 
suất sáng cao hơn, do đó tiết kiệm khoảng 75% điện năng so với các đèn chiếu  
sáng thông thường. LED còn có tính chất sáng nhanh, tắt nhanh nên khi nhiệt  
chưa tạo ra thì đã ngắt dòng điện, cho nên nhiệt độ  tỏa ra không nhiều (nhiệt 
là nguyên nhân chính làm giảm tuổi thọ cho các thiết bị chiếu sáng). Đèn LED 
có tuổi thọ rất cao vượt qua 50.000 giờ (tương đương với 6 năm thắp sáng liên  
tục). Chất lượng ánh sáng thân thiện, không tia cực tím, không bức xạ tia hồng  
ngoại, phát nhiệt của ánh sáng thấp, không chứa thủy ngân và những chất có 
hại… không nhấp nháy, không gây nhức mỏi mắt [36].
Do ít tiêu hao năng lượng nên đèn LED có thể sử dụng ở vùng sâu vùng xa  
mà không cần nhà máy phát điện công suất cao. Đèn LED trắng có thể  sử 
dụng với pin mặt trời và gần đây nhất với pin nhiên liệu chạy bằng hỗn hợp  
nước và rượu. Đèn pin dùng LED trắng có thể  sử  dụng dễ  dàng khi bị  mất 
điện, vì chỉ cần vài cục pin vẫn có thể thắp sáng được đèn.
Hiện nay đèn Led được sử  dụng trong rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu về 
quang sinh học như  là sự  tổng hợp chlorophyll ( Tripathy và Brown, 1995), 
quang hợp (Tennessen và cộng sự, 1994) và phát sinh hình thái ( Hoenecke và  
cộng sự, 1992; Robin và cộng sự, 1994) [16].
Một vài loại cây trồng được báo cáo là đã trồng thành công dưới hệ  thống  
Led như: cây tiêu, dưa, lúa mỳ, bó xôi ( Bula và cộng sự, 1991; Hoenecke, 
1992; Brown và Schuerger, 1994; Yanagi và Okamoto, 1994), những cây khoai  
tây nuôi cấy trong ống nghiệm ( Miyashita và cộng sự, 1995) [16].
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long



Đồ án tốt nghiệp                                         22                        

Từ  1996 đến 2007, Dương Tấn Nhựt và cộng sự  đã  ứng dụng thành công  
hệ  thống phát sáng Led trên một số loại cây trồng như  dâu tây, bạch đàn, hồ 
điệp,   lan,   cúc…Những   cây   trồng   nuôi   cấy   dưới   hệ   thống   đèn   Led   không 
những sinh trưởng phát triển tốt  ở  điều kiện invitro mà còn cả   ở  điều kiện  
exvitro. Những nghiên cứu về  giải phẫu học, quang hợp cũng chứng minh 
rằng những cây nuôi cấy dưới hệ thống đèn Led thì tốt hơn khi so sánh với hệ 
thống chiếu sáng bằng đèn neon.

PHẦN II
 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian tiến hành đề tài
2.1.1.   Địa   điểm:   Phòng   thí   nghiệm  bộ   môn   công  nghệ   sinh  học   khu  A  
trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng. 
2.1.2. Thời gian tiến hành đề tài: Từ 11/03/2012­  01/06/2012
2.2. Vật liệu nghiên cứu, dụng cụ và thiết bị thí nghiệm, hóa chất
2.2.1. Vật liệu nghiên cứu 
­ Giống tảo Spirulina platensis  được bảo quản tại phòng thí nghiệm công 
nghệ   sinh   học­   khoa   Hóa­   trường     Đại   học   Bách   Khoa   Đà   Nẵng   ngày 
21/05/2011.
­ Giống tảo Spirulina platensis được mua tảo mua ở Phòng công nghệ Tảo 
viện Khoa học và Công nghệ  Việt Nam vào 15/03/2012. Giống  ở  dạng dung 
dịch được đựng trong chai nhựa.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long



Đồ án tốt nghiệp                                         23                        

2.2.2. Dụng cụ và thiết bị phục vụ thí nghiệm
­ Các dụng cụ: Đĩa petri,  ống nghiệm, pipet, lọ  penicilline, chai thủy tinh  
500ml, bình tam giác, bể  nuôi, que cấy trang, que cấy vòng, đèn cồn, đầu típ,  
micropipet,  ống eppendof… tại phòng thí nghiệm Công nghệ  sinh học­ Khoa  
Hóa­ Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng.
­ Thiết bị, máy móc thuộc phòng thí nghiệm Công nghệ  sinh học và Công 
nghệ thực phẩm, Khoa Hóa, Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng.
2.2.3. Hóa chất
2.2.3.1. Môi trường Zarrouk [10] 
Bảng 2.1. Thành phần hóa chất để pha 1 lít môi trường Zarrouk:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
STT
9
1
10

Thành phần
K2HPO4
NaNO3
K2SO4

NaCl
MgSO4.7H2O
CaCl2.2H2O
FeSO4.7H2O
EDTA
Thành ph
NaHCO3ần
H3BO
Vi lượ
ng A
3 5

Khối lượng (g/l)
0,50
2,50
1,00
1,00
Bảng   2.2. 
0,20
Thành phần vi 
0,04
0,01
lượng A5:
0,08
Số l16,8
ượng mg/100ml
1ml 286

2


MnSO4.7H2O

250

3

ZnSO4.7H2O

22,2

4

CuSO4.5H2O

7,9

5

Na2MoO4.2H2O

2,1

SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         24                        

2.2.3.2. Môi trường rỉ đường [1]
Rỉ đường có nhiều  ưu điểm để  tạo môi trường nuôi cấy vi sinh vật vì sau  

khi qua xử  lý màu và hệ  keo, bắt đầu tiến hành pha môi trường nuôi cấy 
Spirulina plantensis. 
Bảng 2.3. Thành phần môi trường rỉ đường
STT
1
2

Thành phần
Rỉ đường
NaHCO3

Đơn vị tính
ml/lít
g/lít

Lượng
0,75; 1; 1,5
16,8

2.2.3.3. Các hóa chất chuyên dùng khác:  Như  các hóa chất để  tách chiết 
chlorophyll,   protein,   bảo   quản   giống   của   tảo   Spirulina  như:   cloroform, 
methanol, glycerol...
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp hoạt hóa giống được bảo quản trong Glycerol và 
đông khô tại phòng thí nghiệm bộ môn Công nghệ sinh học
Chuẩn bị môi trường Zarrouk theo bảng 2.1 và bảng 2.2 phân phối vào bốn  
ống nghiệm đã thanh trùng, cấy giống tảo được bảo quản (21/05/2011) trong  
Glycerol và đông khô (được bảo quản trong tủ  lạnh đông sâu hiệu Sanyo  ở 
­210C).   Tiến   hành   hoạt   hóa   giống   ở   máy   nuôi   cấy   lắc   hiệu   Model   Grant  
GLS400 với điều kiện lắc 150 vòng/phút ở 350C trong 24h và 48h.

2.3.2. Quan sát hình dạng giống tảo hoạt hóa và giống tảo  mua ở Phòng 
công nghệ Tảo viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Các mẫu tảo sau thời gian hoạt hóa được đem đi quan sát hình thái dưới 
KHV quang học hiệu Model Olympus CH2 ở các vật kính 10x và vật kính 40x. 
Sau đó chụp ảnh lại và mô tả đặc điểm hình thái.
2.3.3. Khảo sát môi trường nuôi cấy 
Thí nghiệm đơn yếu tố  được bố  trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 
bốn nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được tiến hành nuôi trong 3 bình serum và  
tiến hành lặp lại 3 lần. 
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


Đồ án tốt nghiệp                                         25                        

Khảo sát  ảnh hưởng của các loại môi trường nuôi cấy khác nhau lên sự 
tăng sinh tảo  Spirulina. Cấy 30% tảo giống  Spirulina  vào 250ml môi trường 
trong bình serum loại 500ml nuôi  trong các điều kiện môi trường khác nhau  
bao gồm: môi trường 1: môi trường cơ  bản   (Zarrouk), môi trường 2: môi 
trường 0,75ml rỉ đường + 16,8g NaHCO 3, môi trường 3: 1ml rỉ đường + 16,8g 
NaHCO3, môi trường 4: 1,5ml rỉ đường + 16,8g NaHCO3.
Các điều kiện nuôi cấy được giữ   ổn định: nhiệt độ  phòng nuôi: 34­ 37 0C, 
pH = 8­ 11, thể tích môi trường nuôi cấy 300ml, chiếu sáng liên tục 24/24. Môi  
trường nuôi cấy và dụng cụ nuôi được hấp khử  trùng bằng Autoclave ở 1atm  
trong 30 phút. Tiến hành đo OD bằng máy đo quang hiệu Pharmacia Biotech  
Ultrospec 2000 để  xác định tốc độ  sinh trưởng của tảo trong các môi trường 
khác nhau.
2.3.4. Khảo sát các loại ánh sáng  ảnh hưởng lên sự  sinh trưởng, phát 
triển của tảo
Thí nghiệm đơn yếu tố được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên gồm hai  

nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được tiến hành nuôi trong 3 bình serum và tiến  
hành lặp lại 3 lần. 
Khảo sát  ảnh hưởng của các loại ánh sáng nuôi cấy khác nhau lên sự  sinh 
trưởng và phát triển của tảo Spirulina platensis. Cấy 30% tảo giống vào 300 
ml môi trường trong bình serum loại 500ml nuôi trong các điều kiện khác nhau 
bao gồm: ánh sáng đèn huỳnh quang và ánh sáng đèn Led.
Các điều kiện nuôi cấy được giữ   ổn định: nhiệt độ  phòng nuôi: 34­ 37 0C, 
pH = 8­ 11, thể tích môi trường nuôi cấy 300ml, chiếu sáng liên tục 24/24. Môi  
trường nuôi cấy và dụng cụ nuôi được hấp khử  trùng bằng Autoclave ở 1atm  
trong   30   phút.   Tiến   hành   đo   OD   máy   đo   quang   hiệu   Pharmacia   Biotech  
Ultrospec 2000 để xác định tốc độ sinh trưởng của tảo trong các môi trường và  
trong điều kiện ánh sáng khác nhau.
2.3.5. Khảo sát các phương pháp thu hoạch tảo Spirulina platensis
2.3.5.1. Thu hoạch bằng phương pháp lọc thủ công
SVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo                                        GVHD: TS. Đặng Đức 
Long


×