Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học cấp trường: Thực nghiệm nuôi cua biển, (Scylla sp) trong lồng nhỏ tại tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45 MB, 40 trang )

QT6.2/KHCN1-BM3.2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
KHOA NÔNG NGHIỆP – THỦY SẢN

ĐỀ TÀI CẤP TRƯỜNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

THỰC NGHIỆM NUÔI CUA BIỂN (Scylla sp.) TRONG
LỒNG NHỎ TẠI TỈNH TRÀ VINH

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI:

LÂM THÁI XUYÊN

CÁN BỘ THỰC HIỆN:

LÂM THÁI XUYÊN
DIỆP THÀNH TOÀN

Trà Vinh, 2/2009

i


LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả thực hiện đề tài xin chân thành cảm ơn:
-

Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Trà Vinh


-

Khoa Nông Nghiệp – Thủy sản

-

Phòng Nghiên cứu Khoa Học và Đào tạo sau đại học

-

Phòng Kế hoạch - Tài Vụ

-

Trại Thực nghiệm Nuôi trồng Thủy sản nước mặn

…đã tạo điều kiện tốt để hoàn thành nghiên cứu này.
Nhóm tác giả cũng gởi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp, các anh chị em tại xã
Trường Long Hòa và đặc biệt là em Mai Văn Hoàng, Dương Văn Dân, Hồ
Khánh Nam và Lâm Công Bằng đã giúp đỡ nhiệt tình trong thu thập số liệu,
chăm sóc cua thí nghiệm và thu hoạch sản phẩm.
Trà Vinh, 22 tháng 2 năm 2009
Nhóm tác giả

ii


TÓM TẮT
Cua biển (Scylla sp.) là loài động vật giáp xác biển có giá trị kinh tế cao, thịt
thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng nên được nhiều

nơi nuôi. Các mô hình nuôi cua thường là trong ao và lồng tre. Đề tài này gồm 2
thí nghiệm. Thí nghiệm 1 so sánh nuôi cua trong lồng gỗ 1 m2 và lồng nhựa PP
0,05 m2, kết quả trọng lượng cua khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
nhưng có sự khác biệt lớn về tỷ lệ sống, năng suất và FCR. Thí nghiệm 2 nuôi
cua trong lồng nhựa 0,05 m2 với 3 giai đoạn cua khác nhau: 1/ Nuôi cua con
thành cua thịt. Kết quả sau 4 tháng cua tăng trọng 3,4 lần so với lúc thả, tỷ lệ
sống 18,89%, đạt năng suất 3,69 kg/m2. 2/ Nuôi vỗ béo cua chấm thành cua gạch.
Kết quả sau 28 cua tăng trọng 11,23%, tỷ lệ sống 93,33 %, thời gian đầy gạch
18,62 ngày, FCR 2,15 và đạt năng suất 6,59 kg/m2. 3/ Nuôi cua lột. Kết quả cua
tăng trưởng 11,83% về CW và 29,68% về trọng lượng, cần 16,3 ngày để thu cua
lột xác, tỷ lệ sống 84,35%, tỷ lệ lột xác 79,29% và năng suất 1,87 kg/m2. Kết
thúc đề tài còn thu được 28,89 kg cá chẽm và cá rô phi từ việc tận dụng diện tích
mặt nước còn lại.

iii


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... i
TÓM TẮT ......................................................................................................... iii
MỤC LỤC......................................................................................................... iv
DANH SÁCH BẢNG........................................................................................ vi
DANH SÁCH HÌNH ........................................................................................ vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... viii
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................1
1.1 Giới thiệu ..................................................................................................1
1.2 Mục tiêu đề tài..........................................................................................1
1.3 Nội dung đề tài .........................................................................................1
PHẦN 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU .................................................................3

2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển .............................................3
2.1.1 Đặc điểm phân loại ..............................................................................3
2.1.2 Đặc điểm phân bố ................................................................................3
2.1.3 Tập tính sống cua biển .........................................................................4
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng ..........................................................................4
2.1.5 Lột xác và sinh trưởng .........................................................................5
2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển ...................5
2.3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển........................................................6
2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới ................................................6
2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam ...................................................................8
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................................................12
3.1. Thời gian và địa điểm............................................................................12
3.2 Bố trí thí nghiệm ....................................................................................12
3.3 Điều kiện thí nghiệm ..............................................................................13
3.3.1 Nguồn nước và xử lý nước.................................................................13
3.3.2 Môi trường nuôi cua biển...................................................................13
3.3.3 Cua thí nghiệm ..................................................................................13
3.3.4 Lồng nuôi cua....................................................................................14
3.3.5 Thức ăn .............................................................................................14
3.3.6 Thả cá................................................................................................15
3.4 Thu mẫu và xử lý số liệu ........................................................................15
3.4.1 Thu mẫu ............................................................................................15
3.4.2 Xử lý số liệu ......................................................................................15
PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .........................................................16
4.1 Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau
......................................................................................................................16

iv



4.1.1 Các yếu tố môi trường .......................................................................16
4.1.2 Tăng trưởng của cua nuôi ..................................................................18
4.1.3 Tỷ lệ sống..........................................................................................20
4.1.4 Năng suất và tiêu tốn thức ăn .............................................................21
4.2 Thí nghiệm 2: Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn khác
nhau ..............................................................................................................21
4.2.1 Các yếu tố môi trường .......................................................................21
4.2.2 Tăng trưởng của cua nuôi ..................................................................22
4.2.3 Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất .................................................23
4.2.4 Tiêu tốn thức ăn.................................................................................24
4.2.5 Thu hoạch cá .....................................................................................25
4.2.6 Phân tích hiệu quả kinh tế ..................................................................25
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .............................................................27
5.1 Kết luận ..................................................................................................27
5.2 Đề xuất....................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................28
PHỤ LỤC

v


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2001-2006........................9
Bảng 2.2: Kế hoạch nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2006-2010 ........................9
Bảng 4.1: Biến động các yếu tố môi trường thí nghiệm 1...................................16
Bảng 4.2: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua (cm) qua các lần đo ....................18
Bảng 4.3: Tăng trưởng về trọng lượng cua.........................................................19
Bảng 4.4: Diễn biến tỷ lệ sống của thí nghiệm 1 ................................................20
Bảng 4.5: Năng suất và tiêu tốn thức ăn.............................................................21
Bảng 4.6: Các yếu tố môi trường thí nghiệm 2...................................................21

Bảng 4.7: Tăng trưởng của cua trong thí nghiệm 2 ............................................22
Bảng 4.8: Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác và năng suất thí nghiệm 2.............................23
Bảng 4.9: Tiêu tốn thức ăn thí nghiệm 2 ............................................................25
Bảng 4.10: Kết quả thu hoạch cá chẽm và cá rô phi ...........................................25
Bảng 4.11: Phân tích hiệu quả kinh tế................................................................25

vi


DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Vòng đời cua biển theo NIOT ..............................................................4
Hình 2.2: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991) ................7
Hình 2.3: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT ...............................7
Hình 2.4: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004...............................9
Hình 2.5: Lồng nuôi cua bằng tre và nhựa PP ....................................................11
Hình 3.1: Ao thực hiện thí nghiệm.....................................................................12
Hình 3.2: Các cỡ cua thí nghiệm........................................................................13
Hình 3.3: Lồng gỗ 1 m3 và lồng nhựa 0,006 m3 .................................................14
Hình 3.4: Hệ thống phao nổi..............................................................................14
Hình 3.5: Cân trọng lượng cua...........................................................................15
Hình 3.6: Đo chiều rộng mai cua .......................................................................15
Hình 3.7: Kiểm tra cua gạch ..............................................................................15
Hình 3.8: Ba khía làm thức ăn cho cua ..............................................................15
Hình 4.1: Diễn biến nhiệt độ thí nghiệm 1 .........................................................16
Hình 4.2: Diễn biến pH thí nghiệm 1 .................................................................17
Hình 4.3: Diễn biến oxy thí nghiệm 1 ................................................................17
Hình 4.4: Diễn biến độ mặn thí nghiệm 1 ..........................................................18
Hình 4.5: Diễn biến độ kiềm thí nghiệm 1 .........................................................18
Hình 4.6: Tăng trưởng về chiều rộng mai cua sau 120 ngày nuôi.......................19
Hình 4.7: Tăng trưởng về trọng lượng cua sau 120 ngày nuôi............................20

Hình 4.8: Chiều rộng mai thí nghiệm 2 ..............................................................23
Hình 4.9: Trọng lượng cua thí nghiệm 2 ............................................................23

vii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CW: Carapace Wide – Chiều rộng mai cua (cm)
TB: Trung bình
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cữu Long
DWG: Day weigh growth: Tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày)
SGR: Specific growth rate: Tăng trưởng tương đối (%/ngày)
TB: Trung bình
FCR: Feed conversion ratio – Tiêu tốn thức ăn
NIOT: National Institute of Ocean Technology

viii


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Việt Nam có nguồn lợi cua biển phong phú, những năm gần đây do nhu cầu tiêu
thụ trong nước và xuất khẩu tăng nên cùng với nghề khai thác cua tự nhiên, nghề
nuôi cua đã phát triển ở nhiều địa phương trong cả nước, mô hình nuôi một vụ
cua và một vụ tôm sú được ứng dụng rộng rãi, nó đã đem lại hiệu quả kinh tế cao
và phần nào hạn chế được dịch bệnh tôm (Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 2004).
Cua biển (Scylla sp.) là loài động vật giáp xác biển có giá trị kinh tế cao, thịt
ngon, giàu chất dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Trước tình hình dịch
bệnh tôm ngày càng diễn biến phức tạp, phong trào nuôi cua ngày một phát triển
(Trung tâm Khuyến nông Quốc Gia, 2008). Con cua được xem là đối tượng nuôi

xoá đói giảm nghèo của bà con ngư dân vùng biển (Nguyễn Ngọc Tú, 2008).
Hiện nay, người dân nuôi cua theo nhiều hình thức như nuôi cua ao, nuôi kết hợp
hoặc luân canh với tôm sú quảng canh, nuôi kết hợp tôm-cua-rừng, nuôi cua
trong lồng ... tùy theo điều kiện vùng nuôi. Sản phẩm thu lại theo mong muốn là
cua gạch nhưng cua y, cua chấm, cua đực và cua xô cũng chiếm tỷ lệ khá cao
nhưng giá trị thấp nhiều so với cua gạch. Mặt khác, sản phẩm cua lột hiện nay là
mặt hàng thực phẩm phổ biến có giá trị xuất khẩu cao, được chế biến thành sản
phẩm cua tẩm bột chiên, một món ăn hấp dẫn và quen thuộc đối với thị trường
châu Á, xu hướng đang mở rộng sang nhiều thị trường khác trên thế giới
().
Tại Trà Vinh, nghề nuôi cua đang phát triển mạnh do có nguồn giống dồi dào.
Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi kết hợp và nuôi chuyên trong ao(Hồ Hoàng Hà,
2005). Việc sử dụng lồng để nuôi vỗ béo hay nuôi cua lột chưa được nhiều người
nuôi quan tâm vì chưa có mô hình thí điểm.
Xuất phát từ thực tế trên và nhằm góp phần phát triển nghề nuôi cua biển thương
phẩm, chúng tôi đề xuất đề tài “Thực nghiệm nuôi cua biển (Scylla sp) trong
lồng nhỏ tại tỉnh Trà Vinh”.
1.2 Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chung của đề tài là nâng cao thu nhập cho người dân nuôi cua biển, góp
phần xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa đối tượng nuôi và sử dụng một cách có
hiệu quả đất nuôi trồng thủy sản ven biển đồng thời góp phần phát triển ngành
nuôi trồng thủy sản của tỉnh Trà Vinh.
Mục tiêu cụ thể của đề tài là :
 Xây dựng mô hình nuôi cua biển mới hiệu quả cao, dễ áp dụng.
 Nâng giá trị cua thương phẩm trên đơn vị một diện tích.
1.3 Nội dung đề tài
(1) Nuôi cua biển trong lồng
(2) Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn khác nhau.

1



(3) Khảo sát một số chỉ tiêu môi trường nước và sinh trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ lột
xác, năng suất và FCR.
(4) Đánh giá hiệu quả mô hình nuôi.

2


PHẦN 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của cua biển
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Cua biển có tên tiếng Anh là mud-crab, green crab, hay mangrove crab; tên tiếng
Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn, là một trong những hải sản có giá
trị cao trong thực phẩm và y dược học (Joachim và Felicitas, 2000; Nguyễn
Chung, 2006).
Bằng phương pháp điện di và hình thái giải phẫu, Keenan (1999) đã đi đến kết
luận cua biển giống Scylla có 4 loài phân biệt và được định danh trong hệ thống
phân loại như sau:
Ngành Arthropoda
Ngành phụ Crustacea
Lớp Malacostraca
Bộ Decapoda
Họ Portunidae
Giống Scylla
Loài S. paramamosain (Estampador, 1949)
S. serrata (Forskal, 1755)
S. olivacea (Herbst, 1796)
S. tranquebarica (Fabricius, 1798)
2.1.2 Đặc điểm phân bố

Cua biển (Scylla sp.) là một trong những đối tượng rất quan trọng của nghề nuôi
trồng và khai thác thủy sản ở các vùng nước lợ ven biển, đặc biệt là các nuớc
thuộc Ấn Ðộ - Thái Bình Dương (Angell, 1992) bao gồm các nước Ấn Độ, Thái
Lan, Trung Quốc, Malaysia, Philippine, Singapore, Úc, Nhật Bản,…là đối tượng
nuôi thuỷ sản có giá trị kinh tế ở nhiều nước (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Cơ
Thạch và ctv, 2004; Phạm Thị Tuyết Ngân, 2005).
Ở Việt Nam cua biển được khai thác và nuôi ở các tỉnh ven biển như Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Bà Rịa-Vũng Tàu, TP.HCM,
Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Minh Hải và Kiên Giang (Hoang Duc Dat, 1999;
Vũ Ngọc Út, 2005). Đặc biệt, ĐBSCL với diện tích mặt nước lợ gần 300.000 ha
được đánh giá là nơi quan trọng cho cua biển phân bố tự nhiên trong đầm lầy
rừng ngập mặn và vùng ven biển cửa sông (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003; Vũ
Ngọc Út, 2005; Nguyễn Chung, 2006).
Theo Keenan và ctv (1998 trích dẫn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv, 2005) ở
Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSCL có hai loài chủ yếu là S.paramamosain và
S.olivacea. Loài cua S.paramamosain chiếm ưu thế ở ĐBSCL (Hoang Duc Dat,
1999). Nhưng DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cho rằng cua biển phân bố rộng ở
Việt Nam, đặc biệt vùng triều, cửa sông và rừng ngập mặn, có cả ở châu thổ
ĐBSCL và Sông Hồng.

3


2.1.3 Tập tính sống cua biển
Vòng đời cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập
tính sống, cư trú khác nhau. Thời kỳ phôi thai được cua mẹ mang và phát triển ở
vùng ven biển ven bờ, ấu trùng Zoea và Mysis sống trôi nổi và nhờ dòng nước
đưa vào ven bờ biến thái thành cua con. Cua con theo thuỷ triều dạt vào vùng
nước lợ: những bãi lầy ven bờ biển, cửa sông, nơi có đáy bùn, bùn cát hoặc đất
thịt pha cát mịn giàu mùn bã hữu cơ thuộc vùng trung, hạ triều chuyển từ đời

sống trong môi trường nước mặn sang nước lợ. Cua bắt đầu sống bò trên đáy và
đào hang để sống hay chui rúc vào gốc cây, bụi rậm.Cua đạt giai đoạn thành thục
có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển sinh sản. Cua có khả năng bò lên cạn
và di chuyển rất xa. Đặc biệt, vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt cả rào
chắn để ra biển sinh sản (Hoàng Đức Đạt, 1995; Trần Ngọc Hải và ctv, 1999;
DANIDA-Bộ Thủy Sản, 2003). Theo Trần Ngọc Hải và ctv (1999) cua có thể di
chuyển trung bình 13 giờ/ngày và gần như suốt đêm. Quãng đường trung bình
cua di chuyển trong một đêm là 461 m, dao động 219-910 m. Cua cái có thể bò
xa 45 km để tìm bãi đẻ (Lee, 1991).
Theo báo cáo của Hyland (1984 trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải, 1999) sự phân bố
của cua trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy, trong đó, vận tốc nước thích
hợp 0,06-1,6 m/giây.

Zoea

Trứng

VÒNG ĐỜI CUA BIỂN

Cua cái

Megalopa

Cua

Hình 2.1: Vòng đời cua biển theo NIOT
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cua là động vật ăn thịt, thích bắt cá, tôm, động vật hai mảnh vỏ (DANIDA-Bộ
Thủy Sản, 2003; Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Theo
Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv. (2005) thức ăn tự nhiên chứa 50% nhuyễn thể, 21%

giáp xác, 29% các mảnh vụn hữu cơ, ít khi có cá trong ống tiêu hóa của cua. Tuy
nhiên, tập tính dinh dưỡng của cua biến thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển.

4


Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn thực vật và động vật phù du. Cua con chuyển dần
sang ăn tạp như rong tảo, giáp xác, nhuyển thể, cá hay ngay cả xác chết động vật.
Cua con 2-7 cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua 7-13 cm thích ăn nhuyễn thể và cua
lớn hơn thường ăn cua nhỏ, cá...Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn
vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn
đói 10-15 ngày (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999; Nguyễn Chung, 2006; Nguyễn
Thanh Bình, 2007; Nguyễn Ngọc Tú, 2008).
2.1.5 Lột xác và sinh trưởng
Từ ấu trùng đến trưởng thành cua phải qua nhiều lần lột xác và qua mỗi lần lột
xác vừa để sinh trưởng vừa để biến thái, thay đổi về kích thước và hình thái cấu
tạo để đạt được hình dạng và cấu tạo thực thụ của cua. Ở giai đoạn ấu trùng và
cua bột thời gian giữa các lần lột xác thường ngắn, từ 2-3 ngày hoặc 3-5 ngày.
Cua bột 3 ngày tuổi lột xác lần thứ nhất có chiều rộng mai đạt 5 mm và chiều dài
mai 3,5 mm. Ở cua giống và trưởng thành thời gian lột xác dài hơn thường lột
xác vào chu kỳ của thuỷ triều (Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn chung, 2006).
Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục, được đặc trưng bởi sự gia tăng đột
ngột về kích thước và trọng lượng. Cua lột xác để tăng kích thước và quá trình
này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện dinh dưỡng, môi truờng và giai đoạn phát
triển của cơ thể. Theo Triño và ctv (1999), khi nuôi chung cua đực và cua cái thì
cua đực tăng trưởng tốt hơn cua cái. Khatun và ctv (2008) nuôi cua S.olivacea
đơn tính (cua đực hoặc cua cái) và cả 2 giới tính (cua cái + cua) đực) thì cua đực
cũng tăng trưởng tốt hơn cua cái.
Cua biển trải qua 12 lần lột xác, khi tuyến sinh dục bắt đầu phát, cua lột xác
lần thứ 13 trước khi giao phối (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản,

2006). Cua trưởng thành có khoảng cách giữa 2 lần lột xác từ 20-28 ngày (Khoa
Sinh – Trường Đại Học Tổng Hợp Huế, 1994). Quá trình lột xác của cua mang
tính đặc trung riêng biệt từng loài. Cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo
dài. Ðặc biệt, trong quá trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái sinh những
phần phụ bộ đã mất. Ðối với những con cua bị tổn thương, khi mất phần phụ
bộ thì cua có khuynh hướng lột xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999).
Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4 năm, qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua tăng
trung bình 20-50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19-28 cm với trọng
lượng từ 1-3 kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong khoảng
7,5-10,5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng thì cua
đực nặng hơn cua cái ().
2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sống của cua biển
pH: Cua sống phát triển tốt trong nước độ pH trong khoảng 7,5 – 9,2 thích hợp
nhất từ 7,5-8,2. Tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp
hơn 6.5 (Hoàng Đức Đạt 1995; Nguyễn Chung, 2006). Theo Munawar và ctv
(1998) cần quản lý pH ở mức 7,5-8,5.
Độ mặn: Trong tự nhiên, từ giai đoạn cua con trở đi, cua có thể chịu đựng được
độ mặn 2-60o/oo (Trần Ngọc Hải và ctv, 1999). Theo Hoàng Đức Đạt (1995), Trần
Ngọc Hải và ctv (1999), Nguyễn Chung (2006) cua có khả năng thích ứng cao

5


với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt
cho đến độ mặn trên 33o/oo. Nhưng trong thời kỳ đẻ trứng, ấp trứng và thời kỳ ấu
trùng, cua đòi hỏi độ mặn từ 28 – 32%o. Tuy nhiên, theo Trung tâm Khuyến ngư
Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) cua biển sống, sinh trưởng và phát triển tốt trong
độ mặn từ 5-33,2o/oo và phù hợp nhất 13,7-26,9o/oo. DANIDA-Bộ Thủy Sản
(2003) cho rằng giới hạn độ mặn để cua sống và phát triển từ 2-35o/oo.
Nhiệt độ nước: Cua biển là loài chuyên sống ở đáy, thích ứng với nhiệt độ rộng

(Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Ở vùng biển phía nam
nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 – 29 0C. Nhiệt độ cao thường
ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua, là một trong nhưng nguyên
nhân gây chết (Hoàng Đức Đạt, 1995). Theo Nguyễn Chung (2006) cua phát
triển tốt ở nhiệt độ 25-29 0C, chịu đựng nhiệt độ thấp dưới 10-15 0C, nhiệt độ trên
32 0C sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý và có thể làm cua chết. Tuy nhiên
theo Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản (2006) nhiệt độ thích hợp
18-32 0C, nhiệt độ dưới 18 0C cua giảm hoạt động và giảm bắt mồi, nhiệt độ 7 0C
cua dừng hoạt động hoàn toàn, vùi mình trong bùn chỉ để lộ 2 mắt và rơi vào
trạng thái ngủ, nhiệt độ 5 0C cua sống được 4-5 ngày, nếu nhiệt độ nước cao đến
35 0C cua nằm ngửa và dơ chân bò lên trời để phần bụng không tiếp xúc với bùn
đất hoặc năm bò trên bãi bùn. Nhiệt độ nước lên đến 39 0C, mai cua xuất hiện
những chấm đỏ xám, cua yếu dần rồi chết.
Nhu cầu oxy hoà tan: Hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 2 mg/l, cua bắt mồi rất
nhiều. Khi hàm lượng oxy hoà tan nhỏ hơn 1 mg/l, cua phản ứng chậm chạp,
không bắt mồi, xuất hiện nổi đầu, thậm chí chết. Khi cua lột xác, yêu cầu hàm
lượng oxy hòa tan rất cao, nếu không đủ oxy việc lột xác không thuận lợi, cua sẽ
chết (Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006).
Ðịch hại của cua: Theo Hoàng Ðức Ðạt (1995) cua có nhiều địch thủ lợi
hại: Cua ăn thịt lẫn nhau. Ngoài ra, còn có rất nhiều loài dịch hại khác gây hại
đến cua, tùy mỗi giai đoạn cua sẽ có từng loại dịch hại khác nhau bao gồm
nhiều loài động vật sống trong nước, trên cạn như các loài cá dữ, chim ăn thịt,
chuột, rắn,…
2.3 Tình hình nghiên cứu nuôi cua biển
2.3.1 Nghiên cứu nuôi cua biển trên thế giới
Trên thế giới, nuôi cua biển đã phát triển ở Trung Quốc từ hơn 100 năm và hơn
30 năm tại các nước Châu Á khác (Keenan, 1999).
Rất nhiều báo cáo về nuôi cua được đề cập tại hội thảo về nuôi và thương mại
cua biển tổ chức tại Swat Thani, Thái Lan năm 1991 như Báo cáo về nuôi,
thương mại và định hướng phát triển cua biển ở vịnh Bengal của

Sivasubramaniam và Angell; Báo cáo về sinh học và nuôi cua biển ở Queensland
của Lee; nuôi cua biển ở Philippines của Jericardo và Mondgagon; về nuôi vỗ
béo cua ở Sri Lanka (Silva), ở Thái Lan (Rattanachote và Dangwatanakul), ở
Malaysia (Liong); nuôi cua biển trong ao ở Sri Lanka của Samarasinghe và
ctv…Đặc biệt báo cáo về khai thác và nuôi cua biển ở Indonesia của Cholik và
Hanafi. Trong đó ý tưởng nuôi vỗ béo cua 1 con/lồng 0,025 m2 dùng để nuôi vỗ
lên cua gạch đã được trình bày, hệ thống này nuôi được 40 con cua/1 m2... cũng
6


với ý tưởng này, Zafar (2005) ở Bangladesh lồng tre 7 m x 3 m x 1 m, phân ra 60
ô nhỏ, mỗi ô nuôi 1 con. Theo NIOT ở Ấn Độ nuôi cua vỗ béo 1 con/lồng tre 1m
x 1m x 0,2 m.

Hình 2.2: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng theo Cholik và Hanafi (1991)

Hình 2.3: Lồng tre nuôi cua 1 con/lồng ở Ấn Độ theo NIOT
Theo Keenan (1999) trên thế giới có 2 cách nuôi cua cơ bản là nuôi vỗ béo và
nuôi cua thịt. Các nước có nghề nuôi cua phát triển như Srilanka, Thái Lan,
Malaysia, Phillipine, Đài Loan… Tuy nhiên, theo Khoa Sinh-Trường Đại học
Tổng Hợp Huế (1994), Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van Dau et al (1998),
Hoang Duc Dat(1999) ở Việt Nam ngoài 2 cách thức trên còn có hình thức nuôi
cua lột.
Nuôi cua vỗ béo: Tại Malaysia , Tan (1999) tổng kết nuôi vỗ béo cua cần 10-20
ngày để đạt kích cỡ xuất bán trên 150 g. Tuy nhiên, tại Thái Lan, Rattanachote và
Dangwatanakul (1991) thời gian là 20-30 ngày với tỷ lệ sống 85,20-93,77%.
Nghiên cứu của Liong (1991) trong ao và lồng tre chỉ cần sau 2-14 ngày là cua
đầy gạch với tỷ lệ sống 60-80% (trong lồng) và 50-80% (trong ao). Theo Hoang
Duc Dat (1999) trong điều kiện Việt Nam nuôi vỗ béo cần 25-35 ngày với mật độ
0,5-1 kg/m2 trong ao và 10-25 kg/m2 trong lồng. Về trọng lượng tăng thêm sau

vỗ béo: Theo Ladra (1991) ở Philippine nuôi trong ao và lồng tre (140 x 70 x 25
cm). Trọng lượng tăng thêm 110 g sau 15-30 ngày nuôi. Nghiên cứu của Silva
(1991) ở Sri Slanka nuôi vỗ trong bể ximăng (4 x 4 x 1m) trọng lượng cua tăng
62,83% sau 62 ngày nuôi và 96 g sau 35 ngày nuôi trong ao nuôi tôm 0,4 ha.

7


Về nuôi cua thịt trong ao: Tại Ấn Độ, Munawar và ctv (1998) nuôi cua S.
tranquebarica trọng lượng 80-100 g/con, mật độ 1-5 con/m2 nuôi 4 tháng đạt
400-500 g/con, nuôi 7 tháng đạt 800-1.000 g/con. Tỷ lệ sống đạt 70-80%.
Christensen và ctv (2004) nuôi cua trong ao ở ĐBSCL, Việt Nam từ 120-186
ngày đạt kích cỡ 200-300 g/con. Tại Indonesia, Cholik (1999) thí nghiệm nuôi
cua với 3 mật độ 1, 3 và 5 con/m2 trong 6 ao 96 m2 sau 90 ngày cua đạt kết quả
tương ứng 146, 159 và 158 g/con với tỷ lệ sống 81,2%, 43,1% và 32,9%.
Một vấn đề cũng được một số tác giả nghiên cứu là so sánh nuôi cua đực và cái
riêng. Báo cáo mới nhất về vấn đề này là của Khatun và ctv (2008) ở Bangladesh
so sánh tăng trưởng loài cua S.olivacea nuôi đơn tính (cua đực hoặc cua cái) và
cả 2 giới tính (cua cái + cua) đực) trong lồng tre với mật độ (0,5 con/m 2) cho
thấy: Sau 100 ngày nuôi cua đạt 80-120g/con. Mô hình nuôi cua toàn đực có tốc
độ tăng trưởng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nuôi toàn cái, trong khi đó
mô hình cua đủ 2 giới tính tốc độ tăng trưởng khác biệt không có ý nghĩa thống
kê so với nuôi toàn đực và toàn cái. Trước đó, Trino và ctv (1999) dùng cua
S.serrata thí nghiệm với 3 mật độ 0,5, 1,5 và 3 con/m2 với đực và cái riêng. Kết
quả có sự khác biệt giữa mật độ nuôi và giới tính cua (P<0,05)…
2.3.2 Nuôi cua biển ở Việt Nam
2.3.2.1 Tình hình nuôi cua biển
Nghề nuôi cua biển của Việt Nam bắt đầu từ đầu những năm 1980. Cua biển Việt
Nam dồi dào giá thấp hấp dẫn nên các công ty ở Hồng Kông, Đài Loan đến mua.
Khi sản lượng khai thác cua tự nhiên giảm sút nhưng lợi nhuận hấp dẫn nên ở Cà

Mau, Bạc Liêu, Bến Tre nhiều người đã bắt cua giống, cua ốp ngoài thiên nhiên
về thả nuôi (Nguyễn Chung, 2006).
Năm 1993, Việt Nam đã đạt sản lượng nuôi 3.800 tấn trên diện tích 1.600 ha
(Doan Van Dau et al, 1998). Tuy nhiên, sau đó (1993) xu hướng nuôi cua bị lấn
át bởi phong trào nuôi tôm sú vì lợi nhuận cao hơn rất nhiều lần so với nuôi cua.
Nhiều người phát lên nhờ tôm sú nhưng cũng nhiều người đã và đang lận đận vì
con tôm sú. Vì vậy, nhiều hộ ngư dân nay lại trở về với nghề nuôi cua biển. Theo
số liệu điều tra năm 1995 thì ÐBSCL có trên 3.000 ha nuôi cua với sản luợng
trên 1.600 tấn/năm (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003).
Theo DANIDA-Bộ Thủy Sản (2003) cua được nuôi rộng rãi khắp các tỉnh ven
biển đặc biệt vùng cửa sông Châu thổ phía Bắc (Thái Bình, Hải Phòng, Nam
Định) và các tỉnh Duyên Hải Nam Bộ. Năng suất nuôi cua đạt 1.000 kg/ha/vụ.
Năm 2004, khối lượng cua biển xuất khẩu Việt Nam đạt gần 6000 tấn, giá trị hơn
25 triệu USD ().

8


Nguồn:

Hình 2.4: Xuất khẩu cua biển của Việt Nam năm 2001-2004
Tại ĐBSCL, theo điều tra của Vũ Ngọc Út (2005) có 8 tỉnh nuôi cua: Cà Mau,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, Tiền Giang, Bến Tre và Long An. Ở
Tiền Giang, phong trào nuôi cua còn rất kém phát triển, chỉ rải rác ở huyện Gò
Công. Trong khi đó, Long An là địa phương duy nhất có mô hình nuôi cua lột rất
phát triển ở huyện Cần Giuộc. Sóc Trăng, Kiên Giang và Bến Tre là các địa bàn
có hình thức nuôi cua đơn trong ao phổ biến và một số hình thức nuôi kết hợp
cua-tôm và cua-tôm-rừng. Cà Mau và Bạc Liêu phổ biến nhất với các mô hình
(ngoại trừ nuôi cua lột), trong đó kết hợp cua-tôm và cua-tôm-rừng là chủ lực.
Ở Trà Vinh, nghề nuôi cua biển đã hình thành và phát triển ở 4 địa phương ven

biển của tỉnh, đặc biệt nuôi nhiều ở huyện Duyên Hải, mang lại nhiều thu nhập
cho người dân và cũng là đối tượng “cứu cánh” cho nhiều người nuôi tôm sú thất
bại (Hồ Hoàng Hà, 2005). Diện tích nuôi cua biển của tỉnh Trà Vinh không
ngừng được mở rộng.
Bảng 2.1: Tình hình nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2001-2006
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006

Diện tích
(ha)
350
1.356
1.329
3.300
3.681
6.171

Sản lượng (tấn)

Nguồn

450
387
870
1.196

1.875
1.684

Hồ Hoàng Hà, 2005
Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007
Hồ Hoàng Hà, 2005
Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2005
Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007
Sở Thủy Sản Trà Vinh, 2007

Bảng 2.2: Kế hoạch nuôi cua biển tỉnh Trà Vinh năm 2006-2010
Năm
Diện tích

2006
4.000

2007
4.050

2008
4.100

2009
4.150

2010
4.200

Nguồn : Hồ Hoàng Hà, 2005


2.3.2.2 Nghiên cứu về cua biển ở Việt Nam
Nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cua biển ở nước ta chủ yếu là bắt từ tự
nhiên (Nguyễn Cơ Thạch và ctv; Vũ Ngọc Út, 2005). Cua giống tự nhiên thường
được vận chuyển xa từ địa bàn nuôi và qua nhiều thương lái nên khi về đến ao
nuôi thường yếu và có tỉ lệ tỷ lệ sống thấp (Vũ Ngọc Út, 2005). Tuy nhiên, cua
sản xuất nhân tạo cũng đã được nuôi thử nghiệm thành công. Theo Trung tâm
9


Khuyến Nông Quốc Gia (2008) cua bột có kích thước 0,5-0,7 cm được ương
trong giai đặt trong ao đất lên giống 2-3 cm. Sau đó thả nuôi trong ao với mật độ
thả 1 con/m2. Sau gần 6 tháng nuôi, cua đạt tỷ lệ sống trên 60%, năng suất đem
lại gần 1,2 tấn cua/ha, giá bán 80.000 đồng/kg cua thương phẩm 250-350 g/con,
sau khi trừ các khoản chi phí, lợi nhuận hơn 30 triệu đồng/ha”.
Về hình thức nuôi: theo Doan Van Dau et al (1998), Hoang Duc Dat (1999) gồm
có nuôi cua thịt, nuôi cua vỗ béo và nuôi cua lột. Tuy nhiên, theo Vũ Ngọc Út
(2005) nuôi cua được phát triển dưới các hình thức như nuôi cua đơn (trong ao),
nuôi cua kết hợp với tôm (cua-tôm) hoặc cua kết hợp với tôm trong rừng (cuatôm-rừng). Với hình thức nuôi cua đơn thì có các mô hình nuôi cua thịt (từ con
giống lên kích thước thương phẩm), nuôi cua gạch và nuôi cua lột. Ý tưởng nuôi
cua trong hộp nhựa PP tại Việt Nam được Nguyễn Chung (2006) đề cập đến
trong sách “Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi ghẹ xanh, cua biển” trên cơ sở tài
liệu kỹ thuật nuôi ghẹ xanh của Thái Lan và nuôi cua lột của Việt Nam.
Về nuôi cua lột: đây là một loại cua thương phẩm đặc biệt và có giá trị cao
(Hoàng Đức Đạt, 1995; Nguyễn Chung, 2006). Mô hình nuôi cua lột rất phát
triển ở huyện Cần Giuộc – Long An từ 1998 (Cửu Long, 2003; Vũ Ngọc Út,
2005). Năm 2000 có hơn 500 tấn cua lột thương phẩm tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu (Nguyễn Chung, 2006). Trên thế giới chưa có nhiều báo cáo về nuôi
cua lột. Tại Việt Nam, năm 1994, Khoa Sinh-Trường Đại học Tổng Hợp Huế đã
đề cập đến kỹ thuật này. Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đề cập đến trong sách “Kỹ

thuật nuôi cua biển”. Năm 1999, trong báo cáo tại Hội nghị Sinh học và nuôi cua
biển tại Australia, Hoang Duc Dat mô tả: sử dụng cua 30-60 g, bẻ càng và chân
bò chỉ chừa 2 chân chèo. Cho cua vào lồng tre (1,5m x 1m x 0,25m) hoặc ao, sau
11-20 ngày có thể thu sản phẩm cua lột. Trước đó, kỹ thuật này được Doan Van
Dau et al báo cáo tại Hội nghị quốc tế về nuôi cua tại Philippine năm 1998 nhưng
với cỡ cua 50-100 g với mật độ (ao hoặc lồng) 10-12 kg/m2 và thời gian cua lột
xác là 20-30 ngày. Năm 2006, Trần Ngọc Hải và ctv đã phát triển kỹ thuật nuôi
cua lột trong bể composite với hệ thống tuần hoàn. Theo Nguyễn Chung (2006)
ngoài các hình thức nuôi cua lột truyền thống có thể phát triển cách nuôi cua lột
trong lồng nhựa PP.
Về nuôi cua vỗ béo: là nuôi cua thương phẩm còn ốp (ít thịt, chưa đầy gạch) để
tạo thành cua y (cua chắc, nhiều thịt) và cua gạch để bán giá cao hơn
(Prinpanapong và Youngwanichsaed, 1991). Ý tưởng này được Khoa Sinh –
Trường Đại Học Tổng Hợp Huế đề cập năm 1994. Có thể thuật ngữ “nuôi cua vỗ
béo” được đề cập ở Việt Nam từ tài liệu này. Hoàng Đức Đạt (1995), Doan Van
Dau et al el al (1998), Đoàn Văn Đẩu (1998), Hoang Duc Dat (1999)… là những
tác giả tiếp theo đề cập đến vấn đề nuôi vỗ béo cua trong hệ thống lồng tre. Ý
tưởng nuôi cua vỗ béo trong lồng nhựa PP 0,05 m2 chỉ được Nguyễn Chung đề
cập đến năm 2006.
Về nuôi cua thịt, có nhiều báo cáo đề cập đến. Một trong những sách viết về nuôi
cua biển đầu tiên tại Việt Nam là cuốn “Kỹ thuật nuôi cua” của Vụ quản lý khoa
học kỹ thuật–Bộ Thủy Sản xuất bản tháng 1/1991. Năm 1994, Khoa Sinh-Trường
Đại học Tổng Hợp Huế xuất bản sách “Kỹ thuật nuôi và vỗ béo cua biển” phục
vụ cho Chương trình Quốc tế EC về tái hòa nhập người Việt Nam hồi hương.
10


Năm 1995, Hoàng Đức Đạt đã tập hợp các công trình nghiên cứu về cua biển và
viết sách “Kỹ thuật nuôi cua biển” đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Các nghiên
cứu tiếp theo của Hoàng Đức Đạt về các mô hình nuôi cua ở Việt Nam được

trình bày tại các hội nghị quốc tế về Sinh học và nuôi cua biển tại Australia năm
1999, của Doan Van Dau et al tại Hội thảo quốc tế về cua biển tại Phillipine năm
1998 về nuôi cua giống Scylla ở Việt Nam. Đoàn Văn Đẩu và ctv (1998) công bố
báo cáo “Kết quả nghiên cứu sinh trưởng và sinh sản của cua biển (Scylla
serrata) nuôi trong đầm nước lợ” trong Tuyển tập các công trình nghiên cứu cá
biển (tập 1)-Viện nghiên cứu Hải Sản-Bộ Thuỷ Sản. Nghiên cứu này đề cập chi
tiết về các yếu tốt môi trường, sinh trưởng…bằng thực nghiệm tại ao. Các tác giả
nước ngoài nghiên cứu về nuôi cua ở Việt Nam nổi bật nhất là Johnston và
Keenan với khảo sát “Nuôi cua biển tại Minh Hải, Việt Nam”. Đề tài này được
trình bày năm 1999 ở Hội nghị quốc tế về Sinh học và nuôi cua biển tại Australia
– tại hội nghị này Keenan đã trình bày hoàn chỉnh về phân loại cua biển trên thế
giới trong đó có cua biển ở Việt Nam.
Các nghiên cứu về cua biển đã, đang và sẽ tiếp tục nhằm các cải tiến năng suất,
tỷ lệ sống và hiệu quả nghề nuôi, đặc biệt khi xu hướng phát triển nuôi cua của
người dân đã trở lại (do nuôi tôm sú thất bại) và con giống sản xuất nhân tạo
ngày càng nhiều thêm. Nghiên cứu về hình thức nuôi cua 1 con/lồng như ở
Indonesia và Bangladesh nhằm kiểm chứng lại và phát triển thêm mô hình nuôi
cua mới của Trà Vinh và Việt Nam.
NIOT

Hình 2.5: Lồng nuôi cua bằng tre và nhựa PP

11


PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm
- Thời gian: Từ tháng 01/2008 – 01/2009
- Địa điểm: Trại Thực nghiệm Nuôi trồng Thủy sản nước mặn, Khoa Nông
Nghiệp - Thủy Sản, Trường Đại học Trà Vinh - Ấp Ba Động, Xã Trường Long

Hòa, Huyện Duyên Hải, Tỉnh Trà Vinh.
3.2 Bố trí thí nghiệm
Đề tài gồm 2 thí nghiệm :
Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau
Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên trong lồng lớn (1 m2) và lồng
nhỏ (0,05 m2), 3 lần lập lại ở mỗi nghiệm thức:
-

Nghiệm thức 1 (NT1) : nuôi cua trong lồng nhỏ

- Nghiệm thức 2 (NT2): nuôi cua trong lồng lớn
Các lồng thí nghiệm được đặt trong ao đất. Mật độ thả cua là 1 con/lồng nhỏ, 30
con/lồng lớn. Cỡ cua là cua giống lớn 40 -60 g/con. Thời gian nuôi 3-4 tháng. Số
mẫu cua của nghiệm thức 1 là 90 con. Lồng được cố định bằng tầm vong và hệ
thống làm nổi.
Các số liệu cần theo dõi: môi trường nước, tăng trưởng cua, tỷ lệ sống, thức ăn.

Hình 3.1: Ao thực hiện thí nghiệm
Thí nghiệm 2: Nuôi cua biển trong lồng nhỏ với các giai đoạn cua khác nhau
Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại:
-

Nghiệm thức 1 (NT1): Nuôi từ cua nhỏ lên cua thương phẩm.

- Nghiệm thức 2 (NT2): Nuôi cua chấm lên cua gạch.
- Nghiệm thức 3 (NT3): Nuôi cua lột.

12



Tổng số lồng cua trong các nghiệm thức 1 là 90 lồng, nghiệm thức 2 là 60 lồng,
nghiệm thứ 3 là 90 lồng. Lồng được cố định bằng tầm vong và phao nổi. Sử dụng
lưới lan và nhà lá để che nắng khu vực thí nghiệm. Mật độ 1 con/lồng. Các cỡ
cua thí nghiệm: NT1: cua giống lớn 40-60 g/con, NT2: cua chấm trọng lượng từ
100-200 g/con, NT3: trọng lượng cua 50-100 g/con. Thời gian nuôi 1-4 tháng.
Các số liệu cần theo dõi là: môi trường nước, tăng trưởng cua, tỷ lệ sống, tỷ lệ lột
xác, thức ăn.
3.3 Điều kiện thí nghiệm
3.3.1 Nguồn nước và xử lý nước
Các lồng thí nghiệm được bố trí trong ao 1.200 m3, độ sâu 1,2 m, chủ động cấp
thoát nước và được xử lý nước bằng Clorine 30 ppm trước bố trí thí nghiệm.
3.3.2 Môi trường nuôi cua biển
Môi trường nuôi cua biển đảm bảo các điều kiện sau:
- Nhiệt độ thích hợp 25-30 0C.
- pH thích hợp 7,5 – 9,2, thích hợp nhất: 7,5-8,2.
- Độ mặn: 2-38 ‰.
- Thay nước theo con nước
3.3.3 Cua thí nghiệm
Nguồn cua thí nghiệm được mua từ cua đánh bắt từ tự nhiên. Cua lớn được thu
mua từ chợ hoặc ao nuôi.

Hình 3.2: Các cỡ cua thí nghiệm
Trong các thí nghiệm, cua được thuần dưỡng 7 ngày để quen với điều kiện thí
nghiệm sau đó mới tiến hành bố trí thí nghiệm.

13


3.3.4 Lồng nuôi cua
Thông thường lồng (lớn) nuôi cua được làm từ ván gỗ tạp. Tùy theo điều kiện

nuôi mà lồng được làm lớn hay nhỏ, thông thường 0,5 – 2 m3/lồng. Trong nghiên
cứu này là lồng 1 m3. Lồng nhỏ được làm từ nhựa PP chịu được môi trường nước
mặn và nắng, có màu đen dày 2 mm. Lồng có kích cỡ 18 x 28 cm chia làm 2
phần: phần nắp nằm trên mặt nước cao 6 cm và phần đáy chìm trong nước cao 12
cm. Nắp lồng có lỗ 3 x 3 cm để cho thức ăn vào. Lồng này có thể sử dụng 2-4
năm.

Hình 3.3: Lồng gỗ 1 m3 và lồng nhựa 0,006 m3
Các lồng lớn được đặt xuống ao với độ ngập nước 0,7 m và được cố định bằng
các cây tầm vong.
Hệ thống phao nổi được làm bằng 6 ống PVC Ø 42 ghép lại, khoảng cách giữa
các ống PVC là 30 cm và đặt trong ao mực nước sâu 1,2 m. Để tránh gió thổi dạt,
hệ thống này được cố định bằng cây tầm vong. Một hệ thống phao nổi 8 m x 1,5
m bố trí được 400 lồng nhỏ. Sử dụng lưới lan và nhà lá để che nắng khu vực thí
nghiệm.

Hình 3.4: Hệ thống phao nổi
3.3.5 Thức ăn
Trong nghiên cứu này, thức ăn nuôi cua là tôm tép tạp, còng, hến và cá tạp (gọi
chung là cá tạp) được mua từ chợ Trường Long Hòa và Long Hữu.

14


3.3.6 Thả cá
Nhằm tận dụng diện tích còn lại của ao, cá chẽm được thả vào ao với số lượng là
400 con kích cỡ 4-5 cm, trọng lượng 3 g/con. Cá rô phi giống 300 con/kg được
thả vào ao với số lượng 10 kg để làm thức ăn cho cá chẽm. Thời gian thả cá chẽm
ngay khi bắt đầu thí nghiệm 1 và thu hoạch khi kết thúc thí nghiệm 2. Khi thu
hoạch cá chỉ cân trọng lượng tổng và đếm số con để tính trọng lượng trung bình.

3.4 Thu mẫu và xử lý số liệu
3.4.1 Thu mẫu
Mẫu nước
- pH, Oxy hoà tan và nhiệt độ: đo 2 lần/ ngày vào lúc 6 giờ 30 và 14 giờ.
- Độ kiềm, Độ mặn, NH3: 7 ngày đo 1 lần
Mẫu cua
Mẫu cua được cân, đo 15 ngày/lần, sau đó được thả về vị trí thu.

Hình 3.6: Cân trọng lượng cua

Hình 3.7: Đo chiều rộng mai cua

Hình 3.8: Kiểm tra cua gạch

Hình 3.9: Ba khía làm thức ăn cho cua

3.4.2 Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng chương trình Microsoft Excel 2003 và xử lý thống kê
bằng SPSS 13.0.

15


PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm 1: Nuôi cua biển thương phẩm với các loại lồng khác nhau
4.1.1 Các yếu tố môi trường
Sau 120 ngày ghi nhận, kết quả biến động các yếu tố môi trường ở thí nghiệm 1
được trình bày ở Bảng 4.1, Hình 4.1, Hình 4.2, Hình 4.3, Hình 4.4 và Hình 4.5.
Bảng 4.1: Biến động các yếu tố môi trường thí nghiệm 1


Sáng
Chiều
TB

Nhiệt độ
(0C)
27,27±0,82
29,48±0,96
28,38±0.89

pH
7,56±0,25
7,93±0,28
7,75±0,27

Oxy hòa tan
(mg/l)
4,35±0,38
5,09±0,41
4.72±0,36

Độ mặn
14,35±1,42

Độ kiềm
(mgCaCO3/l)
87,3±6,59

NH3
(mg/l)

0

14,35±1,42

87,3±6,59

0

0

0

Nhiệt độ trong ngày dao động khoảng 27,27-29,48 C, trung bình 28,38 C. Theo
Hoàng Đức Đạt (1995) ở vùng phía Nam nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ
nước từ 25 – 29 0C. Nhiệt độ cao thường ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sinh
lý của cua, là một trong nhưng nguyên nhân gây chết cua. Như vậy nhiệt độ thu
được nằm trong khoảng phù hợp cho sự sinh trưởng tốt cho cua nuôi.

Nhiệt độ (0C)

31
30
29
28
27
26
25
24
23
1


8

15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120

Thời gian

Hình 4.10: Diễn biến nhiệt độ thí nghiệm 1
pH thu được dao động không lớn từ 7,56-7,93 (Hình 4.2). Theo Nguyễn Chung
(2006) pH cho cua sống và phát triển tốt ở 7,5-9,2 và cua chịu được pH <6,5. Giá
trị pH thu được rất phù hợp cho nuôi cua biển.
Khi cua biển lột xác, yêu cầu hàm lượng oxy hòa tan cao, nếu không đủ oxy việc
lột xác không thuận lợi, cua sẽ chết. Bình thường cần lớn hơn 2 mg/l là phù hợp
(Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia-Bộ Thủy Sản, 2006). Giá trị oxy hòa tan đo
được từ 4,35 – 5,09 (Hình 4.3). Kết quả này do ao nuôi được cải tạo kỹ, lồng
nuôi đặt gần mặt nước, thời gian thí nghiệm rất ít mưa và định kỳ 2 tuần thay
nước nên giá trị oxy này rất tốt cho các hoạt động sinh lý và lột xác. Kết quả này
cũng phù hợp với nhận định của Doan Van Dau et al (1998) oxy hòa tan nuôi cua
biển thích hợp trong khoảng 4-6 mg/l.

16


9

pH

8.5
8
7.5

7
6.5
1

8

15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120

Thời gian

Hình 4.11: Diễn biến pH thí nghiệm 1
6

D.O (mg/l)

5
4
3
2
1
0
1

8

15 22 29 36 43 50 57 64 71 78 85 92 99 106 113 120
Thời gian

Hình 4.3: Diễn biến oxy thí nghiệm 1
Kết quả cho thấy, trong thời gian nuôi độ mặn dao động 13-17o/oo(Hình 4.4),

trung bình 14,35o/oo. Theo Hoàng Đức Đạt (1995) cua có khả năng thích ứng cao
với sự thay đổi độ mặn của nước. Cua có thể sống trong vùng nước gần như ngọt
cho đến độ mặn trên 33o/oo tuy nhiên độ mặn thích hợp là 15-25 o/oo. Như vậy, độ
mặn trên là thích hợp để nuôi cua biển.
Độ kiềm và NH3 là 2 yếu tố theo dõi quan trọng trong nuôi tôm sú nhưng trong
nuôi cua biển chưa thấy nhiều tài liệu đề cập đến. Kết quả ghi nhận độ kiềm đạt
87,3±6,59, NH3 = 0 mg/l. Theo Boyd (1990) độ kiềm và NH3 thích hợp cho nuôi
thủy sản nước lợ, mặn là 75-125 mg/l và <0,1 mg/l. Với nhận định trên, kết quả
độ kiềm và NH3 đo được cũng phù hợp với nuôi cua biển. Dao động độ kiềm thể
hiện ở Hình 4.5.

17


×