Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm những biến chứng nội sọ của viêm màng não mủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.21 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

ĐẶC ĐIỂM NHỮNG BIẾN CHỨNG NỘI SỌ CỦA VIÊM MÀNG NÃO MỦ
Trần Quang Bính*, Phạm Trung Đạo

TÓM TẮT
Mở đầu: Viêm màng não mủ (VMNM) là một nhiễm trùng thần kinh trung ương nghiêm trọng và có khả
năng đe dọa tính mạng của người bệnh. Những biến chứng nội sọ của viêm màng não mủ có thể xảy ra tại mọi
thời điểm trong suốt quá trình bệnh và thậm chí sau khi kết thúc điều trị. Việc nghiên cứu về đặc điểm biến chứng
nội sọ của viêm màng não mủ có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá các yếu tố nguy cơ, tiên lượng, tình
trạng sống còn của bệnh nhân (BN).
Mục tiên nghiên cứu: Đặc điểm lâm sàng nhóm bệnh nhân viêm màng não mủ có biến chứng. Xác định tỉ lệ
biến chứng nội sọ của viêm màng não mủ. Mối tương quan biến chứng nội sọ của viêm màng não mủ với tình
trạng sống còn của bệnh nhân tại thời điểm xuất viện.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, bệnh nhân viêm màng não mủ có hoặc không
có biến chứng nội sọ được theo dõi từ lúc nhập viện đến khi bệnh nhân xuất viện, đánh giá kết cục khi bệnh
nhân xuất viện bằng thang điểm kết cục Glasgow (GOS). Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS 16.0.
Kết quả: Trong tổng số 105 bệnh nhân, tuổi trung bình là 50,95 ± 17,947 tuổi (từ 13- 89 tuổi), nam chiếm
72,4%. Biến chứng nội sọ VMNM xảy ra ở 8 BN (7,7%), trong đó biến chứng nhiều nhất là biến chứng động
kinh (3,7%), biến chứng điếc (1%), biến chứng đau đầu (1%), biến chứng não úng thủy (1%), biến chứng áp xe
não (1%). BN VMNM theo thang điểm kết cục Glasgow (GOS): tử vong là 23 BN (21,9%), trạng thái thực vật
là 6 BN (5,7%), di chứng nặng là 8 BN (7,6%), hồi phục trung bình là 17 BN (16,2%), hồi phục tốt là 51 BN
(48,6%).
Kết luận: VMNM là bệnh lý nhiễm trùng thần kinh trung ương có khả năng gây tử vong cao và để lại
những di chứng nặng nề cho bệnh nhân. Việc phát triển các loại thuốc kháng sinh vẫn không làm thay đổi tỷ lệ tử
vong ở BN VMNM trong nhiều thập kỷ. Vì vậy việc kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ, xác định được các biến
chứng nội sọ của viêm màng não mủ cũng giúp ích trong điều trị, giảm thiểu di chứng cho bệnh nhân VMNM.
Từ khóa: Thang điểm GOS, biến chứng nội sọ của viêm màng não mủ, tỉ lệ tử vong của viêm màng não mủ.



ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF INTRACRANIAL COMPLICATIONS OF BACTERIAL MENINGITIS
Tran Quang Binh, Pham Trung Dao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 – 2016: 198 - 203
Background: Bacterial meningitis is a serious and potentially life threatening central nervous system
infection. Intracranial complications of meningitis can occur at any time during the course of disease and even
after the completion of therapy. The study of the characteristics of intracranial complications of meningitis have
important implications for the assessment of risk factors, prognosis, survival status of patients.
Objective: Clinical features of patients with meningitis have complications. Determining the rate of
intracranial complications of meningitis. Correlations intracranial complications of meningitis with survival

*khoa bệnh Nhiệt đới- Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Trung Đạo
ĐT: 0985922696

198

Email:

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

Nghiên cứu Y học

status of patients at the time of discharge.
Methods: Prospective descriptive study, meningitis patients with or without intracranial complications are
monitored from admission until discharge patients, we assess outcomes when patients are discharged by Glasgow

Outcome Scale. Variables collected are processed by SPSS 16.0 statistical software.
Results: Of the 105 patients, mean age is 50.95 ± 17,947 (from 13 to 89), males accounted for 72.4%.
Intracranial complications of meningitis occurred in 8 patients (7.7%), in which the most complications is
epileptic complications (3.7%), deafness complications (1%), headache complications (1%), complications of
hydrocephalus (1%), complications of brain abscess (1%). Patients with meningitis according to Glasgow
Outcome Scale: death is 23 patients (21.9%), persistent vegetative state is 6 patients (5.7%), severe disability is 8
patients (7.6%), moderate disability is 17 patients (16.2%), good recovery is 51 patients (48.6%).
Conclusion: Meningitis is pathological central nervous system infection may cause high mortality and
sequelae left burdensome for patients. The development of antibiotics do not alter mortality in patients with
meningitis in decades. Therefore good control of risk factors, identify intracranial complications of meningitis have
also helped in treatment, reducing sequelae for meningitis patients.
Keywords: Glasgow Outcome Scale, intracranial complications of meningitis, the mortality rate of
meningitis.
quá trình bệnh và thậm chí sau khi kết thúc điều
ĐẶT VẤN ĐỀ
trị. Những biến chứng thần kinh có thể khu trú
Viêm màng não mủ là một nhiễm trùng thần
hoặc toàn thể, có thể khởi phát đột ngột hoặc từ
kinh trung ương nghiêm trọng và có khả năng
từ. Những bệnh nhân có thể tỉnh táo hoặc rối
đe dọa tính mạng của người bệnh. Bệnh viêm
loạn ý thức hoặc thậm chí hôn mê. Thường
màng não có thể dẫn đến hậu quả gây mất chức
những biến chứng xảy ra trong suốt quá trình
năng hoặc thậm chí tử vong của 170.000 bệnh
viêm màng não mủ cấp nhưng một số thì biểu
nhân mỗi năm trên toàn thế giới. Ở trẻ em thì
hiện dai dẳng trong một thời gian dài như; điếc,
nguy cơ viêm màng não mủ chiếm ưu thế hơn,
động kinh, liệt ½ người, rối loạn tâm thần kinh,

vì hệ thống miễn dịch của trẻ chưa hoàn thiện,
mất khả năng phát triển tinh thần và học tập. Sốc
dinh dưỡng kém và thiếu tiêm chủng cũng làm
hoặc huyết khối nội mạch, thường gặp ở bệnh
cho trẻ dễ mắc bệnh hơn dẫn đến nguy cơ gây tử
nhân viêm màng não do não mô cầu. Viêm
vong cao đáng kể. Mặc dù được dự phòng liệu
màng não do phế cầu khuẩn gây tử vong nhiều
pháp kháng sinh nhưng sự mất chức năng trong
nhất. Khó thở và suy hô hấp có thể xảy ra với bất
thời gan dài và tử vong thì vẫn phổ biến. Những
kỳ trường hợp viêm màng não mủ nào, đặc biệt
biến chứng thần kinh phổ biến ở người trưởng
là ở trẻ sơ sinh. Những biến chứng sau viêm
thành là điếc, giảm vận động, suy giảm nhận
màng não có thể xảy ra ở hầu hết ½ số trường
thức và rối loạn phát âm, trong khi ở trẻ em
hợp, 81% có thể biểu hiện lên hệ thần kinh. Một
thường gặp điếc thần kinh đi kèm với co giật và
phần trong số này có thể biểu hiện lên hệ cơ
giảm vận động. 16% bệnh nhi ở những nước
quan khác, trong khi ¼ trong số chúng thì có cả
phát triển có những biến chứng thần kinh, trong
biến chứng cả thần kinh lẫn hệ thống cơ quan (11).
khi con số này tăng lên 26% ở những nước đang
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu về “Đặc
phát triển(3). 2/3 trong số bệnh nhi tử vong do
điểm những biến chứng nội sọ của viêm màng
viêm màng não xảy ra ở những nước thu nhập
não mủ” nhằm tìm hiểu các yếu tố nguy cơ, yếu

thấp và 50% bệnh nhi viêm màng não sống sót
tố dịch tễ, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng,
sau khi trải qua một số di chứng thần kinh(10).
những biến chứng xảy ra ở bệnh VMNM, với các
Những biến chứng thần kinh của viêm màng
mục tiêu cụ thể sau: Đặc điểm lâm sàng nhóm
não có thể xảy ra tại mọi thời điểm trong suốt

Bệnh Nhiễm

199


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016

bệnh nhân viêm màng não mủ có biến chứng,
xác định tỉ lệ biến chứng nội sọ của viêm màng
não mủ, mối tương quan biến chứng nội sọ của
viêm màng não mủ với tình trạng sống còn của
bệnh nhân tại thời điểm xuất viện.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các bệnh
nhân viêm màng não mủ có biến chứng nội sọ
được điều trị tại khoa Nhiệt đới – Bệnh viện
Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ 07/10/2014
đến 31/5/2015. Đối tượng được đưa vào
nghiên cứu là những bệnh nhân được chẩn

đoán viêm màng não mủ theo tiêu chuẩn của
Tổ chức Y tế Thế giới và/hoặc có một hoặc
nhiều biến chứng sau: Huyết khối tĩnh mạch
nội sọ, đau đầu, não úng thủy, động kinh, áp
xe não hoặc tụ mủ dưới màng cứng, tụ dịch
dưới màng cứng, điếc. Chúng tôi không đưa
vào lô nghiên cứu những bệnh nhân có một
trong các đặc điểm sau đây: Những bệnh nhân
viêm màng não mủ do nhiễm khuẩn nội sọ
nguyên phát như áp xe não hoặc tụ mủ nội sọ,
những bệnh nhân phẫu thuật sọ não, bệnh
nhân không được theo dõi khi nằm viện, bệnh
nhân có các bệnh lý nặng khác kèm theo: Nhồi
máu cơ tim, ung thư giai đoạn cuối, suy thận
giai đoạn cuối.
Nghiên cứu mô tả tiến cứu. Bệnh nhân
viêm màng não mủ có hoặc không có biến
chứng nội sọ được theo dõi từ lúc nhập viện
đến khi bệnh nhân xuất viện, đánh giá kết cục
khi bệnh nhân xuất viện bằng thang điểm kết
cục Glasgow.
Các dữ liệu thu thập được ghi trong bệnh
án nghiên cứu, sau đó nhập liệu vào phần
nhập dữ liệu của phần mềm thống kê SPSS
16.0 để khảo sát về sự liên quan của các biến
số với tỉ lệ tử vong. Trong phân tích đơn biến,
các biến số định tính được phân tích bằng
phép kiểm chi bình phương, các biến số định
lượng phân tích bằng phép kiểm t mẫu độc lập
nếu có phân bố chuẩn, bằng phép kiểm MannWhitney nếu không có phân phối chuẩn.


200

KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi có mẫu
nghiên cứu 105 BN, trong đó có 29 nữ chiếm
27,6%, tuổi trung bình 50,95  17,947, BN nhỏ
nhất 13 tuổi, lớn nhất 89 tuổi. Có 96,2% BN có ít
nhất 2 trong 4 triệu chứng sốt, đau đầu, cổ cứng,
rối loạn ý thức. Thang điểm hôn mê Glasgow
(GCS) trung bình của các BN là 12,15 ± 3,091
điểm (từ 3-15 điểm). Tỷ lệ BN có điểm GCS≤ 8 là
14,3%, GCS >8 là 85,7%. Đạm dịch não tủy (DNT)
trung bình là 163,841± 1,458 mg% (n=96/105, từ
15-1065,6mg%). Đường DNT trung bình là
49,25± 39,658 mg% (n=96/105, từ 0-193 mg%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 92 BN làm
xét nghiệm DNT (87,6%), bạch cầu DNT trung
bình của nhóm nghiên cứu là 1309,98± 4,546 tế
bào/µl (n=92/105, từ 2- 42000), số lượng bạch cầu
DNT > 1000 tế bào/µl chiếm 22,9%. Số BN cấy
máu dương tính chiếm 9,52 % trong đó tỉ lệ BN
dương tính với E. coli (1.9 %), S. aureus (1 %),
Streptococcus sp (5,7%), Salmonella (1 %). Số BN
làm xét nghiệm cấy DNT+ vi khuẩn phân lập là
52 BN, 49,52 %, số BN có kết quả dương tính là 2
BN, 3,8%. Biến chứng nội sọ VMNM xảy ra ở 8
BN (7,7%), trong đó biến chứng nhiều nhất là
biến chứng động kinh (3,7%), biến chứng não

úng thủy 1 BN (0,95%), biến chứng điếc là 0,95%,
biến chứng áp xe não là 1 BN (1%), biến chứng
đau đầu chiếm 1%, bệnh nhân có kèm nhiễm
trùng huyết (NTH) và NTH có biến chứng
choáng nhiễm trùng (CNT) chiếm tỉ lệ khá cao
(NTH, VMNM là 7,6%, và NTH biến chứng
CNT, VMNM là 14,3%). Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 62 BN được điều trị với ceftriaxone
4g/ ngày (chiếm tỉ lệ 59%), 3 BN dùng ceftazidim
6g/ ngày (chiếm tỉ lệ 2,9%) và 40 BN dùng
ceftriaxone kết hợp với vancomycin (tiêm tĩnh
mạch) chiếm tỉ lệ 38,1%. Thời gian điều trị kháng
sinh trung bình ở nhóm nghiên cứu là 14,49 ±
7,749 ngày, ít nhất là 3 ngày (có 8 trường hợp tử
vong: 4 trường hợp do NTH biến chứng CNT và
4 trường hợp do SHH TH), lâu nhất là 50 ngày (1
trường hợp NTH và 1 trường hợp áp xe não). Có

Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
87 BN (82,9%) được sử dụng dexamethasone
(tiêm tĩnh mạch), sử dụng cùng lúc với tiêm
kháng sinh, thời gian sử dụng dexamethasone
trung bình là 4 ngày, không có trường hợp nào
có tác dụng phụ của thuốc. BN có GOS ≤ 4 điểm
chiếm 51,4%, BN có GOS= 5 điểm chiếm 48,6%.
Số BN tử vong chiếm khoảng 1/5 số BN nghiên
cứu (21,9%).

Qua phân tích đơn biến thì các yếu tố đó là:
Tuổi, giới tính, số lượng tế bào DNT, cấy DNT,
soi tươi+ nhuộm gram, đạm DNT, đường DNT,
các biến chứng nội sọ của VMNM, thang điểm
kết cục Glasgow không liên quan với tỉ lệ tử
vong trong nghiên cứu (p > 0,05).
Có 2 yếu tố đó là: nhịp tim; mức độ hôn mê
tính theo điểm Glasgow (GCS) là những yếu tố
có ý nghĩa thống kê với tình trạng sống còn của
BN tại thời điểm xuất viện (p < 0,05).
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của Stefan Kastenbauer
và cộng sự (CS) thì tỉ lệ biến chứng nội sọ của
VMNM là 74,7 %, và nghiên cứu này chỉ khảo
sát những bệnh nhân VMNM do phế cầu,
trong đó biến chứng động kinh chiếm
27,6%(16). Trong nghiên cứu của chúng tôi biến
chứng nội sọ VMNM xảy ra ở 8 BN (7,7%),
trong đó biến chứng nhiều nhất là biến chứng
động kinh (3,7%).
Điều này tương tự như trong nghiên cứu của
Rabbani MA và CS tỉ lệ biến chứng VMNM là
37,6%, biến chứng gặp nhiều nhất cũng là động
kinh (12,8%) (14). Tỉ lệ biến chứng động kinh trong
các nghiên cứu trên BN VMNM do phế cầu là
25,6% (4), 25,8%(9). Trong các nghiên cứu trước
đây thì tỉ lệ biến chứng động kinh được báo cáo
từ 5- 23% và có liên quan có ý nghĩa với sự sống
còn của BN (p< 0,05)(11,6). Biến chứng động kinh
thì xảy ra ở người lớn tuổi (p<0,05) (14), còn trong

nghiên cứu của chúng tôi biến chứng động kinh
xảy ra ở độ tuổi từ 18- 63 tuổi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 4 BN có
biến chứng động kinh (2 BN nhập viện trong
tình trạng hôn mê, 1 BN nhập viện với lý do co

Bệnh Nhiễm

Nghiên cứu Y học

giật và 1 BN nhập viện với lý do yếu ½ người P),
thời gian nằm viện của BN từ 14 đến 25 ngày,
những bệnh nhân có biến chứng động kinh đều
có GOS= 3 điểm, như vậy BC động kinh có khả
năng để lại di chứng nặng cho BN VMNM.
Trong nghiên cứu của chúng tôi biến chứng
não úng thủy 1 BN (0,95%), BN nhập viện trong
tình trạng hôn mê, BN được điều trị 23 ngày và
tử vong (GOS= 1 điểm). Biến chứng não úng
thủy gặp ở người trẻ (p< 0,05), tỉ lệ biến chứng
não úng thủy là 6,1%(14). Trong nghiên cứu của
Stefan Kastenbauer và CS thì tỉ lệ biến chứng
não úng thủy là 16,1%(16). Trong nghiên cứu của
Pfister HW và CS thì tỉ lệ biến chứng não úng
thủy là 14%(11). Trong nghiên cứu khác của
Pfister HW sau đó 10 năm thì tỉ lệ biến chứng
não úng thủy là 15%(12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỉ lệ
biến chứng điếc là 0,95%, BN nhập viện trong
tình trạng sốt + đau đầu, được điều trị 18

ngày, GOS= 4 điểm. Biến chứng điếc được biết
chủ yếu xảy ra ở trẻ em(5,13). Trong một nghiên
cứu tiền cứu thì tỉ lệ biến chứng điếc là 31%.
Trong nghiên cứu của Stefan Kastenbauer thì
tỉ lệ biến chứng điếc là 19,5%(16). Có lẽ trong
nghiên cứu của chúng tôi toàn bộ trên người
lớn nên tỉ lệ biến chứng này thấp.
Biến chứng áp xe não trong nghiên cứu
của chúng tôi là 1 BN (1%), BN nhập viện
trong tình trạng sốt + đau đầu, được điều trị
22 ngày, GOS= 2 điểm. Còn trong nghiên cứu
của Pfister HW và CS thì tỉ lệ biến chứng áp xe
não là 1,2% (12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi còn gặp biến
chứng đau đầu chiếm 1%, BN nhập viện với lý
do đau đầu+ nôn ói, được điều trị 14 ngày, GOS=
4 điểm.
Ngoài ra trong nghiên cứu của Stefan
Kastenbauer và CS ở những BN VMNM do phế
cầu còn gặp biến chứng động mạch não 21,8%,
biến chứng tĩnh mạch não 10,3%, xuất huyết nội
sọ 9,2%, phù não lan tỏa 28,7%, viêm tủy 2,3%,
viêm não 4,6%, liệt dây thần kinh sọ 4,6%. Các

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016


biến chứng hệ thống như sốc nhiễm trùng 31%,
đông máu nội mạch lan tỏa 23%, suy thận phải
chạy thận 11,5%, hội chứng nguy kịch hô hấp
người lớn 6,9%(16). Còn trong nghiên cứu của
Pfister HW và CS thì biến chứng động mạch là
10,5 %, tĩnh mạch 4,7%, phù não 14%, xuất huyết
nội sọ 2,3%, các biến chứng hệ thống như: Sốc
nhiễm trùng 11,6%, hội chứng nguy kịch hô hấp
người lớn 3,5%, đông máu nội mạch lan tỏa
8,1%, viêm tụy 1,2%, viêm khớp 2,3%, thuyên tắc
phổi 2,3%, viêm phổi 8,1%, sảng rượu cấp 2,3%.
BN đa số tử vong do biến chứng nội sọ (phù não,
não úng thủy, nhồi máu não và viêm xoang hoặc
huyết khối tĩnh mạch nội sọ) hoặc do biến chứng
hệ thống (sốc nhiễm trùng, đông máu nội mạch
lan tỏa và hội chứng nguy kịch hô hấp người
lớn)(11,15). Những người lớn tuổi thường gặp biến
chứng hệ thống (16).Và người lớn tuổi tử vong do
biến chứng hệ thống hơn là biến chứng nội sọ
(trái ngược với những BN trẻ hơn). Tuy nhiên ở
những BN biến chứng nội sọ và biến chứng hệ
thống lại không có sự khác biệt giữa BN trẻ và
BN lớn tuổi. Vì vậy, biến chứng hệ thống có thể
là biến chứng nguy hiểm hơn.
Biến chứng và tỉ lệ tử vong thì ít gặp ở trẻ em
hơn là người lớn(8,1). Ngoài ra, những nhiên cứu
ở người lớn thường là những BN VMNM cấp
với nhiều tác nhân khác nhau(11,6,7).
Thang điểm hôn mê Glasgow (GCS) lúc

nhập viện, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, những
biến chứng nội sọ và biến chứng hệ thống thì
liên quan đến tình trạng sống còn của bệnh
nhân, được xác định ở những nghiên cứu trước
đây. Như trong nghiên cứu của Stefan
Kastenbauer và CS, mức độ ý thức của BN đã
được xác định là có khả năng dự đoán tình trạng
của BN trong những báo cáo trên BN VMNM ở
người lớn do phế cầu(2), hoặc trong nghiên cứu
VMNM do nhiều loại vi khuẩn(6,7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biến
chứng nội sọ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì số bệnh

202

nhân tử vong chiếm khoảng 1/5 số bệnh nhân
nghiên cứu (21,9%). Trong nghiên cứu của Tang
LM và CS thì tỉ lệ tử vong trung bình là 27,8%(17).
Trong nghiên cứu của Rabbani MA và CS thì tỉ lệ
tử vong là 22,1%, trong đó do phế cầu là 17,1%(14).
Trong nghiên cứu của Stefan Kastenbauer thì tỉ
lệ tử vong là 24,1% (16).Trong nghiên cứu của
Pfister HW và CS thì tỉ lệ tử vong là 18,6%(11).

KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 4 BN có
biến chứng động kinh (2 BN nhập viện trong
tình trạng hôn mê, 1 BN nhập viện với lý do co

giật và 1 BN nhập viện với lý do yếu ½ người
P), thời gian nằm viện của BN thấp nhất là 14
ngày, nhiều nhất là 25 ngày, các BN này đều có
GOS= 3 điểm. Biến chứng não úng thủy 1 BN,
nhập viện trong tình trạng hôn mê, được điều
trị 23 ngày và tử vong (GOS= 1điểm). Biến
chứng điếc là 1 BN, nhập viện trong tình trạng
sốt + đau đầu, được điều trị 18 ngày, GOS= 4
điểm. Biến chứng áp xe não trong nghiên cứu
của chúng tôi là 1 BN (1%), BN nhập viện trong
tình trạng sốt + đau đầu, được điều trị 22 ngày,
GOS= 2 điểm. Biến chứng đau đầu 1 BN, nhập
viện với lý do đau đầu+ nôn ói, được điều trị 14
ngày, GOS= 4 điểm.
Biến chứng nội sọ của VMNM xảy ra ở 8 BN
(7,7%), trong đó biến chứng nhiều nhất là biến
chứng động kinh (3,7%), biến chứng điếc (1%),
biến chứng đau đầu (1%), biến chứng não úng
thủy (1%), biến chứng áp xe não (1%). Ngoài ra
bệnh nhân có các bệnh lý khác kèm theo như :
suy hô hấp tuần hoàn (3,7%); NTH (7,6%); tăng
huyết áp, đái tháo đường (1,9%); NTH biến
chứng CNT (14,3%).
Qua phân tích đơn biến thì các yếu tố đó là:
Tuổi, giới tính, số lượng tế bào DNT, cấy DNT,
soi tươi+ nhuộm gram, đạm DNT, đường DNT,
các biến chứng nội sọ của VMNM, thang điểm
kết cục Glasgow không liên quan có ý nghĩa
thống kê với tình trạng sống còn của BN tại thời
điểm xuất viện (p > 0,05). Ngược lại yếu tố nhịp


Chuyên Đề Nội Khoa II


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
tim và yếu tố mức độ hôn mê tính theo điểm
Glasgow (GCS) có liên quan có ý
Trong nghiên cứu chúng tôi có 23 BN tử
vong (21,9%). 1 BN tử vong do biến chứng não
úng thủy (1%), 4 BN tử vong do suy hô hấp tuần
hoàn (3,7%), 15 BN tử vong do NTH biến chứng
CNT (15,2%), 1 BN tử vong do tăng huyết áp, đái
tháo đường (1%), và 1 BN tử vong do NTH (1%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Arditi M, Mason EO Jr, Bradley JS, Tan TQ, Barson WJ,

Schutze GE, Wald ER, Givner LB Kim KS, Yoqev R, Kaplan
SL (1998). “Three-year multicenter surveillance of
pneumococcal meningitis in children: clinical characteristics,
and outcome related to penicillin susceptibility and
dexamethasone use”. Pediatrics, 102(5), tr 1087- 1097.
Auburtin M, Porcher R, Bruneel F, Scanvic A, Trouillet JL,
Bédos JP, et al (2002). “Pneumococcal meningitis in the
intensive care unit: prognostic factors of clinical outcome in a
series of 80 cases”. Am J Respir Crit Care Med, 165, tr. 713-717.
Braff LJ, Lee SI, Schriger DL (1993), “Outcomes of bacterial
meningitis in childen: a meta-analysis”. Pediatr Infect Dis J,
12(5), tr. 389-394.
Bruyn GA, Kremer HP, deMarie S, Padberg GW, Hermans J,
van Futh R (1989). “Clinical evaluation of pneumococcal
meningitis in adults over a twelve- year period”. Eur J Clin
Microbiol Infect Dis, 8, tr, 695-700.
Dodge PR, Davis H, Feigin RD, et al (1984), “Prospective
evaluation of hearing impairment as a sequel of acute bacterial
meningitis”. N Engl J Med, 311, tr. 869-874.
Durand ML, Calderwood SB, Weber DJ, Miller SI, Southwick
FS, Caviness VS Jr, Swartz MN (1993), “Acute bacterial
meningitis in adults. Areview of 493 episodes”. N Engl J Med.
328(1), tr. 21-28.
Hussein AS, Shafran SD (2000), “Acute bacterial meningitis in
adults. A 12-year review”, Medicine. 79, tr. 360-368.

Bệnh Nhiễm

8.


9.
10.
11.

12.

13.

14.

15.

16.

17.

Nghiên cứu Y học

Kornelisse RF, Westerbeek CM, Spoor AB, van der Heijde B,
Spanjaard L, Neijens HJ, et al (1995). “Pneumococcal
meningitis in children: prognostic indicators and outcome”.
Clin Infec Dis, 21, tr. 1390-1397.
Kragsbjerg P, Kallman J, Olcen P (1994). “Pneumococcal
meningitis in adults”, Scand J Infec Dis. 26, tr. 659-666.
Mace SE, Acute Bacterial Meningitis (2008), Emerg Med Clin N
Am. 26(2), tr. 281-317.
Pfister HW, Feiden W (1993), “Spectrum of Complications
During Bacterial Meningitis in Adults. Results of a prospective
clinical study”, Arch Neurol. 50, tr. 575-581.
Pfister HW, Paul R, Kastenbauer S, Koedel U (2003),

“Complications and treatment of bacterial meningitis”,
Schweiz Neurol Psychiatr. 154, tr. 169-173.
Pomeroy SI, Holntes Sl, Dodge IT, et al (1990), “Seizure and
other neurologic sequelae of bacterial meningitis in children”,
New Engl J Med. 323, tr. 1651.
Rabbani MA, Khan AA, Ali SS, Ahmad B, Baig SM, Khan
MA, Wasay M (2003), “Spectrum of Complications and
Mortality of Bacterial Meningitis: an Experience from a
Developing Country”, JPMA. 53, tr. 580.
Schuchat A, Robinson K, Wenger JD, et al (1997), “Bacterial
Meningitis in the United States in 1995”, New Engl J Med. 337,
tr. 970-976.
Kastenbauer S, Pfister HW (2003), “Pneumococcal meningitis
in adults Spectrum of complications and prognostic factors in
a series of 87 cases”, Guarantors of Brain.
Tang LM, Chen ST, HSU WC and Lyu RK (1999), “Acute
bacterial
meningitis
in
adults:
a
hospital-based
epidemiological study”, Q J Med. 92, tr. 719-725.

Ngày nhận bài báo:

20/11/2015

Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:


30/11/2015
15/02/2016

203



×