Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá hiệu quả kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo theo phương pháp Abol-Enein trong điều trị ung thư bàng quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.24 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CẮM NIỆU QUẢN
VÀO BÀNG QUANG TÂN TẠO THEO PHƯƠNG PHÁP ABOL-ENEIN
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÀNG QUANG
Ngô Xuân Thái*, Phạm Đức Minh*, Thái Kinh Luân**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng là điều trị tiêu chuẩn trên bệnh nhân ung thư
bàng quang được cắt bàng quang tận gốc. Kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo cần có cơ chế chống
ngược dòng giúp bảo vệ được đường tiết niệu trên. Chúng tôi báo cáo hiệu quả của kỹ thuật cắm niệu quản bằng
cách tạo đường hầm ngoài thành mạc theo phương pháp Abol-Enein.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp (TH) được phẫu thuật cắt bàng quang
tận gốc, tạo hình bàng quang bằng hồi tràng và cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo theo phương pháp
Abol-Enein tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2012 đến 12/2017. Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, giới tính, BMI,
giai đoạn ung thư bàng quang, chỉ số creatinin huyết thanh. Kết quả phẫu thuật gồm các biến chứng sớm
phẫu thuật cắm niệu quản, chức năng thận, tỷ lệ ngược dòng bàng quang – niệu quản, hẹp niệu quản sau 6 tháng.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm 33 trường hợp. Tuổi trung bình 57,4  9,6. Tỷ lệ nam nữ 5,6. Chỉ số khối cơ
thể trung bình 21,11  2,22 kg/m2. Chỉ số Creatinin huyết thanh trước và sau mổ thay đổi không đáng kể. Không
có TH nào bị suy thận cấp sau mổ, không TH nào bị hẹp niệu quản hay rò nước tiểu qua miệng nối niệu quản
ruột sau mổ. Chúng tôi theo dõi được 22/33 TH, trong đó có 2 TH tử vong trước 6 tháng, những TH còn lại tiếp
tục theo dõi. Thời gian theo dõi trung bình 31,49  22,19 tháng. Một TH suy thận trong quá trình theo dõi. Tỷ lệ
ngược dòng bàng quang niệu quản là 5,1% và tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6% tính theo số đơn vị thận – niệu quản.
Kết luận: Kỹ thuật cắm niệu quản có cơ chế chống ngược dòng bằng cách tạo đường hầm ngoài thanh mạc
theo Abol-Enein có hiệu quả tốt. Phương pháp này giúp bảo vệ đường tiết niệu trên thông qua cơ chế chống
ngược dòng bàng quang niệu quản và tỷ lệ hẹp niệu quản thấp, tương đương với các phương pháp không chống
ngược dòng khác.
Từ khóa: cắm niệu quản, bàng quang tân tạo, Abol-Enein


ABSTRACT
RESULTS OF URETERAL REIMPLANTATION WITH SEROUS-LINED EXTRAMURAL TUNNEL IN
ORTHOTOPIC ILEAL NEOBLADDER: PROCEDURE OF ABOL-ENEIN
Ngo Xuan Thai, Pham Duc Minh, Thai Kinh Luan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 53 - 58
Objective: Orthotopic ileal neobladders have become the standard of care after radical cystectomy in patients
with bladder cancer. To protect the upper urinary tract, ureteral reimplantation technique needs an antireflux
mechanism. We report the results of ureteral reimplantation with serous-lined extramural tunnel, Abol-Enein
procedure, in orthotopic ileal neobladder.
Materials and Methods: 33 cases were performed Abol-Enein ureteral reimplantation in orthotopic ileal
neobladder following radical cystectomy from 1/2012 to 12/2017 at Cho Ray hospital. We analyze the
demographic data, BMI, preoperative and postoperative serum creatinin, complications, vesicoureteral reflux and
*Bộ môn Tiết Niệu Học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Đức Minh

Chuyên Đề Ngoại Khoa

ĐT: (+84) 937 392 789 Email:

53


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

ureteral stricture rate.
Results: Mean age 57.4  9.6, ratio of male/female 5.6, mean BMI 21.11  2.22 kg/m2. Preoperative and
postoperative serum creatinin did not change stastically. There was no acute renal failure, ileoureteral stricture or
ileoureteral leakage. Twenty two patients ware followed up, 2 cases died before 6 months. Mean follow up was

31.49  22.19 months. One case had renal failure. Ureteral reflux was observed in 2 renal units (5.1%),
ileoureteral stricture in 1 renal unit (2.6%).
Consclusions: Abol-Enein procedure of ureteral reimplation with serous-lined extramural tunnel in
ileal orthotopic neobladder has good results. This technique can protect the upper urinary tract via
vesicoureteral antireflux and low rate of ileoureteral stricture, comparable with reflux ureteral reimplatation methods.
Keywords: ureteral implantaion, orthotopic neobladder, Abol-Enein
Qua nhiều năm áp dụng phương pháp AbolĐẶT VẤN ĐỀ
Enein và theo dõi bệnh nhân tại bệnh viện Chợ
Phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi
Rẫy, chúng tôi báo cáo những kết quả đạt được
tràng ngày càng được chọn lựa trên những bệnh
để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của
nhân được cắt bàng quang do bệnh lý ung thư
phương pháp này.
bàng quang. Phương pháp này dần thay thế
ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
những hình thức chuyển lưu khác và trở thành
điều trị tiêu chuẩn tại các trung tâm Tiết Niệu
Đây là báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp.
lớn trên thế giới(16). Một trong những mục tiêu
Tất cả bệnh nhân ung thư bàng quang được chỉ
quan trọng nhất của phương pháp tạo hình là
định cắt bàng quang tận gốc và được tạo hình
phải bảo vệ được chức năng đường tiết niệu
bàng quang bằng hồi tràng và cắm lại niệu quản
trên. Vì vậy, trên bàng quang bằng hồi tràng có
theo phương pháp Abol-Enein tại bệnh viện Chợ
áp lực thấp thì có cần cơ chế chống ngược dòng
Rẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2017.
khi cắm lại niệu quản vẫn còn đang tranh cãi.

Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, giới tính,
Nhiều phương pháp cắm niệu quản có cơ
chế chống ngược dòng đã được phát triển theo
thời gian và chứng minh được tính hiệu quả như
làm giảm tỷ lệ suy thận, nhiễm khuẩn ngược
dòng và sẹo trên thận(5). Tuy nhiên, cũng có
nhiều bằng chứng cho thấy không có sự khác
biệt giữa có hay không có cơ chế chống ngược
dòng khi cắm lại niệu quản trên bàng quang hồi
tràng(4,17), mặt khác nó còn có nguy cơ gây hẹp
miệng nối niệu quản – bàng quang(11,13).
Năm 2001, tác giả Abol-Enein đã phát triển
kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang hồi
tràng bằng cách tạo đường hầm ngoài thanh
mạc cho thấy những kết quả khả quan. Tỷ lệ
ngược dòng bàng quang - niệu quản từ 0% đến
3% và tỷ lệ hẹp miệng nối niệu quản từ 0,5% đến
3,8%(2,9), tương đương với hầu hết các kỹ thuật
không chống ngược dòng khác(11).
Tại Việt Nam, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu
chứng minh tính hiệu quả của kỹ thuật này(8,21).

54

BMI, giai đoạn ung thư bàng quang, chỉ số
creatinin huyết thanh. Kết quả phẫu thuật gồm
các biến chứng sớm phẫu thuật cắm niệu quản,
chức năng thận, tỷ lệ ngược dòng bàng quang –
niệu quản, hẹp niệu quản sau 6 tháng.
Trường hợp bệnh nhân có triệu chứng bế tắc

đường tiểu dưới hoặc thể tích nước tiểu tồn lưu
cao (RUV>100ml): thăm dò niệu đạo, soi niệu
đạo bàng quang để đánh giá hẹp niệu đạo, hẹp
miệng nối niệu đạo bàng quang hay bướu bàng
quang tái phát.
Ngược dòng bàng quang – niệu quản: xác
định bằng phim chụp niệu đạo bàng quang khi
rặn tiểu (VCUG) sau khi loại trừ nguyên nhân bế
tắc đường tiểu dưới (nếu có).
Hẹp niệu quản: khi giãn niệu quản tăng lên
so với trước phẫu thuật hoặc tăng creatinin sau
phẫu thuật, bệnh nhân được soi bàng quang
để loại trừ nguyên nhân bế tắc đường tiết niệu
dưới nếu thể tích tồn lưu cao và chụp phim

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
niệu đạo bàng quang không thấy hình ảnh
ngược dòng bàng quang - niệu quản, xác định
bằng CT-scan dựng hình hệ niệu và xạ hình
thận với thuốc lợi tiểu.
Các biến số được phân tích bằng phần
mềm thống kê SPSS 22.0, khác biệt có ý nghĩa
khi p<0,05.

KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu từ 1/2012 đến
12/2017, tại bệnh viện Chợ Rẫy, có 33 trường hợp

(TH) được cắm niệu quản vào bàng quang tân
tạo theo phương pháp Abol-Enein.

Nghiên cứu Y học

trong đó có 2TH tử vong, 20 TH còn lại tiếp
tục theo dõi đến thời điểm nghiên cứu. Thời
gian theo dõi trung bình 31,49  22,19 tháng (374). Chỉ số Creatinin huyết thanh thay đổi
không đáng kể sau mổ và trong thời gian theo
dõi. Có 1 TH suy thận trong quá trình theo dõi.
Có 2 TH ngược dòng bàng quang niệu quản 1
bên, 1 TH bị hẹp niệu quản, tuy nhiên các TH
này chức năng thận đều trong giới hạn bình
thường. Tỷ lệ ngược dòng bàng quang niệu
quản là 5,1% và tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6%
trên số đơn vị thận niệu quản.

Độ tuổi trung bình 57,4  9,6 (39-81) tuổi.
Nam giới chiếm ưu thế với 28/33 TH (84,8%), nữ
giới chiếm 5/33 TH (15,2%). Chỉ số khối cơ thể
trung bình 21,11  2,22 kg/m2(16,65-24,97).
Chúng tôi đánh giá giai đoạn trước phẫu
thuật chủ yếu trên các phương tiện hình ảnh
học: soi bàng quang, siêu âm và đặc biệt là CTscan hoặc MRI. Trong số 33 TH, không có TH
nào ở giai đoạn T1, có 26 TH (78,8%) ở giai đoạn
T2 và 7 TH (21,3%) giai đoạn T3. Tuy nhiên sau
mổ, kết quả giải phẫu bệnh trong nhóm nghiên
cứu có 1 TH giai đoạn chưa xâm nhập Ta, 10 TH
(30,3%) giai đoạn T1, 18 (54,5%) giai đoạn T2, 1
TH (3%) giai đoạn T3 và 3 TH giai đoạn T4a. Tỷ

lệ đánh giá đúng giai đoạn T trước và sau mổ là
14/33 TH (42,4%). Trước mổ có 2 TH (6,1%) di
căn hạch giai đoạn N1, sau mổ chúng tôi phát
hiện thêm 2 trường hợp di căn hạch chậu bịt.
Như vậy tổng số TH di căn hạch chậu trong
nghiên cứu là 4 TH, chiếm 12,1%.
Giải phẫu bệnh ung thư bàng quang trong
nghiên cứu chủ yếu là carcinoma niệu mạc tại
bàng quang, chiếm 90,9%, trong đó 25 TH
(75,8%) là độ ác cao và 5 TH (15,1%) là độ ác
thấp. Có 3 TH (9,1%) có giải phẫu bệnh là
carcinoma tế bào gai.
Biến chứng sớm của phẫu thuật cắm niệu
quản, chúng tôi không có TH nào bị suy thận
cấp sau mổ, không có TH nào hẹp niệu quản hay
rò nước tiểu qua miệng nối niệu quản ruột.
Chúng tôi theo dõi được 22/33 TH (66,7%),

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Hình 1. Chỉ số creatinin huyết thanh trước và sau
phẫu thuật.

BÀN LUẬN
Những biến chứng trên niệu quản trong
giai đoạn sớm cũng được ghi nhận trong y
văn. Tác giả Hautmann cắm niệu quản theo
phương pháp Le Duc ghi nhận 4TH (1,1%) rò
miệng nối niệu quản – ruột, trong đó 3 TH
phải can thiệp ngoại khoa; 11 TH (3%) bị hẹp

niệu quản, tất cả đều phải can thiệp ngoại
khoa(4). Tác giả Shaaban cắm niệu quản trực
tiếp vào bàng quang tân tạo ghi nhận 1TH
(1,7%) bị rò nước tiểu miệng nối niệu quản –
ruột kéo dài cần phải dẫn lưu thận ra da tạm
thời(14). Ngược lại, Studer với cách cắm vào
đoạn ruột xuôi chiều hay Stein với phương
pháp cánh tay chữ T lại ghi nhận không có
bất kì biến chứng sớm nào liên quan đến
phương pháp cắm niệu quản(18,20). Tương tự,

55


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

trong 450 TH cắm niệu quản bằng cách tạo
đường hầm dưới thanh mạc, tác giả AbolEnein cũng không gặp biến chứng sớm nào
trên niệu quản(2).
Một TH có Creatinin huyết thanh trước và
sau mổ là 1,42 – 1,48 mg/dL, theo dõi đến tháng
thứ 16 chỉ số Creatinin huyết thanh tăng lên 1,57
mg/dL. Bệnh nhân được siêu âm đánh giá cấu
trúc 2 thận bình thường, không ứ nước. Mức
thay đổi Creatinin này không nhiều lại trong
thời gian dài nên nghĩ nguyên nhân do bệnh
thận mạn, một phần bệnh nhân lớn tuổi, hiện tại
đã bước sang tuổi 73, đồng thời mắc các bệnh lý

nội khoa mạn tính như tăng huyết áp và đái tháo
đường týp 2 hơn 10 năm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi
nhận TH nào có biến chứng rò nước tiểu qua
miệng nối niệu quản – ruột hay hẹp niệu quản
trong thời gian nằm viện. Kết quả này tương
đồng với tác giả Trần Chí Thanh và các tác giả
khác(12,14,21,22), thấp hơn tác giả Ali-El-Dein và
Papadopoulos với tỷ lệ hẹp niệu quản lần lượt là
0,5% và 4%(3,12). Theo chúng tôi, những biến
chứng như hoại tử niệu quản hay rò niệu quản
là do niệu quản thiếu máu nuôi. Ưu điểm của
phương pháp Abol-Enien là niệu quản nằm
trong đường hầm và được khâu vào 2 vạt ruột
nên được cung cấp máu nuôi dồi dào. Ngoài ra,
khi cắm vào bàng quang ruột, miệng niệu quản
được xẻ rộng thêm làm giảm nguy cơ hẹp niệu
quản sau mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 TH
(10%) bệnh nhân bị ngược dòng bàng quang niệu quản, tính theo đơn vị thận niệu quản thì
tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản là
5,1%. Hai trường hợp này đều có hình ảnh
thận ứ nước độ 1 trên siêu âm và chỉ số
creatinin huyết thanh đều trong giới hạn bình
thường. Kết quả này cao hơn so với tác giả
Trần Chí Thanh và cộng sự thực hiện phẫu
thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng và
cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo kiểu
thành ngoài thanh mạc của Abol-Enein cho
thấy tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản


56

là 2,5% đơn vị thận niệu quản(21).
Chính tác giả Abol-Enein cũng đã báo cáo
kết quả phương pháp cắm niệu quản của mình
trên 450 bệnh nhân, tỷ lệ ngược dòng bàng
quang - niệu quản là 3% số đơn vị thận niệu
quản(2). Tiếp nối sau đó, tác giả Turkolmez và
Osman cũng đã thực hiện phương pháp cắm
niệu quản của Abol-Enein vào bàng quang tân
tạo trên bệnh nhân ung thư bàng quang cho thấy
tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản lần
lượt là 3,7% và 2,6% đơn vị thận niệu quản(10,22).
Trong nghiên cứu so sánh giữa phương pháp
cắm niệu quản thành ngoài thanh mạc và
phương pháp cánh tay hình chữ T, Abol-Enien
và Yasser Osman cũng không ghi nhận trường
hợp nào bị ngược dòng bàng quang - niệu quản
trên tổng số 49 đơn vị thận niệu quản(9).
So với các phương pháp cắm niệu quản
khác, tỷ lệ ngược dòng bàng quang niệu quản
trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương
với phương pháp cắm niệu quản theo Le Duc
hay phương pháp Koch, và thấp hơn các
phương pháp khác như cắm trực tiếp hay cánh
tay hình chữ T(4,9,10,18).
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1 TH
hẹp niệu quản, tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6% số
đơn vị thận niệu quản. Kết quả của chúng tôi

tương đương với các nghiên cứu của tác giả
khác. Tác giả Trần Chí Thanh ghi nhận tỷ lệ hẹp
miệng nối niệu quản – bàng quang là 2,38%(21).
Tác giả Abol-Enein ghi nhận trên 450 trường
hợp tỷ lệ hẹp niệu quản là 3,8% đơn vị thận niệu
quản(2). Nhiều tác giả sau đó cũng đã thực hiện
kỹ thuật Abol-Enein và báo cáo tỷ lệ hẹp niệu
quản vào khoảng 2 – 5%(9,12,22).
Nhìn chung, phương pháp tạo đường hầm
ngoài thanh mạc có tỷ lệ hẹp niệu quản tương
đương với phương pháp không chống ngược
dòng và thấp hơn các phương pháp chống
ngược dòng khác(4,9,10,15,18). Ưu điểm của kỹ thuật
này là không để niệu quản tiếp xúc trực tiếp với
nước tiểu, tạo điều kiện miệng nối lành tốt, giảm
nguy cơ hình thành huyết khối, tạo sẹo hay bị
vôi hóa. Tác giả Abol-Enein đề nghị nên tránh để

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
lớp bao xơ của niệu quản phơi bày ra, nó sẽ bị
kích thích liên tục của nước tiểu, kết quả là hình
thành sẹo gây hẹp niệu quản.
Một điểm cần lưu ý trong kỹ thuật là phải
đảm bảo niệu quản được máu nuôi tốt, vì vậy
trong quá trình bóc tách niệu quản không nên
dùng dao điện, không bóc tách quá sát lớp
thanh mạc niệu quản. Điều thuận lợi của

phương pháp Abol-Enein là miệng nối niệu
quản ruột được tiếp xúc với 2 vạt hồi tràng
được cấp máu rất dồi dào(1).
Đối với niệu quản không giãn, chúng tôi xẻ
dọc đầu xa niệu quản để tạo thành hình vát để
giảm nguy cơ hẹp miệng nối khi khâu nối niệu
quản và 2 vạt hồi tràng. Kỹ thuật này cũng đã
được nhiều tác giả áp dụng trong các phương
pháp chống ngược dòng khác, với tỷ lệ hẹp
niệu quản thấp khoảng 1-2%(15,19). Để đạt hiệu
quả van chống ngược dòng, chúng tôi tôn
trọng nguyên tắc của Paquin, chiều dài đoạn
niệu quản nội thành là từ 2 – 4cm, và tỷ lệ
chiều dài đường hầm so với đường kính niệu
quản là 4-5:1(7), tức là với đường kính niệu
quản khoảng 5mm thì chiều dài đường hầm
của chúng tôi khoảng 2-3cm. Đây cũng là một
ưu điểm của phương pháp Abol-Enein, thao
tác khâu nối và tạo đường hầm vẫn rất thuận
lợi khi niệu quản giãn lớn.
Theo Paquin, một trong những yếu tố góp
phần quan trọng trong thành công của kỹ thuật
cắm niệu quản là chiều rộng đường hầm phải
gấp 2-3 lần đường kính niệu quản(7). Khi tạo hình
bàng quang bằng hồi tràng, đường kính đoạn
ruột thường nhỏ, nhất là trên người châu Á,
thêm vào đó đoạn ruột được xẻ dọc, sắp xếp và
khâu nối lại sẽ dễ làm hẹp đường kính của
đường hầm ngoài thanh mạc, đặc biệt khi niệu
quản giãn lớn thì đường hầm sẽ hẹp tương đối

so với niệu quản. Vì vậy, khi xẻ dọc đoạn hồi
tràng, chúng tôi xẻ lệch một bên về phía niệu
quản mà không ngay chính giữa bờ tự do. Điều
này làm tăng kích thước cho 2 vạt hồi tràng để
tạo đường hầm cho niệu quản. Kỹ thuật này
được tác giả Turkolmez mô tả vào năm 2004 áp

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

dụng cho những trường hợp niệu quản giãn lớn.
Kết quả trong nghiên cứu của ông cho thấy tỷ lệ
ngược dòng bàng quang - niệu quản là 3,7% và
tỷ lệ hẹp niệu quản là 4,8%(22).

KẾT LUẬN
Kỹ thuật cắm niệu quản có cơ chế chống
ngược dòng bằng cách tạo đường hầm ngoài
thanh mạc theo Abol-Enein có hiệu quả tốt.
Phương pháp này giúp bảo vệ đường tiết niệu
trên thông qua cơ chế chống ngược dòng bàng
quang niệu quản và tỷ lệ hẹp niệu quản thấp,
tương đương với các phương pháp không chống
ngược dòng khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.


3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Abol-Enein H and Ghoneim MA (1995), "Serous-lined
extramural ileal valve as a new continent cutaneous urinary
outlet: an experimental study in dogs", Urological Research,
Vol. 23(3), pp. 193-199.
Abol-Enein H and Ghoneim MA (2001), "Functional results of
orthotopic ileal neobladder with serous-lined extramural
ureteral reimplantation: experience with 450 patients", J Urol,
Vol. 165(5), pp. 1427-32.
Ali-el-Dein B, Shaaban AA, Abu-Eideh RH, el-Azab M,
Ashamallah A, and Ghoneim MA (2008), "Surgical
complications following radical cystectomy and orthotopic
neobladders in women", J Urol, Vol. 180(1), pp. 206-10;
discussion 210.
Hautmann RE, de Petriconi R, Gottfried HW, Kleinschmidt K,
Mattes R, and Paiss T (1999), "The ileal neobladder:

complications and functional results in 363 patients after 11
years of followup", J Urol, Vol. 161(2), pp. 422-7.
Hautmann S, Chun KH, Currlin E, Braun P, Huland H, and
Juenemann KP (2006), "Refluxing chimney versus
nonrefluxing LeDuc ureteroileal anastomosis for orthotopic
ileal neobladder: a comparative analysis for patients with
bladder cancer", J Urol, Vol. 175(4), pp. 1389-93.
Kristjansson A, Bajc M, Wallin L, Willner J, and Mansson W
(1995), "Renal function up to 16 years after conduit (refluxing
or anti-reflux anastomosis) or continent urinary diversion. 2.
Renal scarring and location of bacteriuria", Br J Urol, 76(5),
pp.546-50.
Ngô Gia Hy (1983), "Sinh Lý Và Sinh Lý Bệnh Khúc Nối Niệu
Quản Bọng Đái", trong Niệu Học Tập III: Sinh Lý Và Sinh Lý
Bệnh Đường Tiểu, Nhà Xuất Bản Y Học Thành Phố Hồ Chí
Minh, tr. 49-82.
Nguyễn Ngọc Châu (2014), Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật
tạo hình bàng quang trực vị theo phương pháp Padua, Luận
án Chuyên Khoa II, Ngoại - Tiết Niệu, Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh.
Osman Y, Abol-Enein H, El-Mekresh M, Gad H, Elhefnawy
A, and Ghoneim M (2009), "Comparison between a serouslined extramural tunnel and T-limb ileal procedure as an
antireflux technique in orthotopic ileal substitutes: a
prospective randomized trial", BJU Int, 104(10), pp. 1518-21.

57


Nghiên cứu Y học
10.


11.

12.

13.

14.

15.

16.

58

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019

Osman Y, Abol-Enein H, Nabeeh A, Gaballah M, and Bazeed
M (2004), "Long-term results of a prospective randomized
study comparing two different antireflux techniques in
orthotopic bladder substitution", Eur Urol, Vol. 45(1), pp. 82-6.
Pantuck AJ, Han KR, Perrotti M, Weiss RE, and Cummings
KB (2000), "Ureteroenteric anastomosis in continent urinary
diversion: long-term results and complications of direct
versus nonrefluxing techniques", J Urol, Vol. 163(2), pp. 450-5.
Papadopoulos I and Weichert-Jacobsen K (2001), "Experiences
with the entero-ureteral anastomosis via the extramural
serous-lined tunnel: procedure of Abol-Enein", Urology, Vol.
57(2), pp. 234-8.
Roth S, van Ahlen H, Semjonow A, Oberpenning F, and

Hertle L (1997), "Does the success of ureterointestinal
implantation in orthotopic bladder substitution depend more
on surgeon level of experience or choice of technique?", J Urol,
Vol. 157(1), pp. 56-60.
Shaaban AA, Abdel-Latif M, Mosbah A, Gad H, Eraky I, AliEl-Dein B, Osman Y, El-Mekresh M, Ibrahim E-H, and ElKappany H (2006), "A randomized study comparing an
antireflux system with a direct ureteric anastomosis in
patients with orthotopic ileal neobladders", BJU international,
Vol. 97(5), pp. 1057-1062.
Shaaban AA, Mosbah A, El-Bahnasawy MS, Madbouly K,
and Ghoneim MA (2003), "The urethral Kock pouch: longterm functional and oncological results in men", BJU Int, Vol.
92(4), pp. 429-35.
Skinner EC and Daneshmand S (2015), "Orthotopic Urinary
Diversion", in Campbell - Walsh Urology, A.J. WEIN, Editor,
11th ed., Elsevier, Philadelphia, pp. 2344 - 2368.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

Song C, Kang T, Hong JH, Kim CS, and Ahn H (2006),
"Changes in the upper urinary tract after radical cystectomy
and urinary diversion: a comparison of antirefluxing and

refluxing orthotopic bladder substitutes and the ileal conduit",
J Urol, Vol. 175(1), pp. 185-9; discussion 189.
Stein JP, Dunn MD, Quek ML, Miranda G, and Skinner DG
(2004), "The orthotopic T pouch ileal neobladder: experience
with 209 patients", J Urol, Vol. 172(2), pp. 584-7.
Steven K and Poulsen AL (2000), "The orthotopic Kock ileal
neobladder: functional results, urodynamic features,
complications and survival in 166 men", J Urol, Vol. 164(2),
pp. 288-95.
Studer UE, Burkhard FC, Schumacher M, Kessler TM, Thoeny
H, Fleischmann A, and Thalmann GN (2006), "Twenty years
experience with an ileal orthotopic low pressure bladder
substitute--lessons to be learned", J Urol, Vol. 176(1), pp. 161-6.
Trần Chí Thanh (2016), Nghiên Cứu Ứng Dụng Và Kết Quả
Tạo Hình Theo Phương Pháp Abol-Enein Trong Điều Trị Ung
Thư Bàng Quang, Luận án Tiến Sĩ Y Học, Ngoại - Tiết Niệu,
Đại Học Y Hà Nội.
Turkolmez K, Baltaci S, Gogus C, Beduk Y, and Gogus O
(2004), "Results of the ureteral reimplantation with serouslined extramural tunnel in orthotopic ileal W-neobladder", Int
J Urol, Vol. 11(6), pp. 368-73.

Ngày nhận bài báo:

08/11/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

10/12/2018

Ngày bài báo được đăng:


10/03/2019

Chuyên Đề Ngoại Khoa



×