Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

đánh giá hiệu quả kỹ thuật nuôi cá mú tại huyện đảo phú quý tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 71 trang )


i

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu trường đại học Nha Trang, các
thầy cô trong khoa kinh tế, bộ môn kinh tế thủy sản đã giúp đỡ em trong toàn bộ
khóa học và trong thời gian thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú thuộc phòng kinh tế, trung tâm
khuyến ngư huyện đảo Phú Quý đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn, cung cấp số liệu
cần thiết cho em trong suốt thời gian thực tập tại huyện đảo.
Em xin chân thành cảm ơn UBND huyện đảo Phú Quý và nhà khánh của
huyện đã hết sức tạo điều kiện về mọi mặt cho em trong khoảng thời gian em
thực tập ở trên đảo.
Em xin chân thành cảm ơn thầy tiến sỹ Nguyễn Văn Ngọc, thầy thạc sỹ
Đặng Hoàng Xuân Huy, thầy thạc sỹ Nguyễn Địch Thanh đã tận tình hướng dẫn
em thực hiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm Phan Thị Xuân Hương đã
hướng dẫn em trong suốt khóa học và đóng góp ý kiến cho em trong đợt thực tập
này. Em xin chân thành cảm ơn tất cả các ban trong lớp 48KTTS đã góp ý và
giúp đỡ em thực hiện đề tài này.

ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
UBND
KTTS
DEA
CV
AFTA
ASEAN


THCS
THPT
NN & PTNT
GDP
KHHGD
ADSL
Nghĩa
Ủy ban nhân dân
Kinh tế thủy sản
Data Envelopment Analysis
Mã lực
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tổng sản phẩm quốc nội
Kế hoạch hóa gia đình
Đường dây thuê bao số bất đối xứng




























ii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Một số mục tiêu khai thác, nuôi trồng hải sản đến năm 2020 22
Bảng 2: Các biến yếu tố đầu vào, đầu ra dùng cho quá trình phân tích 40
Bảng 3: Số liệu đầu ra của các hộ nuôi cá mú tại đảo 41
Bảng 4: Đặc điểm của các biến đầu ra của các hộ nuôi cá mú tại đảo 42
Bảng 5: Số liệu đầu vào của các hộ nuôi cá mú tại đảo 43
Bảng 6: Đặc điểm của các yếu tố đầu vào của các hộ nuôi cá mú tại đảo 44
Bảng 7: Số hộ đat hiệu quả kỹ thuật và chưa đạt hiệu quả kỹ thuật nuôi cá mú tại
huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 45
Bảng 8: Hiệu quả kỹ thuật của các hộ nuôi cá Mú thương phẩm tại 47
huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 47
Bảng 9: So sánh các yếu tố nghiên cứu lấy từ thực tế của quá trình nuôi cá mú tại
huyện đảo Phú Quý , tỉnh Bình thuận và các yếu tố mục tiêu 50

Bảng 11: Sếp hạng theo nhóm từ cao đến thấp của hiệu quả nuôi đạt được 54
Bảng 12: Yếu tố đầu vào hiệu quả kỹ thuật cho các hộ nuôi cá Mú tại huyện đảo
Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 55















iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1 : Bản đồ Việt Nam 9
Hình 2 : Bản đồ tỉnh Bình Thuận 10
Hình 3 : Bản đồ huyện đảo Phú Quý 11
Hình 4: Hình ảnh cá mú ngoài tự nhiên 26
Hình 5: Mô hình phân tích màng dữ liệu tối thiểu hóa đầu vào. 30
Hình 6: Mô hình phân tích màng dữ liệu tối đa hóa đầu ra………………… 27
Hình 7: Hình ảnh cá mú tại huyện 37
Hình 8: Hình ảnh tác giả đi thực tế ngoài đảo 38

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Số hộ đạt hiệu quả kỹ thuật và chưa đạt hiệu quả kỹ thuật nuôi cá mú
tại huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 46
Biểu đồ 2: Phân phối hiệu quả kỹ thuật của các hộ nuôi cá mú thương phẩm tại
huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 47
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Quy trình nuôi cá mú đơn giản 27
Sơ đồ 2: Sơ đồ khối nghiên cứu 34










v
MỤC LỤC
Danh mục các bảng biểu i
Danh mục các hình iv
Danh mục các biểu đồ, sơ đồ iv
Lời Mở Đầu 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2.Mục tiêu nghiên cứu 2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của đề tài 3
6. Kết cấu của đề tài 3
7. Hạn chế của đề tài 3

Tóm Tắt đề tài 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ 6
1.1. Khái niệm về hiệu quả và hiệu quả kỹ thuật 6
1.1.1. Khái niệm về hiệu quả 6
1.1.2. Hiệu quả kỹ thuật (Technical effciency) 6
1.1.3. Các quan điểm đánh giá hiệu quả 7
1.2. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 8
1.2.1. Giới thiệu chung về huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận 8
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện đảo Phú Quý 17
1.2.2.1. Kinh tế 17
1.2.2.2. Chính trị 19
1.2.2.3. Giáo dục 19
1.2.2.4. Y tế 20
1.2.3. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội 21
1.2.4. Phương hướng phát triển ngành thủy sản của huyện 22
1.2.4.1. Mục tiêu phát triển 22

vi
1.2.4.2. Phương hướng phát triển 22
1.3. Nghề nuôi cá mú lồng bè tại huyện đảo Phú Quý 25
1.3.1. Một số đặc điểm của cá mú 25
1.3.2. Quy trình nuôi cá mú 27
CHƢƠNG 2 : PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Phương pháp phân tích màng dữ liệu (Data Envelopment Analysis (DEA) . 29
2.1.1. Lịch sử hình thành phương pháp 29
2.1.2. Giới thiệu ……………………………………………………………….29
2.1.3. Mô hình DEA với giả thiết tối thiểu hóa đầu vào 30
2.1.4. Mô hình DEA với giả thiết tối đa hóa đầu ra 31
2.1.5. Mô hình DEA theo qui mô 32
2.1.6. Những ứng dụng của DEA trong thực tế, ưu và nhược điểm của

phương pháp DEA 33
33
2.1 33
2.2. Thiết kế nghiên cứu 33
2.2.1. Quy trình nghiên cứu 34
2.2.2.Mô tả sơ lược về các thông số kỹ thuật cần thiết cho nghiên cứu 34
2.2.2.1. Chuẩn bị lồng nuôi 34
2.2.2.2. Chuẩn bị cá giống và tiến hành thả 35
2.2.2.3. Độ sâu của lồng 35
2.2.2.5. Hệ số thức ăn 36
2.2.2.6. Tỷ lệ sống của cá 36
2.2.2.7. Size thu hoạch 36
2.2.2.8. Sản lượng thu hoạch 37
2.2.3.Thu thập số liệu 39
2.2.3.1. Số liệu thứ cấp 39
2.2.3.2. Số liệu sơ cấp 39

vii
CHƢƠNG 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Kết quả phân tích 40
3.1.1. Mô tả số mẫu nghiên cứu 40
3.1.2. Lý do sử dụng mô hình tối thiểu hóa đầu vào trong trường hợp quy
mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất 44
3.1.3. Kết quả phân tích 45
3.1.3.1. Kết quả 1 45
3.1.3.2. So sánh giữa các yếu tố đầu vào thực tế và mục tiêu 49
3.1.3.3. Phân nhóm các hộ nuôi theo thứ tự giảm dần của hiệu quả kỹ
thuật nuôi 54
54
3.2. Đề xuất một số ý kiến để khắc phục tình trạng nuôi cá mú kém hiệu quả tại

huyện. 55
3.3. Kết luận và đề xuất ý kiến 56
3.3.1. Kết luận 56
3.3.2. Kiến nghị 57
3.3.2.1. Đối với người nuôi 57
3.3.2.2. Đối với huyện đảo 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 58

1
Lời Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây thì tình hình nuôi tôm ở nước ta đã và đang
gặp phải một số khó khăn nhất định. Đó là: Môi trường ô nhiễm, dịch bệnh lây
lan ngày càng nghiêm trọng, khó kiểm soát, quản lý. Những người nuôi tôm đang
gặp nhiều khó khăn về đời sồng, nợ nần không có khả năng trả. Để góp phần cải
thiện và phát triển ổn định nghề nuôi trồng thủy sản Việt Nam, vấn đề đặt ra là
cần nghiên cứu phát triển đa dạng hóa các đối tượng nuôi, các hình thức nuôi.
Một trong những hướng đi quan trọng đó là nuôi cá lồng bè trên biển.
Việt Nam mạnh danh là “rừng vàng, biển bạc”, nhưng hiện tại chúng ta
chưa biết phát huy hết lợi thế này. Nước ta có bờ biển kéo dài hơn 3260 km từ
Móng Cái cho đến mũi Cà Mau, vùng đặc quyền kinh tế trên biển là hơn 1 triệu
km
2
, có nhiều đảo tạo nên nhiều vùng biển, nhiề
(< 1%) so với tổng giá trị kim gạch xuất khẩu của ngành thủy sản
nước ta. Trong khi đó thì các nước trong khu vực và trên thế giới lại có một nền
công nghiệp nuôi cá lồng trên biển rất hiện đại, đã và đang mang lại lợi ích kinh
tế rất cao cho nền kinh tế của họ ví như Nauy đứng đâu thế giới về nuôi cá Hồi
Đại Tây Dương và một số loài có giá trị kinh tế cao khác, với tổng sản lượng đạt

gần 1 triệu tấn vào năm 2009, doanh thu hàng tỷ USD; tiếp đến là nước Anh, Hy
Lạp, Italia…Các nước này đều đã nghiên cứu và đưa vào nuôi một số loài có giá
trị kinh tế cao, họ không nuôi một cách tràn lan mà tập trung vào một vài loại có
lợi thế nhằm tạo ra thương hiệu trên thị trường.
Ngược lại thì việc nuôi cá lồng bè trên biển của nước ta còn rất lạc hậu, kỹ
thuật nuôi chủ yếu là do kinh nghiệm, nguồn giống chủ yếu là bắt từ tự nhiên
hoặc nhập khẩu, quy trình nuôi chưa được nghiên cứu kỹ càng, chưa có tính

2
chuẩn hóa…Trong quá trình nuôi thì người nuôi vẫn chưa xác định được khối
lượng của các yếu đầu vào là bao nhiêu cho phù hợp, dẫn đến sự lãng phí trong
quý trình nuôi. Làm cho giá cá thương phẩm cao dẫn đến sức cạnh tranh kém,
làm ô nhiễm môi trường, làm tăng vốn đầu tư trong khi nguồn vốn của người nuôi
là có hạn.
Suất phát từ những nhận định trên nên trong khóa luận tốt nghiệp của mình
em đã chọn đề tài “ Đánh giá hiệu quả kỹ thuật nuôi cá mú lồng bè tại huyện đảo
Phú Quý, tỉnh Bình Thuận bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA)”.
Huyện đảo Phú Quý của tỉnh Bình Thuận là một trong nhưng nơi có nghề
nuôi cá mú thương phẩm bằng lồng bè rất phát triển của cả nước. Do đó đã lựa
chọn đảo Phú Quý làm địa điểm nghiên cứu của đề tài.
Đề tài đã sử dung phương pháp phân tích màng dữ liệu DEA vì phương
pháp này có nhiều lợi thế. Đặc biệt là có thể sử lý nhiều đầu vào, nhiều đầu ra.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là: (1)Xác định những hộ nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật
chiếm bao nhiêu trong tổng số hộ nuôi;(2) xác định những hộ nuôi chưa đạt hiệu
quả kỹ thuật và các giải pháp cho các hộ nuôi này; (3) Phân nhóm các hộ nuôi
theo tính hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình nuôi. (4)Xác định
lượng yếu tố đầu vào mang lại hiệu quả kỹ thuật trong quá trình nuôi cá mú
thương phẩm tại đảo.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố đầu vào, đầu ra của
quá trình nuôi cá Mú Cọp thương phẩm tại huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.





3
Phạm vi nghiên cứu
huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Thời gian nghiên cứu và điều
tra số liệu về quá trình nuôi cá mú thương phẩm tại huyện đảo Phú Quý, tinh Bình
Thuận được thực hiện vào tháng 04/2010.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê mô tả.
Phương pháp phân tích bao phủ màng dữ liệu (Data Envelopment
Analysis –DEA).
5. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận:
+ Hệ thống hóa lại phương pháp phân tích màng dữ liệu DEA. Góp
phần hoàn thiện phương pháp DEA tại Việt Nam.
Về mặt thực tiến
+ Góp phần làm rõ và phổ biến về cách sử dụng phương pháp DEA
trong nghiên cứu định lượng, đặc biệt là trong giới học sinh, sinh viên.
+ Đề tài sẽ là một tài liệu để cho các em sinh viên khóa sau tham
khảo.
+ Từ những kết quả phân tích của đề tài thì các kết quả này sẽ là một
cơ sở để huyện đảo và người nuôi cá mú thương phẩm tham khảo và đưa
vào áp dụng trong quá trình nuôi trong thực tế.
6. Kết cấu của đề tài

Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: kết quả nghiên cứu và thảo luận
7. Hạn chế của đề tài
- Đề tài mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của phương pháp phân tích màng
dữ liệu(DEA), cụ thể là sử dụng mô hình phân tích CRS tối thiểu hóa các yếu tố

4
đầu vào ảnh hưởng đến các yếu tố đầu ra khi quy mô không đổi của mô hình phân
tích DEA
- Không có các thông số nuôi ở các khu vực khác để so sánh và đánh giá vì
hạn chế của thời gian nghiên cứu không cho phép.





















5
Tóm Tắt đề tài
Trong đề tài này sử dụng mô hình phân tích màng dữ liệu (Data
Envelopment Analysis –DEA) tối thiểu hóa đầu vào trong trường hợp qui mô
không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Với năm biến đầu vào và ba biến đầu ra
để đánh giá hiệu quả kỹ thuật cho các hộ gia đình nuôi cá mú lồng bè thương
phẩm tại huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Kết quả chỉ ra là tại huyện đảo
Phú Quý. Có 37% số hộ nuôi cá mú lồng bè thương phẩm đạt hiểu quả kỹ thuật
và 63% số hộ nuôi không đạt hiệu quả kỹ thuật.

















6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ

1.1. Khái niệm về hiệu quả và hiệu quả kỹ thuật
1.1.1. Khái niệm về hiệu quả
+ Hiệu quả (Efficiency)
Hiệu quả là sự liên quan giữa nguồn lực đầu vào khan hiếm (ví như lao
động, vốn, máy móc…) với kết quả trung gian hay kết quả cuối cùng.
+ Hiệu quả phân bố (Allocative effciency)
Là khả năng đạt được lợi nhuận tối đa ở một mức giá cho trước với những
đầu ra và đầu vào cho trước.
+ Hiệu quả kinh tế (Economic effciency)
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực…) để đạt được mục tiêu xác định.
H = K/C
(Với H là hiệu quả kinh tế; K là kết quả thu được; C là chi phí toàn bộ.)
1.1.2. Hiệu quả kỹ thuật (Technical effciency)
+ Giới hạn khả năng sản xuất ( Production frontier )
Giới hạn khả năng sản xuất được định nghĩa là đầu ra Y tối đa có thể sản
xuất được (Maximum producible output) khi cho trước một vector đầu vào X,
được định nghĩa dưới dạng toán học, giới hạn này là chuẩn mực để dựa trên đó đo
lường hiệu quả kỹ thuật (Technial efficiency) của quá trình sản xuất.
+ Hiệu quả kỹ thuật Một nhà sản xuất được xem là có hiệu quả kỹ thuật nếu
một sự gia tăng trong bất kỳ đầu ra đòi hỏi một sự giảm xuống của ít nhất một
đầu ra khác hoặc một sự gia tăng của ít nhất một đầu vào.
Hiệu quả kỹ thuật thể hiện rất rõ tính chất của việc sử dụng các yếu tố đầu
vào để đạt được các kết quả đầu ra. Qua đó sẽ xác định được tính chất căn bản
của việc đo lường sự hiệu quả. Không mang tính chất khái quát hóa như hiệu quả
kinh tế.

7
1.1.3. Các quan điểm đánh giá hiệu quả
+ Phƣơng pháp dãy số thời gian để đánh giá hiệu quả

Vật chất luôn luôn vận động không ngừng theo thời gian. Để nghiên cứu
sự biến động của kinh tế xã hội. Người ta thường sử dụng dãy số thời gian.
Khái niệm: Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được
sắp xếp theo thứ tự thời gian. Dãy số thời gian cho phép thống kê học nghiên cứu
đặc điểm biến động của hiện tượng theo thời gian vạch rõ xu hướng và tính quy
luật của sự biến động, đồng thời dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương
lai.
Kết cấu:
Dãy số thời gian gồm 2 phần: Thời gian và chỉ tiêu của hiện tượng nghiên
cứu.
+ Thời gian có thể đo bằng ngày, tháng, năm…tùy theo mục đích nghiên
cứu. Đơn vị thời gian phải đồng nhất trong dãy số thời gian. Độ dài thời gian giữa
hai thời gian liền nhau gọi là khoảng cách thời gian.
+ Chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu là chỉ tiêu được xây dựng cho dãy số
thời gian. Các trị số của chỉ tiêu được gọi là các mức độ của dãy số thời gian. Các
trị số này có thể là tuyệt đối, tương đối hoặc bình quân.
+ Phƣơng pháp thông kê để đánh giá hiệu quả
Phương pháp này sử dụng các số liệu thống kê để xác định các chỉ số đánh
giá. Số liệu gồm có số liệu đầu vào (chi phí), số liệu đầu ra (doanh thu). Có hai
loại chỉ tiêu đánh giá
+ Dạng thuận: H = Kết quả kinh tế / Chi phí kinh tế = Q/C
Trong đó: H biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao nhiêu đơn vị đầu
ra. Chỉ tiêu H được dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng nguồn lực
hay chi phí thường xuyên đến kết quả kinh tế.
+ Dạng nghịch: E = Chi phí kinh tế / kết quả kinh tế = C/Q

8
Chỉ tiêu E cho biết để có một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào. Chỉ
tiêu E là cơ sở để xác định quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực hay chi phí
thường xuyên.

+ Phƣơng pháp đồ thị: Là phương pháp mô tả bằng độ thị để có thể so sánh và
đánh giá tính hiệu quả. Phương pháp này biểu thị rất trực quan và sinh động.
1.2. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Giới thiệu chung về huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận
Tôi được nghe người dân huyện đảo kể về cội nguồn của mình bằng giọng
say sưa, tự hào và ngưỡng vọng. Chuyện kể rằng: Từ thuở xa xưa, người Việt đi
đánh cá chuồn rồi phiêu dạt đến nơi đây. Qua bao đời vun đắp, dựng xây dần dần
những xóm làng đã được mọc lên. Những tàu thuyền tấp nập vào ra. Bãi biển
Triều Dương trở thành bến cảng Đó là huyện đảo Phú Quý-sừng sững hiên
ngang giữa biển trời! Huyện Phú Quý là một quần đảo bao gồm 10 đảo (còn gọi
là Cù lao Thu) với tổng diện tích là 17,82 km
2
Huyện cách thành phố Phan Thiết
120 km về phía đông Nam, cách Cam Ranh 150 km về phía Nam, cách Vũng Tàu
120 km về phía Đông, cách Côn Sơn 333 km về phía đông Bắc, và cách Trường
Sa 540 km về phía Tây. Chúng ta nhớ lại mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của dân tộc ta kết thúc
thắng lợi. Trưa ngày 27/4, trong nắng vàng rực rỡ, Phú Quý được giải phóng.
Cùng với cả nước, Phú Quý bước vào trang sử mới “Non sông thu về một mối.
Bắc Năm sum họp một nhà”. Tháng 3/1976, sau khi tỉnh Thuận Hải ra đời trên cơ
sở hợp nhất 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy, đảo Phú Quý được xác
định là một đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Bắc Bình. Đến ngày
15/12/1977, do tầm quan trọng chiến lược của đảo trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, xã Phú Quý được Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 329 thành lập đơn vị
hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Thuận Hải, nay là tỉnh Bình Thuận. Đó là sự
kiện đánh dấu một mốc son lịch sử đối với Phú Quý. Từ đây, mở ra cho cán bộ,

9
chiến sĩ và nhân dân Phú Quý một giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn xây dựng
và bảo vệ huyện đảo tiền tiêu của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.























Hình 1 : Bản đồ Việt Nam

10

Hình 2 : Bản đồ tỉnh Bình Thuận

11




























Hình 3 : Bản đồ huyện đảo Phú Quý

12
Nhìn lại chặng đường 33 năm kể từ khi huyện đảo được thành lập, dưới sự

lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, sự phối hợp hành động của mặt trận và các
đoàn thể chính trị-xã hội địa phương và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của các cấp,
các ngành, của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, nhân dân. Phú Quý đã từng bước được
xây dựng vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh. Đặc biệt là
sau 22 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Phú
Quý đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tổng
sản phẩm nội huyện tăng bình quân 13,5%/ năm, so với giai đoạn 1996-2000 tăng
2,23%. Trong đó, ngành nông-lâm-ngư nghiệp tăng 7%, công nghiệp-xây dựng
tăng 27,3%, dịch vụ tăng 14,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ
trọng kinh tế công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng với tốc độ khá. Thu ngân
sách hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch. Tổng thu ngân sách (2005-2009) là
40,75 tỷ đồng. Trong đó, tổng thu ngân sách trên địa bàn 29,7 tỷ đồng. Bình quân
hàng năm 7,88 tỷ đồng. So với giai đoạn 1996-2000 tăng 62%, so với kế hoạch
tăng 32% Những thành quả đó đã góp phần đưa huyện đảo đi dần vào ổn định,
tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững và vượt bậc của Phú Quý trong tương lai.
Theo quy hoạch không gian lãnh thổ, Phú Quý nằm trong vùng kinh tế
động lực Phan Thiết-Hàm Thuận Nam- Hàm Tân-Phú Quý. Đây là vùng có tiềm
năng về tài nguyên biển và ven biển, khoáng sản, các nguồn nguyên liệu để phát
triển công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, hải sản. Ngoài ra, Vùng còn có
thế mạnh về du lịch vì giao thông thuận lợi, có cơ sở hạ tầng tốt, tập trung. Vùng
kinh tế động lực này sẽ phát triển tổng hợp kinh tế biển. Trước hết, tập trung phát
triển ngành thủy sản gồm khai thác, chế biến, nuôi trồng thủy sản. Phú Quý sẽ
hình thành trung tâm kinh tế biển, xây dựng đảo Phú Quý trở thành một trung tâm
dịch vụ nghề cá, chế biển hải sản xuất khẩu, đóng mới và sửa chữa tàu.
Với định hướng như vậy, trong việc phát triển kinh tế biển, ngư nghiệp
được xác định là kinh tế mũi nhọn của huyện. Việc vận dụng các chính sách
khuyến khích phù hợp của huyện đã làm cho nhân dân mạnh dạn đầu tư phát triển

13
phương tiện và chủ động chuyển đổi ngành nghề, đầu tư mua sắm các trang thiết

bị hàng hải phục vụ việc đánh bắt có hiệu quả. Chính vì vậy, sản lượng khai thác
hàng năm đều tăng. Tổng sản lượng khai thác hải sản đến nay 22.659,2 tấn, bình
quân đạt 9.063,7 tấn/ năm. Trong đó, sản lượng khai thác năm 2010 đạt 21.540
tấn. Nuôi trồng hải sản tiếp tục được đầu tư phát triển. Toàn huyện có gần 150 cơ
sở, trong đó, 109 cơ sở nuôi cá mú bằng lồng bè và gần 40 cơ sở nuôi trồng các
loại thủy hải sản khác. Tiềm năng nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi cá mú, tôm
hùm đang được khai thác ngày càng tích cực. ở Phú Quý, việc nuôi cá mú được
xem là đạt hiệu quả kinh tế hơn các loại thủy hải sản khác. Lượng tàu thuyền với
quy mô công suất lớn tăng lên đáng kể. Đến nay, toàn huyện có 500 tàu, thuyền
công suất trung bình và lớn với tổng công suất trên 30.000 CV, bình quân 60 – 70
CV/chiếc. Hàng năm đóng mới 20 – 30 chiếc, với công suất đóng mới > 90
CV/tàu, thuyền thay thế cho tàu thuyền nhỏ. Tổng số lao động trong nghề là
5.839 lao động. Những thành tựu khoa học kỹ thuật trong khai thác cũng được áp
dụng ngày càng phổ biến, đã góp phần tăng sản lượng đánh bắt hải sản bình quân
hàng năm gần 3%. Sự ra đời và phát triển của 25 doanh nghiệp chế biến hải sản
xuất khẩu và gần 35 cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá đã góp phần rất quan trọng
cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Công tác bảo vệ nguồn lợi biển và an ninh vùng biển luôn được chú ý.
Huyện cũng đã đẩy mạnh công tác tuyền truyền, giáo dục ý thức tham gia bảo vệ
nguồn lợi biển và bảo vệ an ninh vùng biển cho các chiến sĩ và mọi tầng lớp nhân
dân.
Trong nông nghiệp, diện tích gieo trồng lương thực ổn định và đi vào
chiều sâu. Bà con huyện đảo đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ những
loại cây ngắn ngày sang loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như mãng cầu, xoài,
điều góp phần tăng thêm giá trị thu nhập trên diện tích hiện có và tăng độ tán
che. Với mô hình kinh tế vườn-chuồng, đàn gia súc, gia cầm cũng được phát triển
tăng gấp 2,85 lần so năm 1985. Theo số liệu điều tra, đến cuối tháng 3/2010, tổng

14
đàn gia súc hiện có 5.035 con. Trong đó, đàn bò 1619 con, đàn heo 3.416 con.

Tổng đàn gia cầm là 116.252 con. Nhiệm vụ trồng rừng luôn được xem trọng
trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái của đảo. Thực hiện chương trình 327
và 773 của Chính phủ, từ khi toàn huyện chỉ có trên 10 ha rừng tự nhiên ở khu
vực núi Cấm, đến nay huyện đã có hơn 320 ha rừng phòng hộ, rừng phân tán và
hàng trăm ha cây ăn trái, cây công nghiệp. Sản lượng công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá được duy trì và từng bước phát
triển. Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhân dân đầu tư
phát triển các loại hình kinh tế lợi thế như chế biến hàng hải sản xuất khẩu, công
nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, nhà máy nước đá, cơ sở cung ứng nhiên
liệu đã góp phần đáng kể thúc đẩy phát triển năng lực đánh bắt hải sản, tiêu thụ
sản lượng khai thác, tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước và giải quyết việc làm
cho hàng trăm lao động có thu nhập ổn định. Công tác bảo vệ nguồn lợi biển và
an ninh vùng biển luôn được chú ý. Huyện cũng đã đẩy mạnh công tác tuyền
truyền, giáo dục ý thức tham gia bảo vệ nguồn lợi biển và bảo vệ an ninh vùng
biển cho các chiến sĩ và mọi tầng lớp nhân dân.Trong nông nghiệp, diện tích gieo
trồng lương thực ổn định và đi vào chiều sâu. Trong xu hướng hội nhập, người
dân huyện đảo vẫn luôn có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là nét đặc trưng văn hóa truyền
thống dân gian nơi quê hương biển đảo. Với trào lưu văn hóa mới, thông qua sự
tiếp cận, giao lưu văn hóa với đất liền, người dân đảo tiếp thu có chọn lọc, cảm
thụ những tinh hoa văn hóa. Cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” gắn liền với việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được
nhân dân hưởng ứng nhiệt tình và mang lại hiệu quả thiết thực. Do vị trí chiến
lược của huyện đảo nên việc phát triển kinh tế luôn gắn với việc bảo đảm quốc
phòng-an ninh. Đây là nhiệm vụ chiến lược luôn được thực hiện thường xuyên.
Nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng dân
thường xuyên được củng cố. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ngày

15
càng được mở rộng và phát triển. Hệ thống chính trị từ huyện đến địa bàn dân cư

được củng cố và xây dựng. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã đạt kết quả
bước đầu. Phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, học tập và làm việc theo tấm
gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh trong cán bộ, chiến sĩ, nhân dân được
thường xuyên phát động và không ngừng phát triển. Qua đó, xuất hiện ngày càng
nhiều những tấm gương, những điển hình tiên tiến của tập thể và cá nhân trên các
lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và công tác. Mặc dù còn nhiều băn khoăn về những
hạn chế của huyện đảo như thực trạng kinh tế của huyện còn khó khăn, yếu kém;
tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của địa
phương; cơ cấu kinh tế chuyển dịch, kết cấu hạ tầng kinh tế-văn hóa-xã hội còn
thiếu yếu tố vững chắc; đời sống văn hóa của nhân dân còn nghèo, trình độ dân trí
chưa cao nhưng cần phải khẳng định rằng: những gì đã đạt được trong 26 năm
qua là sự cố gắng hết mình, là sự nỗ lực không ngừng nghỉ của người dân huyện
đảo đã gắn bó, đã yêu thương mảnh đất này như máu thịt. Những thành tựu đó là
nền tảng, là cơ sở vững chắc để nhân dân Phú Quý thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu
phát triển huyện đảo trong tương lai. Với thế mạnh về kinh tế biển, Phú Quý đã
xác định cơ cấu kinh tế của địa phương trong giai đoạn tiếp theo là “Ngư nghiệp-
công nghiệp-dịch vụ-nông, lâm nghiệp”. Phú Quý đã có chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế được đầu tư phát
triển trên các lĩnh vực kinh tế như khai thác, chế biến, nuôi trồng, bảo vệ nguồn
lợi, giao thông vận tải và du lịch biển ở khu kinh tế đặc thù này. Trước mắt,
huyện tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế thủy sản. Phú Quý sẽ từng bước hình
thành trung tâm khai thác đánh bắt xa bờ nhằm đạt chỉ tiêu sản lượng hải sản khai
thác 24.000 tấn. Huyện khuyến khích đầu tư phát triển năng lực sản xuất, chuyển
đổi ngành nghề mới, sắp xếp lại thuyền nghề, làm tốt khâu hậu cần nghề cá, củng
cố hợp tác xã ở các loại hình hiện có; phát triển đồng bộ khai thác, đánh bắt, nuôi
trồng, thu mua, chế biến xuất khẩu và bảo vệ tốt nguồn lợi biển. Đồng thời, Phú
Quý cũng tiến hành quy hoạch lại khu công nghiệp chế xuất, tiếp tục khuyến

16
khích và kêu gọi đầu tư phát triển thu mua, chế biến hải sản theo công nghệ cao,

nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hải sản, cùng với cả
nước đảm bảo mở rộng và giữ vững thị trường khi Việt Nam hội nhập AFTA.
Việc chế biến hải sản phải gắn với bảo vệ tốt vệ sinh môi trường, từng bước di
dời các cơ sở chế biến trong khu dân cư về nơi quy hoạch; khuyến khích đầu tư
cơ sở sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, đủ sức đáp ứng yêu cầu sửa chữa định kỳ
lượng tàu thuyền ở địa phương; ưu tiên tập trung nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ vào lĩnh vực khai thác hải sản, chế biến xuất khẩu hải sản, vận tải
biển Đẩy mạnh năng lực quan lý, bảo vệ môi trường phục vụ cho sản xuất và đời
sống.
Trong nông-lâm nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông-lâm nghiệp, xác định các loại cây phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng đất đai;
chú trọng phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả có độ tán lớn để góp phần
tăng nhanh tán rừng. Phát triển đàn gia súc, gia cầm, đẩy nhanh tiến độ cấp quyền
sử dụng đất nông nghiệp, khuyến khích các nhà nông phát triển kinh tế vườn
chuồng.
Việc tăng trưởng kinh tế phải gắn với giải quyết những vấn đề bức xúc về
mặt xã hội. Chú trọng đến công tác giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và chuẩn bị
các điều kiện để phổ cập trung học phổ thông. Quan tâm đến công tác đào tạo
nghề, phát triển nguồn nhân lực và chuyển dịch lao động theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa…
Phú Quý đang được xây dựng thành khu kinh tế đặc thù. Đây là thời cơ
lớn, là một thuận lợi đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của huyện đảo. Đảng bộ,
nhân dân địa phương ra sức xây dựng Phú Quý trở thành một huyện đảo vững về
chính trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng, an ninh thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

17
bằng, dân chủ văn minh.Tin rằng, trong tương lai, huyện đảo Phú Quý sẽ đúng
như tên gọi.

1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện đảo Phú Quý
1.2.2.1. Kinh tế
Từ khi có quyết định số 14 ngày 15/01/2002 của Thủ tướng chính phủ, về
xây dựng huyện Đảo thành khu kinh tế. Nhờ vậy trong thời gian qua huyện đảo
Phú Quý đã đạt được bước phát triển khá toàn diện: Tổng sản phẩm GDP tăng
bình quân mỗi năm 13%; trong đó nông lâm - thuỷ sản 7,5%; xây dựng cơ bản
33,5%; thương mại dịch vụ 16,5%. Những con người làm giàu cho huyện đảo.
Hiện nay có trên 25.000 dân đang sinh sống và làm việc trên đảo Phú Quý. Tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên trong những năm qua đã giảm so với cùng kỳ năm 2008 là
0,095%o, còn năm 2009 là 0,09%o giảm 0,005%o. Số hộ nghèo theo tiêu chí mới
là 57 hộ/180 khẩu, chiếm 1,02% trong tổng số hộ trên toàn huyện giảm 15 hộ so
với cùng kỳ năm trước. Kinh tế biển là ngành có thế mạnh hàng đầu ở đây. Tính
đến cuối tháng 9 năm 2009 tổng số tàu thuyền trên toàn huyện hiện có là 1.409
chiếc/60.707Cv; so với cùng kỳ tăng 256 chiếc/17.891Cv. Trong đó thuyền khai
thác 1.288 chiếc/36.528Cv, 5.453 lao động; tàu dịch vụ hậu cần có 121 chiếc,
trong đó thu mua có 87 chiếc, dịch vụ hậu cần ven bờ 34 chiếc. Phát triển thuyền
từ 90CV trở lên được 09 chiếc đạt 60% kế hoạch, tăng 6 chiếc so với cùng kỳ.
Tổng sản lượng khai thác hải sản đạt: 11.900 tấn hải sản tươi các loại, đạt 54,09%
kế hoạch năm tăng so với cùng kỳ là 1,93%. Cơ cấu đầu tư vào ngành khai thác
hải sản đã chuyển dịch theo hướng đóng tàu lớn để đánh bắt xa bờ. Trong những
năm qua ngư dân trên đảo, đã mạnh dạng vay vốn ngân hàng đầu tư thuyền công
suất lớn để bám biển dài ngày. Tính đến cuối tháng 8 năm 2009 đã huy động
nguồn vốn cho vay được 190 tỷ đồng, đạt 97 % kế hoạch, tổng dư nợ cho vay
ước thực hiện là 151 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch. Việc thực hiện quyết định 131
của Thủ tướng Chính Phủ về cho vay hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho các doanh
nghiệp, hợp tác xã và các hộ vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại

18
chí nhánh Ngân hàng NN&PTNT trong 8 tháng đầu năm được 86.630 triệu đồng.
Đồng vốn của ngân hàng đã tạo điều kiện cho ngư dân đầu tư phương tiện phục

vụ cho đánh bắt, đem lại hiệu quả kinh tế cho gia đình và xã hội. Hạ tầng mới sẽ
tạo đà cho Phú Quý phát triển hàng hoá giữa đảo và đất liền ngày càng xích lại
gần nhau hơn. Người dân đảo Phú Quý rất vui mừng bởi những công trình được
nhà nước đầu tư trong những năm qua đã và đang góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân trên đảo. Đó là, công trình
cảng Phú Quý giai đoạn 1 và 2, nhà máy điện Diesel tổng công suất 3 MW, do
nguồn vốn của trung ương đầu tư xây dựng từ năm 1999, lúc đầu thời gian phát 5
giờ mỗi ngày; sau đó nâng lên 12 giờ và bây giờ là 16 giờ (từ 7 giờ 30 đến 23 giờ
30’), đường vành đai trải nhựa quanh đảo dài hơn 22 km và 6 km từ cảng Triều
Dương về trung tâm hành chính của huyện nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh
tế-quốc phòng-dân sinh trên đảo. Bên cạnh đó thì 2 công trình nhà máy nước sạch
Phú Quý với tổng công suất 2.200m3/ngày đêm được đầu tư xây dựng từ năm
2006, tại xã Ngũ Phụng và Long Hải đã hoàn thành đưa vào sử dụng phục vụ nhu
cầu sinh hoạt đời sống của nhân dân. Ngoài ra, bằng các nguồn vốn xây dựng cơ
bản của tỉnh và của huyện, trung bình 20 tỷ đồng/ năm, Phú Quý đã từng bước
xây dựng: trường học, trạm y tế, các công trình văn hoá xã hội khác như đài phát
thanh truyền hình huyện, nhà văn hoá, sân vận động, trụ sở các cơ quan nhà nước
huyện và các công trình khác. Riêng mạng lưới trường học, huyện có 6 trường
tiểu học, 3 trường trung học cơ sở và một trường trung học phổ thông. Có thể nói,
với vị trí quan trọng về kinh tế, quốc phòng, đảo Phú Quý nằm trên tuyến giao
lưu giữa đất liền với quần đảo Trường Sa và nằm tiếp cận tuyến hàng hải quốc tế;
là căn cứ phục vụ các đội tàu đánh bắt cá xa bờ. Ngoài vai trò quan trọng về kinh
tế, nơi đây còn là điểm du lịch lý tưởng của tỉnh Bình Thuận. Bờ biển Phú Quý
với những dải cát trắng mịn, nước biển trong màu ngọc bích; bao quanh đảo Phú
Quý là 9 đảo nhỏ khác là những điểm du lịch sinh thái hết sức hấp dẫn. Hệ thống
giao thông đường bộ trên đảo hiện nay đã được nhựa hoá hoàn toàn, đảm bảo cho

×