Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận: Vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.7 KB, 20 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU 
1. lý do chọn đề tài  
Đất nước ta trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước đến 
nay và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, nâng 
cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đó là những thành quả rất đáng tự hào mà  
chúng ta có được nhờ  sự  lựa chọn đúng đắn đường lối phát triển kinh tế  thị  thị 
trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và sự  vận dụng sáng tạo các phương pháp, 
nguyên lí cơ bản của phát triển kinh tế vào điều kiện Việt Nam. Mà theo Mác việc  
tích lũy tư  bản là những động lực này cuối cùng sẽ  dẫn tới thắng lợi tất yếu của 
chủ nghĩa Cộng Sản. Chính từ nhận định đó ta thấy được nguồn vốn có vai trò rất 
lớn đến phát triển đất nước của nước ta hiện nay. Mặc dù chúng ta có đường lối 
kế hoạch đúng đắn để xây dựng và phát triển kinh tế, mà còn cần đến nguồn vốn 
rất lớn trong việc tăng trưởng kinh tế. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, tạo ra công  
nghệ tiên tiến tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và cả  nền kinh tế, góp  
phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu. Từ  những lí do trên tôi chọn đề 
tài “ Vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền 
kinh tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích 
­ Tìm hiểu sâu hơn về tích lũy tư bản và những thay đổi trong bối cảnh hiện  
nay. 
­ Góp phần thúc đẩy sự  phát triển kinh tế  Việt Nam trong quá trình công 
nghiệp hóa, hiện nay hóa theo đường lối chủ  trương chính sách của Đảng và nhà 
nước ta.
2.2.  Nhiệm vụ 
­ Đưa ra những lập luận đúng đắn để chỉ rõ vai trò của tích lũy tư bản 
­ Vận dụng những lý luận vào nền kinh tế Việt Nam.
2.3  Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trong phạm vi nền kinh tế ở Việt Nam

1




3. Phương pháp nghiên cứu 
­Phương pháp biện chứng duy vật
­Phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử
­phương pháp phân tích tổng hợp
4. Ý nghĩa của đề tài
Thấy được tầm quan trọng của tích lũy tư  bản đến sự  phát triển kinh tế.  
Đồng thời thấy được vốn là cơ sở để  thúc đẩy tạo ra việc làm, công nghệ  mới để 
phát triển đất nước.
5. Kết cấu đề tài 
­Gồm 4 phần:  + Phần mở bài 
  + Phần nội dung 
+ Phần kết luận 
+ Phần tài liệu tham khảo
­Gồm 2 chương : chương 1 Cơ sở lí luận tích lũy tư bản
 Chương 2 Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế 
Việt Nam hiện nay

2


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
1.1. Những vấn đề chung về tích lũy tư bản 
1.1.1. Thực chất của tích lũy tư bản
  Trong bất kì xã hội nào, để đáp ứng đước nhu cầu vật chất và tinh thần thì  
cần sản xuất của cải vật chất. Do đó nền sản xuất luôn trong quá trình tái sản xuất. 
Đối với tư bản tái sản xuất giản đơn không phải là tái dân xuất của nó mà tái sản  

xuất mở  rộng. Tái sản xuất mở  rộng là lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn  
hơn, không phải xã hội có thể bù đắp lại tư liệu vật chất đã tiêu dùng mà đồng thời 
còn sản xuất thêm.  Muốn vậy,  phải biến một bộ phận giá trị  thặng dư  thành tư 
bản phụ thêm. 
Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư 
trở lại thành tư bản.  Như vây,  thực chất của tích lũy tư bản là quá trình tư bản hoá  
giá trị  thặng dư. Nói một cách cụ  thể  tích lũy tư  bản là tái sản xuất ra tư  bản với  
quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản là  
vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới 
Có thể minh hoạ tích lũy tư bản và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: 
s tư bản bỏ ra K= 1000; c/v= 4/1; m'= 100%       
Năm thứ nhất: Quy mô sản xuất  800c+200v+200m=1200
 200 m chia thành: + 100m1 tiêu dùng cá nhân  
                                + 100m2 tích lũy( 80c mua máy móc, 20v tuyển công nhân) 
Năm thứ hai: Quy mô sản xuất 880c + 220v +220m.                                   
Vậy tư bản bất biết ( c ) và tư bản khả biến ( v )tăng lên , m cũng tăng theo
Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất tư  bản chủ  nghĩa cho phép rút ra những  
kết luận vạch rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Một là nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư  bản là giá trị  thặng dư và tư  bản  
tích lũy chiếm tỷ  lệ   ngày càng lớn trong toàn bộ  tư  bản C. Mác nói rằng“ tư  bản 
ứng trước như là giọt nước nhưng tích lũy là dòng sông của tích lũy mà thôi.  Trong 
3


quá trình tái sản xuất,  lãi (m) cứ đập vào vốn , vốn càng lớn thì lãi càng lớn , do đó  
lao động của công nhân trong quá khứ  lại trở  thành phương tiện để  bóc lột chính  
người công nhân .
Thứ  hai,  quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng  
hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.  Trong sản xuất hàng hoá giản 
đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về 

cơ  bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia .  
Trái lại , nền sản xuất tư  bản chủ  nghĩa dẫn đến kết quả  là nhà tư  bản chẳng  
những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân , mà còn là người sở hữu hợp  
pháp lao động không công đó.  Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị. 
1.1.2. Động cơ của tích lũy tư bản 
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt 
đối của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư . Để thực hiện mục đích đó các 
nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở  rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn 
bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê và làm giàu cho bản thân. 
Như vậy, tích lũy tư bản giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản  
lớn nhanh,  không có tích lũy thì không có quy mô sản xuất lớn hơn.  Do đó,  không  
có thêm lợi ích kinh tế,  điều này không thể chấp nhận đối với một nhà tư  bản và 
chiếm dụng vốn để phát triển.  Mặc khác , do cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải 
không ngừng làm cho tư  bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư  bản tích 
lũy. Nếu không tích lũy thì sẽ  không thể giữ vững trên thị  trường, đồng  nghĩa của 
sự phá sản của tư bản.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích lũy tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy tư bản  
phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng của giá trị thặng dư  đó thành quỹ tích lũy  
và quỹ tiêu dung của nhà tư bản, nhưng nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì 
quy mô của tích lũy tư  bản phụ  thuộc vào khối lượng giá trị  thặng dư. Do đó,  
những nhân tố   ảnh hưởng tới khối lượng giá trị  thặng dư  cũng là nhân tố  quyết  
định quy mô của tích lũy tư bản. Những nhân tố đó là:

4


1.1.4. Trình độ bóc lột sức lao động 
 Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào 
tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao 

đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá 
trị  sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ  bị  nhà tư  bản chiếm  
đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt  
xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.
Các nhà tư  bản còn nâng cao trình độ  bóc lột sức lao động bằng cách tăng  
cường độ  lao động và kéo dài ngày lao động để  tăng khối lượng giá trị  thặng dư,  
nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần  
ứng thêm tư  bản để  mua thêm máy móc, thiết bị  mà chỉ  cần  ứng tư  bản để  mua  
thêm nguyên liệu là có thể  tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công  
suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản  
của máy móc, thiết bị.      
1.1.1.5. Trình độ năng suất lao động xã hội
Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu  
tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản:
Một là, với khối lượng giá trị  thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ  có 
thể  tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư  bản không giảm, thậm chí có thể  cao 
hơn trước;
Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển  
hoá thành một khối lượng tư  liệu sản xuất và sức lao động phụ  thêm lớn hơn 
trước.
Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng  
dư được tích luỹ, mà còn phụ  thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị 
thặng dư  đó có thể  chuyển hoá thành. Như  vậy năng suất lao động xã hội tăng lên 
sẽ  có thêm những yếu tố vật chất để  biến giá trị  thặng dư  thành tư  bản mới, nên 
làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử 
dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình  

5



thái có ích mới, được sử  dụng làm chức năng của tư  bản ngày càng nhiều, do đó 
cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản.
1.1.6. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất, tư  liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn 
bộ  vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ  hao mòn dần, do đó giá trị  của chúng 
được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự  chênh lệch giữa tư  bản  
sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị  như  vậy, nhưng trong suốt  
thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như  khi còn đủ  giá trị. Do đó, nếu  
không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian,  
thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết  
bị  càng hiện đại, thì sự  chênh lệch giữa tư  bản sử dụng và tư  bản tiêu dùng càng  
lớn, do đó sự  phục vụ  không công của máy móc càng lớn, tư  bản lợi dụng được  
những thành tựu của lao động quá khứ  càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của  
lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng 
được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.
1.1.7.  Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ  bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị  thặng dư  do khối  
lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ 
phận tư  bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị  thặng dư  bóc lột được càng  
lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.
Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư  bản có thể 
rút ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư  bản, cần khai thác tốt nhất lực  
lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy 
móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
1.2. Các quy luật  chung của tích lũy tư bản
1.2.1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tích lũy tư bản
Sản xuất bao giờ cùng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: tư liệu sảnxuất và sức  
lao động. Sự kết hợp của chúng dưới hình thái hiện vật gọi làcấu tạo kỹ thuật.Cấu 
tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệulaođộng và khối lượng tư bản 
cần thiết để  sử  dụng các tư  liệu đó. Cấu tạo kỹthuật là cấu tạo hiện vật, nên nó  

6


biểu hiện dưới hình thức: số  llượng máymóc, nguyên liệu, năng lượng do công  
nhân sử  dụng trong một thời giannào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ  phát  
triển của lực lượng sảnxuất.Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ theo đó tư bản phân  
thành tưbản bất biến và tư  bản khả  biến (hay giá trị  của sức lao động) cần thiết 
đểtiến   hành   sản   xuất.Cấu   tạo   kỹ   thuật   thay   đổi   sẽ   làm   cấu   tạo   giá   trị   thay 
đổi.C.Mácđã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để  phản ánh mối quan hệ 
đó.Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị  tư  bản, do cấu tạo kỹ thuậtquyết  
định và phản ánh sự  thay đổi của cấu tạo kỹ  thuật của tư  bản.Cùng với sự  phát  
triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thườngxuyên của tiến bộ khoa học, cấu tạo  
hữu cơ  của tư  bản cũng không ngừngbiến đổitheo hướng ngày càng tăng lên. Sự 
tăng lên đó biển hiện  ở  chỗ: bộphận tư  bản bất biến tăng nhanh hơn bộ  phận tư 
bản khả  biến, tư  bản bấtbiến tăng tương đối và tăng tuyệt đối, còn tư  bản khả 
biến có thể tăng tuyệtđối nhưng lại giảm xuống tương đối.Sự tăng lên của cấu tạo  
hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tưliệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên  
của máy móc thiết bị là điềukiện để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng 
theo năng suất laođộng. Nó đòi hỏi việc sử dụng lao động mới được đào tạo với giá 
trị sứclao động cao nhưng năng suất lao động tăng cao lại làm cho hàng hóa kỹthuật 
hiện đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ  trọng người lao động cótrình độ  cao, 
lao động trí tuệ  ngày càng tăng lên, gây nên những hậu quả  xãhội tiêu cực đối với 
toàn bộ đội ngũ người lao động làm thuê   
1.1.2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản
Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sảnxuất lớn tư bản 
chủ nghĩa.Tích tụ tư bản và việc tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cáchtích lũy  
của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích lũy
Tích tụ  tư  bản một mặt là yêu cầu của việc mở  rộng sản xuất,  ứng dụng 
tiếnbộ kỹ thuật, mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quátrình  
phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng cho tích tụ  tư  bản. Tập  

trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư  bảnlớn cá biệt.Đây là 
sự  tích tụ  những tư  bản đã hình thành, là sự  thủ  tiêu tínhđộc lập riêng biệt của 
chúng, là việc nhà tư  bản này tước đoạt nhà tư  bảnkhác, là việc biến tư  bản nhỏ 
thành số  ít tư  bản lớn.Tích tụ  và tập trung tư  bản giống nhau  ở  chỗ  đều làm tăng 
7


quymô của tư  bản cá biệt, nhưng khác nhau  ở  chỗ  nguồn tích tụ  tư  bản là giá 
trịthặng dư  tư  bản hóa, còn nguồn tập trung tư  bản là hình thành trong xã hội.Do  
tích tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư bản xã hội cũngtăng theo. Còn 
tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các tư bản đã có quy môtư  bản xã hội vẫn như 
cũ.Tích tụ  tư  bản thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động,còn tập trung tư 
bản thì biểu hiện mối quan hệ giữa những nhà tư bản vớinhau. Tập trung tư bản có  
vai trò rất lớn đối với sự phát triển sản xuất tưbản chủ nghĩa. Nhờ có sự tập trung 
tư  bản mà tổ  chức được một cách rộnglớn lao động hợp tác, biến quá trình sản 
xuất rời rạc, thủ công thành quátrình sản xuất theo quy mô lớn, hiện đại.Tập trung  
tư  bản không những dẫn đến sự  thay đổi về  lượng củatư  bản mà còn làm cho tư 
bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữucơ  của tư  bản tăng lên, nhờ  đó  
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.
Chính vì vậy, tập trung tư  bản trở  thành đòn bẩy mạnh mẽ  của tích lũy 
tưbản.Quá trình tích tụ  và tập trung tư  bản ngày càng tăng, do đó nềnsản xuất tư 
bản chủ  nghĩa ngày càng được xã hội hóa, làm cho mâu thuẫnkinh tế  cơ  bản của  
chủ nghĩa tư bản càng trở nên sâu sắc.
1.2.3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản
Sự phân tích trên cho thấy, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càngtăng là một 
xu hướng phát triển khách quan của sản xuất tư  bản chủ  nghĩa.Do vậy, số  cân 
tương đối về  sức lao động cũng có xu hướng ngày cànggiảm. Đó là nguyên nhân  
gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối, hay cầu sứclao động giảm một cách tương 
đối.
Có ba hình thái nhân khẩu thừa: Nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa 

tiềm tàng, nhân khẩu thừa ngừng trệ. Nạn   thất   nghiệp   đã   dẫn   giai   cấp  công 
nhân đến  bần  cùnghóa. Bần cùng hóa giai cấp công nhân là hậu quả tất nhiên của  
quá trình tíchlũy tư  bản. Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt  
đối và bần cùng hóa tương đối. Bần cùng hóa tuyệt đối của công nhân biểu hiện  
mức sống bị giảm sút. Sự giảm sút này không chỉ xảy ra trong trường hợp tiêu dùng  
cá nhân tụt xuống tuyệt đối, mà còn khi tiêu dùng cá nhân tăng lên, nhưng mức tăng  
đó chậm hơn mức tăng nhu cầu do chi phí sức lao động nhiều hơn.

8


Chương 2
VẬN DỤNG TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ 
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.  Khái quát  tình hình tích lũy vốn ở Việt Nam
Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, 
nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ  tăng trưởng khá cao, sản xuất phát  
triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ  được  
tốc độ  tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ  phụ  thuộc rất nhiều vào việc tích  
lũy, huy động vốn cho nền kinh tế.
Trước đây trong nền kinh tế  bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình  
tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở  ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền 
kinh tế  dẫn đến việc tổ  chức doanh nghiệp không thể  phát huy hết khả  năng của 
mình, nhiệm vụ  tích tụ  và tập trung vốn không đạt được hiệu quả. Từ  khi chuyển  
đổi nền kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải thiện   rõ rệt, thu nhập quốc dân  
tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ  bé so với nền kinh tế thế giới. Một trong  
những  nguyên nhân chính  là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu 
phát triển, quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp. 
Sự  nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá  ở  nước ta bắt đầu từ  kế  hoạch 5  
năm lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề  ra. Quá  

trình này có thể được chia thành 2 thời kỳ:
 Thời kỳ 1960­ 1985:CNH được tiến hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập  
trung quan liêu, bao cấp
Thời kỳ  1986 đến nay: CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định  
hướng XHCN. Từ  năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở  cửa, các  
kênh huy động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với  
nguồn vốn nước ngoài, ngoài hình thức cũ là vay nợ  và viện trợ, đã có thêm hình  
thức đầu tư trực tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, 
đặc biệt là từ  khi có pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân 
hàng,  tín dụng và công ty Tài chính . Theo 2 pháp lệnh này, hệ thống ngân hàng một  
cấp ở nước ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Các Ngân Hàng Thương  
9


Mại có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần và được phép thực hiện 
đa dạng hoá các nghiệp vụ. Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các Ngân Hàng 
Thương Mại Việt Nam có thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính,  
góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ  và tập trung vốn.. Tính chung tổng vốn 
đầu tư  phát triển toàn xã hội thực hiện cả  giai đoạn 1996 ­ 2000 thì cả  nước đạt 
394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với giai đoạn 1991 ­ 1995. Tỷ  trọng vốn đầu tư 
phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996­2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6% 
năm. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đã tăng lên 25%GDP. 
Trong giai đoạn từ  năm 2000 đến nay : năm 2001­ 2006 chiếm 28,2% so với tỷ lệ 
đóng góp của vốn đầu tư là 52,7% năm 2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng là 53,9%,  
gấp 3,1 lần tốc độ  tăng GDP theo giá thực tế; năm 2008 tăng 39,6%, gấp 3,3 lần, 
năm 2009   tăng 34,8%, năm 2010 tăng 37 ,5%, năm 2011­ 2017 chiếm   nguồn vốn 
đầu tư  toàn xã hội  ước đạt 15.524 tỷ  đồng; trong đó vốn đầu tư  trực tiếp nước  
ngoài ước thực hiện 1.150 tỷ đồng. 
Trong các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã  
hội, nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong khi đó thì nguồn  

vốn ngoài Quốc doanh qua các năm 1996­2000 lại có chiều hướng Vốn đầu tư toàn 
xã hội ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn  ở  mức  
thấp so với năm 1995. Trong tổng số  vốn đầu tư  ngoài quốc doanh thì vốn trong  
nước  ước tính đạt 674,8 nghìn tỷ  đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ  năm trước và 
bằng 32,8% GDP tính đến năm 2017, dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn 
của các doanh  nghiệp ngoài  quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%. cấu vốn đầu tư phát 
triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều  
hướng tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề huy động và  
sử dụng vốn trong nước hiện nay đang bộc lộ những yếu kém cần khắc phục. Ngân 
sách nhà nước luôn  ở  trong tình trạng căng thẳng, không thể  đáp  ứng đủ  các yêu 
cầu cho đầu tư phát triển và các yêu cầu cấp bách về xã hội. Đầu tư của nhà nước  
bị phân tán do phải đáp ứng quá nhiều nhiệm vụ. Các nguồn thu từ  đất đai, nhà ở, 
các loại dịch vụ  công ích như: viện phí, phí cung cấp điện, nước,... còn để  thất  
thoát và lãng phí lớn. Đóng góp của nhân dân để  xây dựng mới và cải tạo trường  
học, trạm xá, giao thông địa phương,...vào sự  nghiệp Văn hoá ­ Giáo dục ­ Y tế,...  
10


chưa được thể chế hoá, sử dụng và quản lý kém hiệu quả, bất hợp lý, bị lạm dụng 
và thất thoát. Số vốn huy động được thông qua hệ thống tín dụng chủ  yếu là ngắn 
hạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất.  
Vốn đầu tư  trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn  ở  quy mô nhỏ,  
tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực: thương mại, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. 
Một bộ  phận không nhỏ  vốn trong nước đã huy động vào hệ  thống Ngân Hàng 
Thương Mại đang bị ứ đọng, không chuyển thành đầu tư được. Theo ý kiến dự báo 
khác nhau, khoảng 50 ­ 70 nghìn tỷ đồng tiền tiết kiệm của nhân dân đang được cất  
trữ  dưới dạng vàng, bạc, tiền mặt, ngoại tệ, tài sản có giá trị  cao... chưa chuyển 
thành vốn đầu tư và kinh doanh.
2.2. Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế Việt nam hiện nay
2.2.1. Quá trình mở rộng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Trước đổi mới, mô hình kinh tế  hiện vật, phủ  nhận sản xuất hàng hóa và 
kinh tế thị trường với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã  
làm triệt tiêu động lực của người lao động, kìm  hãm lực lượng sản xuất phát triển,  
dẫn đến sự  trì trệ  về  kinh tế  và khủng hoảng về  mọi mặt đời sống xã hội. Bởi  
vậy, đổi mới mô hình là điểm mấu chốt trong đổi mới quan hệ tổ chức, quản lý sản 
xuất ở Việt Nam.
  Trong thời gian qua, với xu thế  toàn cầu hóa, sự  chuyển giao và hội nhập 
quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. 
Những công cụ  lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ  công nghiệp đã được  
thay thế bằng những dây chuyền máy móc thiết bị  tối tân, hiện đại. Sức lao động  
của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động 
trí óc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. 
Những sự thay đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng  
vượt bậc, khi lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Nhờ 
quá trình tích lũy vốn thay thế các quá trình sản xuất nhỏ lẻ thành quá trình sản xuất  
lớn hơn  với quy trình công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Như    ở nước ta nông nhiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế,  
cho nên việc mở rộng sản xuất nông nghiệp là cần thiết. Nhờ quá trình tích lũy vốn  
nên  trong nông nhiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể thông qua việc đầu tư 
11


máy móc thiết bị, nâng cao trình độ cho người nông dân, mở các buổi hội thảo dưới  
sự hướng dẫn của người nước ngoài. Nhiều nơi việc làm nông không còn làm bằng 
thủ công mà đã chuyển sang dây chuyền với quy mô khép kín và đã đạt được nhiều 
thành tựu đáng kể. 
Từ  đó nông nghiệp đã đạt đước những thành tựu kim ngạch xuất khẩu các  
mặt hàng nông – lâm – thủy sản sẽ đạt 15 tỷ USD tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 
4,0% lên 4,5%/năm, GDP nông nghiệp tăng tõ 3,3% đến 3,5%/năm, tốc độ  tăng 
trưởng kinh tế nông thôn đạt 7,8­8%/năm.

2.2.2. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Việc xây dựng tập đoàn kinh tế là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm  
đưa nền kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. Đảng và nhà nước cũng  
đã xác định rõ một số lĩnh vực trọng điểm cần phải hình thành tập đoàn kinh tế.
 Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà nước đều thể 
hiện quan điểm hình thành các tập đoàn kinh tế mũi nhọn và đủ sức cạnh tranh trên 
thị  trường quốc tế. Theo đó một số  tổng công ty nhà nước trong một số  lĩnh vực 
mũi nhọn sẽ  được chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế. Trên thực tế  trong năm 
2006 và đầu năm 2007, tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực mũi nhọn  
như Bưu chính­Viễn thông, Than­Khoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu 
thuỷ, Dệt may, Cao su, Tài chính­Bảo hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng 
công ty có quy mô lớn mạng lưới thành  viên có quan hệ   mật thiết, liên doanhvà  
hợp tác với nhiều đối tác. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế 
nhà nước đã xuất hiện sự  lúng túng trong giải quyết các vấn đề  cụ  thể  khi xây  
dựng đề  án. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế  nhà nước đã 
xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Các  
vấn đề  nảy sinh đó là mối quan hệ  và liên kết giữa các đơn vị  trong tập đoàn, cơ 
chế  thực hiện liên kết, cơ  cấu tổ  chức bộ  máy quản lý (thành phần, quyền, trách  
nhiệm và mối quan hệ  giữa các bộ  phân quản lý trong bộ  máy của tập  đoàn), 
thương hiệu của tập đoàn, quy mô, vốn điều lệ và các vấn đề khác để xác lập tập  
đoàn. Ngay như   địa vị  pháp lý của tập đoàn vẫn còn những ý kiến khác nhau như 
tập đoàn có hay không có tư  cách pháp nhân, đăng ký hay không đăng ký, có hay 
không có bộ  máyquản lý riêng. Như  vậy, trong những năm vừa qua vẫn còn rất  
12


nhiều những quan điểm khác nhau về  nguyên tắc hình thành tập đoàn kinh tế  trên  
cơ  sở  Tổng công ty nhà nước. Về  vốn mà các tập đoàn sử  dụng là Tám tập đoàn 
kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở hữu gần 400.000 tỷ 
đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh nghiệp nhà nước. Các tập  

đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 60% 
tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ  tạo ra 
khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước  tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của 
các đơn vị  này là 17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn 
chủ  sở  hữu của các tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. 
Bên canh những tập đoàn kinh tế lớn nhà nước còn có các tập đoàn kinh tế tư nhân 
như     FPT,   Đồng  Tâm,   Kinh  Đô,   Hòa   Phát,   Hoàng  Anh  Gia   Lai,   Vincom,   Trung 
Nguyên,… Các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau  ở các công 
ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác chiến lược trong và ngoài nước với hàng  
ngàn cổ đông.  Các tập đoàn kinh tế tư nhân cũng góp phần làm thúc đẫy nền kinh  
tế phát triển và làm tăng %GDP quốc doanh của Việt Nam
2.2.3. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua 
thực tế cuộc sống hàng ngày. Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ 
thời kỳ quản lý kinh tế ­ xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, 
lúc đó sự  chênh lệch giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân  
tầng xã hội chưa rạch ròi, rõ nét, bị  che khuất bởi chủ  nghĩa bình quân và chế  độ 
công hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với  
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào công cuộc  
đổi mới toàn diện (1986), xóa bỏ  cơ  chế  quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế 
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự chênh  
lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng trở nên 
sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về  cơ  cấu xã hội và 
phân tầng xã hội nhằm cung cấp những căn cứ  lý luận và thực tiễn giúp Đảng và  
nhà nước kịp thời đưa ra những định hướng chiến lược và những chính sách phát 
triển kinh tế  ­ xã hội phù hợp với thời kỳ  chuyển đổi cơ  chế  và mô hình quản lý  
phát triển đất nước
13



Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt  
Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn 
khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm,  
có đến 2/3 tổng số hộ  ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ  và cũng có một 
tỷ lệ không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được  
những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam  
còn lớn. Việc phân bố  số  người nghèo không chỉ  chênh lệch  ở  tỷ  lệ  cao thấp qua  
các vùng, mà còn  ở  quy mô số  người tuyệt đối. Theo số  liệu thống kê của nhà 
nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và 
miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ  và duyên hải miền  
Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông 
Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu 
người. với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như  Việt Nam thì ranh  
giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng  
lên rất dễ  xảy ra. Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập  ở  nước ta  
ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ  lệ hộ  nghèo tập trung chủ  yếu  ở  những vùng 
khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự  nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ 
tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, còn  
xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đô thị hóa 
và nhóm lao động nhập cư  vào đô thị, họ  thường gặp khó khăn nhiều hơn và phải  
chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở  tại. Đây là những yếu tố  làm gia 
tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa  
các vùng trong cả nước.  
Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã  
trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của 
chúng ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã  
tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục 
lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để 
chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế  ngày càng suy  
giảm. Vì thế, nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ,  


14


nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng 
độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh.
2.3.  Những giải pháp tăng  cường tích lũy vốn  
2.3.1.  Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy tiêu dùng.
Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản 
phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta phải xác định cho 
được quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Tương quan  giữa tích lũy và tiêu dùng  
được coi là tối ưu khi sử  dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích 
lũy có thể  đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ  cao  ổn định mà cuối cùng vẫn  
đảm bảo tăng tiêu dùng.Việc phân chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế   ở 
từng thời kỳ  nhất định.Đồng thời phải khuyến khích mọi người không ngừng tiết  
kiêm, tích lũy. Tương quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng  
đươc các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích luỹ  có thể  đảm bảo phát triển  
sản xuất với tốc độ  cao và  ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và  
tích luỹ không đến mức cao nhất. Vởi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như 
thế nào là thích đáng? Tỷ  lệ này có phải cố định không và dựa trên nguyên tắc nào 
để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây là vấn đề trung tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, 
nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa  
lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn xã  
hội... Việc phân chia tỷ  lệ  này không cố  định mà thay đổi tuỳ  thuộc vào nhu cầu  
của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta phải không ngừng 
khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiêm, tích luỹ. Như  vậy có thể 
nói tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế mà là thể 
hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất định.
2.3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn 
Để  sử  dụng hiệu quả  các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ 

từng đốitượng được cấp vốn, từđó phân bổ  nguồn vốn một cách  hợp lý cho các  
ngành nhằm tạo ra hiệu quả  sử dụng vốn cao hơn. Đối với các doanh nghiệp nhà 
nước, chính phủ  không nên cấp vốn toàn bộ  mà nên tiến hành cổ  phần hoá doanh 
nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng  
thời chính nhờ có cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy 
15


mọi năng lực cũng như  khả  năng quản lý của họ  từđó sẽ  nâng cao rất nhiều hiệu 
quả  sử  dụng vốn. Việc đồng vốn cóđược sử  dụng hiệu quả  hay không một phần  
lớn phụ thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ quản 
lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải xem 
xét lại mô hình tổ  chức quản lý, chúýđến đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi  
nhất cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh  
tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu vực cũng như  trên thếgiới thì việc thiết 
lập một cơ  chế  tổ  chức gọn nhẹ  không chồng chéo có hiệu quả  cũng tạo ra khả 
năng cạnh tranh lớn. 
2.3.3.  Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư 
nước ngoài 
Tích luỹ  vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là 
nguồn vốn từ  ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ  đóng vai trò quan trọng để 
giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư  phát  
triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả  tích luỹ, tích tụ  và 
tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và cóý nghĩa thực tiễn  
lớn lao. 
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín dụng và 
ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ  vốn có hiệu quả  tương đối cao do có thể 
thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để thực hiện được ngày càng tốt các 
nghiệp vụ của mình, một mặt ngân hàng cần phải tựđổi mới phương thức phục vụ 
khách hàng mở rộng các hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm 

bảo an toàn bí mật vàổn định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ 
cũng cần có biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi  
trong dân. Đặc biệt là hệ  thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ  tín 
dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.Mặt khác, việc tích tụvà  
tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài   nguyên quốc gia và từ những 
tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ  bản trước mắt và lâu 
dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên 
cứu lại các quy định vềđất và quyền sử  dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ  chức 
thị  trường liên quan.Trong thời gian tới phải tìm cách để  khai thác cao nhất hiệu 
16


quả nhất nguồn vốn từ tài sản công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng 
ta có thể huy động bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu 
trực tiếp của ngân sách Nhà nước là cơ  sở  ban đầu cần thiết để  gọi vốn đầu tư 
nước ngoài. Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn 
thông qua thị  trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ  và tập trung vốn rất có 
hiệu quảđang được các nước phát triển áp dụng.Chính thị  trường chứng khoán là 
một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị trường chứng khoán hoạt động tốt thì 
nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Ngoài nguồn vốn  
tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế mở cửa hội nhập 
vào nền kinh tế thế  giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là  
nguồn vốn đầu tư  nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư  trực tiếp và vốn đầu tư  gián 
tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của 
nền kinh tế trong nước. Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu  
tư trực tiếp, đặc biệt là vốn của các nước phát triển.

17



C. KẾT LUẬN
Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước ta đang ở trong 
giai đoạn phát triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước tới nay. Sự phát triển của  
nền kinh tế  cũng tạo ra áp lực về  tăng quy mô vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc  
nghiên cứu tích luỹ tư  bản và việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn Việt Nam là 
rất quan trọng và cần thiết. Quá trình CNH­HĐH đất nước đạt được thành công  
trước hết phải có vốn lớn. 
Từ  những thực tiễn trên ta thấy được tích lũy tư  bản có vai trò rất lớn đến 
nền kinh tế nước ta,  để đạt được những thành tựu thì trước hết phải đưa ra những  
thực trạng và giải pháp đúng đắn cho nền kinh tế thông qua những cơ  sở  lí luận .  
Đồng thời thấy được tầm quan trọng của vốn đối với sự phát triển kinh tế của đất 
nước và khẳng định nguồn vốn là cơ sở để  tạo việc làm, mở rộng công nghệ thúc 
đây tăng trưởng %GDP cho nền kinh tế.  Đó chính là con đường dẫn đến sự  thành 
công của sự nghiệp CNH­HĐH đất nước, khẳng định tính đúng đắn của chính sách 
mở  cửa, phát triển nền kinh tế  thị  trường theo định hướng XHCN, sớm đạt mục 
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

    

18


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].

GS, TS Phạm Văn Quang, TS Phạm Văn Sinh (chủ  biên)  (2009),  Giáo trình 
Những nguyên lý cơ  bản của chủ  nghĩa Mác – Lênin Nhà xuất bản Chính trị 
quốc gia Hà Nội 

[2].


GS, TS Nguyễn Ngọc Long, GS, TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2006), Giáo 
trình triết học Mác – Lênin  (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng), Nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia.

[3].

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của 

[4].

Báo Vũng Tàu ( bài viết của Lê Ngân) 

[5].

Tài liệu tiểu luận của kênh 123.doc

[6].

Tài liệu tham kháo môn kinh tế chính trị của Ngô Đạt.

[7].

Báo Diễn đàn doanh nghiệp ( bài tình hình kinh tế xã hội của Nguyễn Tuấn)

[8].

Tạp Chí phát triển kinh tế ( bài vấn đề tích lũy vốn đối với sự phát triển của 
đất nước  của Ngọc Oanh)


[9].

Số  liệu của Tổng Cục Thống Kê về  vốn đầu tư  phắt triển toàn xã hội năm 
1995­2000

[10]. Số  liệu của Tổng Cục Thống Kê về  vốn đầu tư  phát triển xã hội năm 2001­

2017
.

19


MỤC LỤC





×