Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

U sợi đơn độc khổng lồ ở màng phổi nhân 2 trường hợp phẫu thuật và tổng quan y văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.21 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

U SỢI ĐƠN ĐỘC KHỔNG LỒ Ở MÀNG PHỔI
NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP PHẪU THUẬT VÀ TỔNG QUAN Y VĂN
Hồ Tất Bằng*, Lê Quang Đình*, Trần Thanh Vỹ*

TÓM TẮT
Giới thiệu: U sợi đơn độc của màng phổi là một dạng tổn thương nguyên phát hiếm gặp, thường xuất phát
từ vùng cận lớp tế bào trung biểu mô của màng phổi. Bệnh đa số lành tính và thường không có triệu chứng lâm
sàng giai đoạn sớm cho đến khi lớn lên gây chèn ép các cơ quan xung quanh như: gây ho, đau ngực hoặc khó thở.
Chẩn đoán xác định dựa vào mô bệnh học và hóa mô miễn dịch. Phương pháp điều trị là phẫu thuật cắt bỏ hoàn
toàn khối u.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, giải phẫu bệnh học của các trường hợp bệnh nhân được
chẩn đoán u sợ đơn độc màng phổi và hồi cứu y văn.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo đặc điểm 2 trường hợp u sợi đơn độc lành tính của màng phổi đã được
phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh trong năm 2016.
Kết quả: Tất cả 2 bệnh nhân có khối u sợi đơn độc của màng phổi khổng lồ đã được phẫu thuật thành công,
không có tai biến, biến chứng và theo dõi định kỳ 1 năm.
Kết luận: U sợi đơn độc của màng phổi là một dạng tổn thương hiếm gặp của màng phổi, thường có kích
thước lớn, điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn, phân tích mô bệnh học và hóa mô miễn dịch rất quan
trọng trong chẩn đoán phân biệt với các loại u khác và tiên lượng lâm sàng. U thường lành tính nhưng cũng có tỉ
lệ ác tính hóa hoặc di căn, do đó cần theo dõi lâu dài sau khi phẫu thuật.
Từ khóa: u sợi đơn độc, màng phổi

ABSTRACT
SOLITARY FIBROUS TUMOR OF THE PLEURAL: 2 CASE REPORTS AND REVIEW OF LITERATURE
Ho Tat Bang, Le Quang Dinh, Tran Thanh Vy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 63 - 70
Introduction: Solitary fibrous tumors (SFTs) of pleura are rare primary tumors that arise from the


submesothelial tissue. They are mostly benign. In the initial stage, they are mostly asymptomatic and by growing,
they cause chest pain, irritating cough and dyspnoea on account of the pressure created on the surrounding
structures. Histopathology and immuno-histochemical analysis are used to make the diagnosis. Complete surgical
resection is the preferred treatment.
Objectives: To study the clinical, paraclinical and historical characteristics of all of patients who had been
diagnosed SFTs of pleu ral and rewiew of literature.
Methods: In this study, we reviewed 2 patients who had undergone a complete surgical resection for
treatment of benign solitary fibrous tumors (SFTs) of pleura at University Medical Centre HCM City in 2016
Results: There are 2 patients with giant SFTs of pleura who had undergone surgery and follow up
periodically for a year.
Conclusions: SFTs of pleura are rare primary tumors, usually have large size. Complete resection of SFTs is
usually curative. Immuno-histochemical and pathological features are important in distinguishing them from
* Khoa Lồng ngực Mạch máu, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS BS. Lê Quang Đình, ĐT: 0983015351.,
Email:

Chuyên Đề Ngoại Khoa

63


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

other tumors and in predicting clinical behaviour. Although most of SFTs show benign behavior, following up is
important because some of them are recurrent or malignant potential.
Key words: solitary fibrous tumors (SFTs), pleura

ĐẶT VẤN ĐỀ

U màng phổi nguyên phát (Primary tumors
of the pleura) gồm 2 dạng: khu trú và lan tỏa.
- U màng phổi lan tỏa thường gặp nhất là u
trung biểu mô (Pleural Mesothelioma) xuất phát
từ lớp tế bào trung biểu mô của màng phổi, tỷ lệ
ác tính rất cao và liên quan với việc phơi nhiễm
a-mi-ăng. Mỗi năm tại Hoa Kỳ có 3000 trường
hợp mới mắc.
- U màng phổi khu trú ít gặp hơn, có khoảng
800 trường hợp được nhắc đến trong các y văn
thế giới cho đến bây giờ. Dạng tổn thương này
xuất phát từ lớp tế bào cận trung biểu mô của
màng phổi. Sau những trường hợp đầu tiên
được công bố, việc đặt tên cho dạng tổn thương
hiếm gặp này có nhiều tranh cãi như: U xơ màng
phổi, u trung biểu mô khu trú, u xơ trung biểu
mô khu trú. Tuy vậy vẫn chưa thống nhất cho
đến khi sự ra đời của kính hiển vi điện tử cùng
sự phát triển của hóa mô miễn dịch, tên gọi “u
sợi đơn độc” (Solitary Fibrous Tumors) được
thống nhất để phân biệt với u màng phổi ác tính
(Malignant Mesothelioma).
Chúng tôi báo cáo 2 trường hợp lâm sàng
hiếm gặp được chẩn đoán u sợi đơn độc của
màng phổi.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
2 ca bệnh u sợi đơn độc.
Phương pháp nghiên cứu

Báo cáo loạt ca.

KẾT QUẢ
Trường hợp 1
Hồ Thị P, nữ, sinh năm 1976, nhập viện
15/9/2016, số HS: N16-281975

Lâm sàng
Bệnh nhân nữ 40 tuổi, không có tiền căn phơi

64

nhiễm các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, vào viện
vì đau ngực trái âm ỉ. Bệnh nhân có biểu hiện
mệt khi gắng sức khoảng 1 năm trước, khoảng 1
tuần trước ngày nhập viện, bệnh nhân bắt đầu
thấy mệt và tức vùng ngực trái và vùng thượng
vị tăng dần nên xin nhập viện điều trị.
(Trong thời gian hơn 10 năm bệnh nhân
không đi kiểm tra sức khoẻ).

Tình trạng lúc nhập viện
Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt, tổng trạng
trung bình, BMI 20.
Mạch 66 lần /phút, Huyết áp 120/70mmHg,
nhiệt độ 37 độ C, Nhịp thở 22 lần /phút.
Bệnh nhân đau tức ngực trái, tức vùng
thượng vị, không khó thở.
Phổi trái âm phế bào mất, gõ đục.


Cận lâm sàng
Các xét nghiệm sinh hóa: CEA 1,4ng/ml;
beta HCG <1,2; CA19.9 2U/ml; Cyfra 21-1:
1,4ng/ml. Tất cả đều trong giới hạn bình thường.
Hình ảnh học: - XQ ngực: Khối mờ đồng
nhất 2/3 dưới phổi trái, đẩy trung thất lệch sang
phải.
- Chụp cắt lớp vi tính ngực: Khối tổn thương
chiếm gần toàn bộ khoang màng phổi trái, tăng
sinh mạch máu, gây xẹp nhu mô phổi, không
thấy xâm lấn xung quanh.
Cảm nghĩ: U phổi hoặc U màng phổi hoặc
Lymphoma.
- CT Scan sọ não, xạ hình xương:
Bình thường.
- Nội soi phế quản: U tân sinh toàn bộ niêm
mạc cây phế quản trái, ăn lan qua phải, bấm sinh
thiết 1 mẫu, không có kết quả giải phẫu bệnh vì
quá nhỏ.
- Giải phẫu bệnh sinh thiết xuyên thành:
mô viêm mạn tính chưa loại trừ u lành mạch
máu.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học


Hình 1. Hình ảnh X quang ngực và cắt lớp vi tính.
- Chẩn đoán: U màng phổi kích thước lớn
khoang màng phổi trái nghi lành tính.
- Điều trị: Bệnh nhân được phẫu thuật mở
ngực trái 25cm khoang liên sườn VI trái, khối u
lớn chiếm gần trọn khoang màng phổi trái, kích
thước 20x25x20 cm, bề mặt trơn láng, tăng sinh
mạch máu. U xuất phát từ màng phổi tạng thùy
lưỡi, dính vào thùy trên, thuỳ dưới, cơ hoành.
Cắt xương sườn VII, tách chỗ dính cơ hoành, cắt
phần phổi dính u, cắt khối u nặng 2,6 kg.

Kết quả giải phẫu bệnh
Đại thể: U kích thước 20x25x20 cm, mặt cắt
trắng vàng đồng nhất, có chỗ can xi hóa,

Vi thể: mẫu thử giới hạn rõ, có vỏ bao, hiện
diện nhiều tế bào hình thoi, xen kẽ mô đệm giàu
collagen. Tế bào hình thoi có nhiễm sắc chất mịn,
hạt nhân không rõ, tập trung nhiều quanh các
mạch máu phân nhánh hình sừng
hươu(staghorn) và thành myelin hóa. Hiếm thấy
phân bào trên mẫu thử.
Kết luận: U sợi đơn độc của màng phổi
(Solitary Fibrous Tumors)
Bệnh nhân xuất viện khỏe mạnh sau 9 ngày
điều trị hậu phẫu.

Hình 2. Khối u nặng 2,6kg, hình ảnh mô học


Chuyên Đề Ngoại Khoa

65


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Hình 3. So sánh X quang ngực trước và sau phẫu thuật
Không có triệu chứng cơ năng đặc hiệu.

Trường hợp 2
Bệnh nhân Nguyễn Thị H, Nữ sinh năm
1947, số HS: N16-0085298.

Lâm sàng
Bệnh nhân nữ 69 tuổi, không có tiền căn hút
thuốc lá hay phơi nhiễm các yếu tố nghề nghiệp
liên quan đến bệnh phổi, khám sức khỏe tình cờ
phát hiện khối choán chỗ ở vùng ngực trái trên
phim X quang ngực thẳng.

Cận lâm sàng
X quang: khối choán chỗ thùy dưới phổi trái,
bờ tròn đều, giới hạn rõ
Chụp cắt lớp vi tính: Khối choán chỗ thùy
dưới phổi trái, tròn, bờ đều, giới hạn rõ, không
thấy dấu hiệu xâm lấn các cơ quan xung quanh,
tăng sinh mạch máu. Kích thước khoảng

10x8x3cm.

Tình trạng lúc nhập viện: Tỉnh táo, tiếp xúc
tốt, thể trạng trung bình.

Hình 4. Hình ảnh XQ và CT Scan

66

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chẩn đoán: Theo dõi u màng phổi trái
lành tính

Nghiên cứu Y học

Điều trị: Bệnh nhân được mở ngực khoang
liên sườn VII, cắt bỏ trọn khối u kích thước
9x8x3cm.

Hình 5. Khối u sau khi được cắt ra
khối u nguyên phát tại chỗ của màng phổi. Năm
Kết quả giải phẫu bệnh
1931, Klemperer và Rabin đã đề cập đến và đưa
Đại thể: mô dạng đặc, kích thước 9x8x3 cm,
ra giả thuyết phân loại u này như là một khối u
có vỏ bao mỏng bên ngoài, mặt cắt màu trắng
trung biểu mô màng phổi tại chỗ(8). Cùng với sự

hơi vàng, mật độ chắc.
phát triển của kính hiển vi điện tử, công nghệ
Vi thể: mô u hiện diện tế bào hình thoi, có
hóa mô miễn dịch, u sợi đơn độc của màng phổi
nơi sắp xếp thành bó xoáy ốc, hoặc Hyalin hóa,
cuối cùng được xác định là tổn thương xuất phát
nhân bầu dục, đều, hiếm thấy phân bào
từ lớp sâu của trung biểu mô của màng phổi(3).
Nhuộm hóa mô miễn dịch: CD 34 (+), actin
Về phương diện dịch tễ học, cho đến nay, chỉ
(-), Desmin (-), Ki67 (+) < 5%, S100 (-)
khoảng hơn 800 trường hợp được báo cáo trong
Kết luận sau nhuộm hóa mô miễn dịch: U sợi
các y văn thế giới, tỷ lệ mắc phải rất thấp, chỉ
đơn
độc
của
màng
phổi
(Solitary
khoảng 2 ca/ 1.000.000 dân hằng năm(4), tỷ lệ
Fibrous Tumors).
nam: nữ là tương đương nhau, bệnh có thể gặp
Bệnh nhân xuất viện khỏe mạnh 5 ngày sau
phải ở mọi độ tuổi( từ 5 đến 87 tuổi) với xuất độ
phẫu thuật.
cao nhất trong khoảng 60-70 tuổi. Nói chung,
không có bằng chứng về sự liên quan của khối u
TỔNG QUAN Y VĂN
và di truyền. Ngược lại với u màng phổi ác tính

U sợi đơn độc màng phổi là một dạng tổn
(malignant mesothelioma), u này không liên
thương hiếm gặp thường xuất phát lớp tế bào
quan đến phơi nhiễm a-mi-ăng, thuốc lá hay các
cận trung biểu mô, chiếm khoảng <5% các khối u
yếu tố môi trường khác(1).
ở màng phổi(2). Loại tổn thương này được báo
Về mặt mô bệnh học, theo WHO 2013, u sợi
cáo đầu tiên ở màng phổi nhưng cũng có thể gặp
đơn độc được xếp vào nhóm trung gian ác tính
ở bất cứ cơ quan nào trên cơ thể như phổi, gan, ổ
(intermediate malignancy) và nguy cơ di căn
mắt, khoang mũi, da, tuyến giáp và đường tiêu
hoặc ác tính thấp. Về đại thể khối u thường có
hóa(12). Năm 1870, Wagner lần đầu tiên miêu tả

Chuyên Đề Ngoại Khoa

67


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

giới hạn rõ, có cuống, hệ thống mạch máu nuôi
dưỡng được nhận biết rõ, thường chia nhiều
nhánh, thường xuất phát từ màng phổi tạng
(80%)(1). U thường trơn nhẵn, vỏ rõ, sáng, nhu
mô khá mịn và ánh hồng, đường kính u thường

rất lớn, có thể trên 10cm, những khối u kích
thước lớn hơn 20cm cũng đã được báo cáo(6).

Trên vi trường vật kín nhỏ, có thể thấy u có ranh
giới rõ với vùng mô phổi lành lân cận, cũng thấy
đặc điểm chia nhánh của mạch máu nuôi. Trên
vi trường vật kín lớn, có thể thấy rõ những đặc
điểm của các tế bào hình thoi đặc trưng ở u xơ
đơn độc màng phổi(14). Phân loại mô bệnh học
chia làm 4 dạng biến thể (Bảng 1):

Bảng 1. Các dạng biến thể mô bệnh học(9)
STT
1

2

3
4

Biến thể
Đặc điểm
Biến thể thông thường Có sự kết hợp giữ vùng nghèo tế bào và vùng giàu tế bào, được ngăn cách bởi các bó
hay cổ điển(classic SFT) collagen dày, kính hóa và các mạnh máu thành mỏng, chia nhánh dạng u tế bào quanh
mạch, tế bào u hình bầu dục hoặc hình thoi, bào tương hẹp, màu nhạt, chất nhiễm sắc phân
tán.
Biến thể u xơ mạch tế Chứa các tế bào khổng lồ nhiều nhân trong mô đệm và các khoảng trống giả mạch.
bào khổng lồ (giant cell
angiofibroma)
Biến thể giàu tế bào Đặc trưng với các tế bào u như đã mô tả ,sắp xếp thành đám, các mạnh máu xung quanh

(Cellular variant)
mỏng, có thể phân nhánh dạng sừng hươu, không thấy xơ hóa quanh mạch.
Biến thể tạo mỡ (Fat- U có đặc điểm gần giống biến thể giàu tế bào, tuy nhiên kèm theo thành phần tế bào mỡ với
forming SFT)
tỷ lệ khác nhau.

Trong trường hợp ác tính, các tế bào có đặc
điểm: mật độ tế bào cao, tăng tỷ lệ nhân chia (≥ 4
nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn), nhân
đa hình thái, hoại tử u và xâm nhập bờ khối u.
Việc chẩn đoán xác định thường dựa vào
nhuộm hóa mô miễn dịch, thường dùng CD34
và BCI2 với tỷ lệ dương tính trong các nghiên
cứu trước đó là 88,7% và 96,2%. Các nghiên cứu
gần đây cho thấy vai trò của dấu ấn STAT6 trong
chẩn đoán u xơ đơn độc nói chung(9).
Khối u thường không gây triệu chứng lâm
sàng trong giai đoạn sớm và chỉ phát hiện tình
cờ khi chụp phim X quang phổi định kỳ. Khi

khối u tăng kích thước gây chèn ép các cơ quan
xung quanh. Triệu chứng thường khiến bệnh
nhân đến khám ở các cơ sở y tế thường là đau,
nặng ngực, ho, khó thở, nuốt khó. Hiếm gặp hơn
là triệu chứng ho ra máu, viêm phổi hoặc xẹp
phổi do tắc nghẽn phế quản(12). Ở những khối u
lớn có thể gặp ngón tay dùi trống (hội chứng
Piere Marie Bamberg), một số có biểu hiện hạ
đường huyết do khối u tiết ra chất giống hóc
môn insulin (Insulin-like hormon) (Hội chứng

Doege Potter)(3). Sau khi tổng hợp các nghiên
cứu, tác giả Lary A. Robinson đã đưa ra bảng tỷ
lệ gặp phải các triệu chứng của bệnh nhân có
khối u đơn độc màng phổi.

Bảng 2. Các triệu chứng thường gặp.
Triệu chứng
Không triệu chứng
Ho
Đau ngực
Khó thở
Sốt
Ngón tay dùi trống (to đầu chi)
Sụt cân
Ho ra máu
Viêm phổi

(10)

Okike et al 1978 N=52
54%
33%
23%
19%
17%
19%
6%
2%
2%


Chụp X quang ngực giúp chẩn đoán ban
đầu, với hình ảnh một khối choán chổ nằm ở
phần ngoại vi của phổi hoặc ở rãnh liên thùy.

68

(5)

England et al 1989 N=138
67%
12%
19%
11%
1%
2%
-

(13)

Sung et al 2005 N=63
43%
43%
17%
17%
1%
2%
3%
-

Chụp cắt lớp vi tính để đánh giá chính xác vị trí,

sự tương quan với các cơ quan khác trong lồng
ngực. Nếu nghi ngờ có sự xâm lấn vào các cấu

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
trúc trong trung thất thì chụp cộng hưởng từ có
thể được xem xét. Khi có bất kì dấu hiệu nào
nghi ngờ ác tính, có thể chỉ định chụp PET- CT.
Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u là
phương pháp tối ưu nhất hiện nay trong điều trị
u sợi đơn độc. Khi phẫu thuật, có thể cắt bỏ thêm
phần nhu mô lành xung quanh để tránh sót mô
bệnh, hạn chế tái phát. Giới hạn bờ an toàn nên
rộng khoảng 1-2cm. Phẫu thuật cắt phổi không
điển hình (Wedge resection) thường thực hiện
khi khối u nằm ở ngoại vi. Một số trường hợp,
người ta cũng có thể cắt thùy phổi cũng như
phần thành ngực bị xâm lấn. Những u nhỏ, có
thể thực hiện đường mở ngực nhỏ dưới hướng
dẫn của nội soi lồng ngực (VATS). Theo tác giả
Park, ở những khối u quá lớn, có nguy cơ ác tính,
cần hóa trị bổ trợ sau mổ, phác đồ thường được
dùng đến là Temozolomide kết hợp với
Bevacizumab có sự đáp ứng tốt sau quá trình
theo dõi dài hạn(11).
Về mặt tiên lượng, u sợi đơn độc của màng
phổi thường lành tính 78-88%, hầu hết được điều
trị khỏi bệnh hoàn bằng phẫu thuật cắt bỏ toàn

bộ khối u với tỷ lệ 88-92%, ít tái phát, tiên lượng
tốt(12). Tuy vậy cũng có có trường hợp tái phát và
ác tính hóa sau 17 năm theo dõi(7). Dựa vào hồi
cứu những ca lâm sàng và mô bệnh học, năm
2002, tác giả Perrot đã đưa ra tiên lượng tái phát
dựa vào đặc điểm hình thái và mô học của khối
u sợi đợn độc:
U lành tính, có cuống: 2% tái phát.

Như vậy, triệu chứng lâm sàng hai trường hợp
chúng tôi báo cáo tương tự với y văn trên thế
giới. Đó là, u sợi đơn độc là dạng tổn thương
hiếm gặp, thường không có triệu chứng mặc dù
kích thước rất lớn.
Cả hai trường hợp đều được chúng tôi phẫu
thuật cắt bỏ hoàn toàn qua đường mở ngực bên,
hậu phẫu diễn tiến thuận lợi, không ghi nhận các
biến chứng xảy ra.
Kết quả mô bệnh học của hai trường hợp cho
thấy 2 khối u đều đặc trưng với sự xuất hiện các
tế bào hình thoi trên vi thể, đại thể khối u trơn
láng, giới hạn rõ, mặt cắt màu trắng vàng. Tất cả
những đặc điểm trên đều phù hợp với y văn đã
được nhắc đến.

KẾT LUẬN
U sợi đơn độc của màng phổi là một dạng
tổn thương hiếm gặp, đặc trưng trên vi thể bởi
những tế bào hình thoi. Bệnh thường không
triệu chứng giai đoạn sớm, triệu chứng chỉ xuất

hiện khi u đã chèn ép các cơ quan xung quanh.
Đa số lành tính, điều trị phẫu thuật cắt bỏ toàn
bộ khối u. Chẩn đoán xác định và chẩn đoán
phân biệt thường dựa vào mô bệnh học và hóa
mô miễn dịch. Bệnh tiên lượng tốt, tuy vậy vẫn
có khả năng tái phát và ác tính. Do đó, cần theo
dõi dài hạn sau phẫu thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

U lành tính, không cuống: 8% tái phát.
U ác tính, có cuống: 14% tái phát.
U ác tính, không cuống: 63% tái phát, 30% tử
vong (hầu hết trong 2 năm)(4).

BÀN LUẬN
Trong hai trường hợp lâm sàng mà chúng tôi
đã trình bày ở trên, một bệnh nhân hoàn toàn
không có triệu chứng lâm sàng mặc dù khối u
kích thước đã khá lớn (9x8x3cm), một bệnh nhân
có khối u với kích khổng lồ (20x25x20cm), nặng
2,6 kg thì chỉ có triệu chứng đau ngực mơ hồ.

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

3.


4.

5.

6.

Abu AW (2012). Solitary fibrous tumors of the pleura. Eur J
Cardiothorac Surg, 41(3): 587-97.
Balduyck B, Govert K, Hendriks J, Maeseneer MD (2006).
Solitary fibrous tumor of the pleura with associated
hypoglycemia: Doege-Potter syndrome: a case report. J Thorac
Oncol, (6): 588-90.
Crnjac A, Veingerl B, Vidovic D, Kavalar R, Hojski A (2014).
Giant solitary fibrous tumour of the pleura. Case report and
review of the literature. Radiology and Oncology, 49(4): 395-401.
De Perrot M, Fischer S, Brundler MA, Sekine Y, Keshavjee S
(2002). Solitary fibrous tumors of the pleura. Ann Thorac Surg,
74(1): 285-93.
England DM, McCarthy MJ (1989). Localized benign and
malignant fibrous tumors of the pleura. A clinicopathologic
review of 223 cases. Am J Surg Pathol, (13): 640-658.
Furukawa N, Hansky B, Niedermayer J, Gummert J, Renner A
(2011). A silent gigantic fibrous tumor of the pleura: case
report. J Cardiothorac Surg, 6: 122-126.

69


Nghiên cứu Y học

7.

8.
9.

10.

11.

70

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Hyun W, Young D (2014). Malignant solitary fibrous tumor of
the pleura slowly growing over 17 years: case report. Journal of
Cardiothoracic Surgery, 9: 113-117.
Klemperer P, Rabin CB (1931). Primary neoplasm of the
pleura: a report of five cases. Arch Pathol, 11: 385-412.
Nguyễn Cảnh Hiệp, N.V.H. (2015). U xơ đơn độc: Báo cáo hai
ca bệnh và vai trò của dấu ấn hóa mô miễn dịch mới STAT6
trong chẩn đoán mô bệnh học. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 5:
210-214.
Okike N, Woolner LB (1978), Localized mesothelioma of the
pleura: benign and malignant variants. J Thorac Cardiovasc
Surg, 75: 363-372.
Park MS, Ludwig JA, Trent JC, Conrad CA, Lazar AJ. (2011),
Activity of temozolomide and bevacizumab in the treatment
of
locally
advancet,

recurrent
and
metastatic
hemangiopericytoma and malignant solitary fibrous tumor.
Cancer, 117: 4939-4947.

12.
13.

14.

Robinson LA (2006). Solitary fibrous tumor of the pleura.
Cancer Control, 13(4): 264-9.
Sung SH, Chang JW, Lee KS, Han J, Park SI (2005), Solitary
fibrous tumors of the pleura: surgical outcome and clinical
course. Ann Thorac Surg, 79(1): 303-307.
Trần Thị Tuấn Anh, P.T.T., Nguyễn Văn Đoàn (2017),Báo cáo
ca bệnh tương tác: u sợi đơn độc của màng phổi. Hội nghị khoa
học bệnh phổi toàn quốc lần thứ 7.

Ngày nhận bài báo:

30/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

06/12/2017

Ngày bài báo được đăng:


15/03/2018

Chuyên Đề Ngoại Khoa



×