Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đặc điểm mô bệnh học, giai đoạn bệnh, kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực trong điều trị u tuyến ức không có nhược cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.06 KB, 9 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC, GIAI ĐOẠN BỆNH,
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC
TRONG ĐIỀU TRỊ U TUYẾN ỨC KHÔNG CÓ NHƯỢC CƠ
Huỳnh Quang Khánh*, Trần Quyết Tiến*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá mô bệnh học, giai đoạn bệnh và hiệu quả phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến
ức giai đoạn I, II so sánh với mở xương ức.
Phương pháp nghiên cứu: đoàn hệ tiền cứu từ 7/2010-7/2013 tại khoa ngoại lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy.
Chọn bệnh trong mổ u tuyến ức giai đoạn I, II. Trên phim CT ngực u tuyến ức trong thùy, có ranh giới rõ với
tĩnh mạch thân tay đầu.
Kết quả: Chúng tôi phân tích 64 bệnh nhân u tuyến ức được mổ điều trị. Nhóm mổ nội soi 29 trường hợp,
nhóm mở xương ức 35 trường hợp. Không có tử vong hay chuyển mổ mở. Đa số các trường hợp là u tuyến ức
nhóm A (50%), kế đó là các trường hợp carcinôm tuyến ức (21,9%), AB chiếm 12,5%, B1 4,7%, B2 4,7%, B3
6,2%. Đa số các trường hợp u tuyến ức giai đoạn I (67,2%), kế đến là giai đoạn II (17,2%), giai đoạn III (14,1%),
cuối cùng là giai đoạn IV (1,6%). Kích thước u trung bình trong nhóm mổ nội soi là 7,48 ± 2,32 cm nhóm mở
xương ức là 8,17 ± 2,44 cm (p = 0,256). Thời gian mổ trung bình (phút) 89,65 ± 43,77 (nội soi) và 116,85 ± 45,16
mở xương ức (p = 0,018). Máu mất trung bình 56,72 ± 59,39 ml trong mổ nội soi ít hơn trong nhóm mở xương
ức176,28 ±203,12 ml (p = 0,003). Thời gian hậu phẫu tương ứng 5,13 ± 1,40 ngày và 7,68 ± 1,93 ngày (p <
0.0001). Thời gian lưu ống dẫn lưu trung bình (ngày) 2,10 ± 0,30 và 3,08 ± 0,74 (p<0,001). Điểm đau sau mổ
tương ứng 4,82 ±1,48 và 6,67 ± 1,40 (p<0,001). Tỉ lệ biến chứng 0,0% (VTS) và 2,9% (TS) với p = 0,359. Theo
dõi trung bình 20,54 ± 10,62 tháng (từ 2 đến 38 tháng) ở cả nhóm mổ nội soi và nhóm mở xương ức. Có 1 trường
hợp bệnh nhân giai đoạn III di căn màng phổi sau 6 tháng mổ nội soi, 1 trường hợp bệnh nhân giai đoạn II tái
phát sau 12 tháng mổ nội soi. Các bệnh nhân còn lại không tái phát.
Kết luận: Về đặc điểm mô bệnh học trong u tuyến ức chủ yếu là nhóm A (50%) và nhóm C (21,9%). Về liên
quan giữa mô bệnh học với giai đoạn bệnh: ở giai đoạn sớm loại mô học thường là nhóm A, còn giai đoạn muộn
loại mô học thường là nhóm C. Kết quả phẫu thuật cho thấy mổ nội soi trong điều trị u tuyến ức tốt hơn về thời


gian mổ, lượng máu mất, thời gian hậu phẫu, thời gian lưu ống dẫn lưu, đau sau mổ so với mở xương ức. Kết
quả trung hạn không khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Do vậy phẫu thuật nội soi cắt u tuyến ức nên xem xét
áp dụng trong điều trị u tuyến ức giai đoạn sớm.
Từ khóa: U tuyến ức, mô bệnh học, giai đoạn bệnh, phẫu thuật nội soi lồng ngực, phẫu thuật nội soi lồng
ngực hỗ trợ, mở xương ức.

ABSTRACT
THE PATHOLOGY, STAGING AND RESULTS OF THORACOSCOPIC SURGERY RESECTION FOR
THYMOMA WITHOUT MYASTHENIA GRAVIS
Huynh Quang Khanh, Tran Quyet Tien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 40 – 48
Purpose: This study was undertaken to investigate the pathology, staging and efficacy of a video
*

Khoa Ngoại lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS Huỳnh Quang Khánh ĐT: 0908115780 Email:

40

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

Nghiên cứu Y học

thoracoscopic surgery (VTS) approach for stage I and II thymoma through comparisons with the trans-sternal
(TS) approach.
Methods: a prospective cohort two group VTS approach and trans-sternal (TS) approach. From July 2010 to
July 2013 at Thoracic Surgery Department Cho Ray hospital. The indications for VTS or TS resection were

clinical stage I or II thymoma. On Chest CT scan, the tumor was located within the thymic lobes and separated
from the brachiocephalic vein.
Results: 64 patients underwent total thymectomy (29 by VTS and 35 by the trans-sternal approach). The
pathology: most of them are type A (50%), next are type C (21.9%), type AB (12.5%), B1 (4.7%), B2 (4.7%), B3
(6.2%). The staging: Most of them are stage I (67.2%), next are stage II (17.2%), stage III (14.1%), stage IV
(1.6%). The mean tumor size was 7.48 ± 2.32 cm for VATS and 8.17 ± 2.44 cm for the trans-sternal group (p =
0.256). The mean lengths of the operation were 89.65 ± 43.77 min and 116.85 ± 45.16 min (p = 0.018),
respectively. The mean intraoperative blood loss was significantly lower in VTS, at 56.72 ± 59.39 ml, than the
176.28 ±203.12 ml lost in the trans-sternal group (p = 0.003) respectively. The mean lengths of postoperative
stays (LOS) were 5.13 ± 1.40 days and 7.68 ± 1.93 days (p < 0.0001), respectively. The median chest tube duration
(days) were 2.10 ± 0.30 and 3.08 ± 0.74 (p<0.001), respectively. The median pain score postoperative was 4.82
±1.48 and 6.67 ± 1.40 (p<0.001), respectively. Complication rates were 2.9% (TS) versus 0.0% (VTS), p = 0.359.
None of operative mortality observed or none of VTS was converted to open procedures. The mean follow-up
periods were 20.54 ± 10.62 (2-38) months following VTS and TS groups. One stage III patient developed pleural
dissemination six months after VTS resection. One stage II patient had recurrence 12 months after VTS. Other
patients survived with no recurrence.
Conclusions: The pathology: most of them are type A (50%), next are type C (21.9%). The early stage is
relative with type A and the late stage is relative with type C. VTS resection of early stage thymoma can be
performed with shorter operative time, less blood loss, shorter LOS, shorter chest tube duration and less
postoperative pain score than to the trans-sternal approach. VTS resection should thus be considered as a viable
option for treatment.
Keywords: Thymoma, pathology, staging, video thoracoscopic surgery-VTS, VATS, Trans-sternal (TS).
chủ đạo trong điều trị u tuyến ức. Điều trị u
ĐẶT VẤN ĐỀ
tuyến ức dựa theo giai đoạn và khả năng mổ
U tuyến ức là tổn thương thường gặp nhất
được hay không(2).
trong các loại u vùng trung thất trước chiếm
Các phẫu thuật đuợc chọn lựa gồm phẫu
khoảng 30% trường hợp ở người lớn, tuổi

thuật mở xương ức (Trans-sternal- TS) và phẫu
trung bình 40 – 60, tỉ lệ nam/nữ là 1:1. Theo
thống kê của Hội Ung Thư Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc
thuật nội soi –VTS (hay nội soi có hỗ trợ -VATS).
u tuyến ức khoảng 15/100.000 dân. Thể mô học
Trong những năm gần đây, việc ứng dụng phẫu
hay gặp nhất là ung thư tuyến ức và u tuyến
thuật nội soi trong điều trị u trung thất ngày
ức type A. Tuy nhiên tất cả các trường hợp u
càng nhiều, tuy nhiên chưa có báo cáo nào về mô
tuyến ức đều có khả năng xâm lấn nên phải
bệnh học, giai đoạn bệnh cũng như so sánh kết
được xem là ác tính(10).
quả phẫu thuật của hai phương pháp này.
U tuyến ức là loại ung thư phát triển chậm.
Mục tiêu nghiên cứu
Khi được điều trị ở giai đoạn sớm bệnh nhân có
Chúng tôi phân tích một nghiên cứu đoàn hệ
nhiều cơ may sống lâu dài. Phẫu thuật, xạ trị,

so
sánh kết quả sớm và trung hạn trong điều
hóa trị đều có vai trò nhất định trong quản lý
trị u tuyến ức.
bệnh. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là biện pháp

Chuyên Đề Ngoại Khoa

41



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đoàn hệ tiền cứu 64 trường hợp u tuyến ức
được phẫu thuật điều trị bằng phẫu thuật nội soi
hay mở xương ức. Thời gian: từ 07/2010 đến
07/2013 tại khoa ngoại Lồng Ngực bệnh viện
Chợ Rẫy. Các bệnh nhân được chẩn đoán u
tuyến ức, được hội chẩn khoa có chỉ định mổ,
việc quyết định mổ nội soi hay mổ mở do hội
chẩn quyết định. Chúng tôi chỉ quan sát thu thập
số liệu, phân tích kết quả, không can thiệp vào
quá trình điều trị của khoa.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Lâm sàng: các bệnh nhân có chẩn đoán u
tuyến ức chưa có hội chứng trung thất trên lâm
sàng, chưa có di căn hạch thượng đòn.
- Trên hình ảnh CT ngực có cản quang: u
tuyến ức trong thùy, có ranh giới rõ với tĩnh
mạch thân tay đầu, chưa có xâm lấn vào các cơ
quan quan trọng trong trung thất như: tim, mạch
máu lớn, khí quản, phế quản, thực quản.
- Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là u tuyến
ức (Thymoma) hay ung thư tuyến ức
(Carcinoma).

Tiêu chuẩn loại trừ

- Bệnh nhược cơ

(VTS): sử dụng 3 lỗ trocart (2 trocart 10mm, 1
trocart 5mm). Hay nội soi hỗ trợ (VATS): sử
dụng 1 trocart 10mm, 1 trocart 5mm, đường mở
hỗ trợ 3-4cm). Khi cần đưa các dụng cụ hỗ trợ
như trong mổ mở vào để thao tác, cầm nắm…
- Chuyển mổ mở: mở rộng vết mổ ngực. Khi
đánh giá mổ nội soi không thực hiện được (do u
quá lớn không có khoảng trống thao tác, hay có
biến chứng không xử trí được qua nội soi như:
tổn thương mạch máu lớn, tổn thương khí phế
quản, thực quản, tim…).
Bóc tách u ra khỏi tổ chức xung quanh, cắt
cầm máu các mạch máu bằng dao đốt siêu âm
hay clip các mạch máu lớn. Tránh tổn thương
thần kinh hoành, các tổ chức xung quanh như
mạch máu lớn, khí phế quản. Nếu có tổn thuơng
phổi do u dính nhiều, sẽ cắt bằng stapler hay
khâu phổi. Trường hợp u lớn cần dụng cụ mổ
mở hỗ trợ sẽ dùng đường mổ hỗ trợ. Sau khi bóc
tách cắt u, lấy u ra ngoài qua lổ trocart 10, hay cắt
nhỏ u cho vào bao bệnh phẩm lấy ra qua lổ
trocart 10. Dẫn lưu màng phổi sau mổ qua lổ
trocart 10.
* Nhóm mổ mở xương ức: Bệnh nhân nằm
ngửa, mê nội khí quản một nòng. Các bước
phẫu thuật cũng tương tự nhóm mổ nội soi.

- U tuyến ức có kèm theo các phẫu thuật

khác như: u phổi, kén khí phổi, tràn dịch màng
tim, tràn dịch màng phổi.

Ghi nhận các yếu tố: thời gian mổ, lượng
máu mất trong mổ, thời gian hậu phẫu, thời gian
lưu ống dẫn lưu màng phổi, các biến chứng,
thang điểm đau sau mổ. Theo dõi sau 6, 12
tháng: ghi nhận các yếu tố về điều trị hỗ trợ (hóa
trị, xạ trị), u tái phát, mổ lại.

Phương pháp tiến hành

KẾT QUẢ

- Nang tuyến ức
- Tăng sản tuyến ức

Các bệnh nhân được khám lâm sàng và cận
lâm sàng để xác định chẩn đoán và đánh giá giai
đoạn bệnh. Chẩn đoán u tuyến ức chủ yếu dựa
trên lâm sàng và CT ngực có cản quang. Các yếu
tố trước mổ cần đánh giá như: tuổi, giới, kích
thước u, giai đoạn.
Bệnh nhân mê nội khí quản 2 nòng, thông
khí một phổi, nằm nghiêng 300 cho mổ nội soi.
* Nhóm mổ nội soi: - Nội soi hoàn toàn

42

Trong 3 năm nghiên cứu trên 209 trường hợp

u trung thất được mổ, trong đó có 64 trường hợp
u tuyến ức, kết quả như sau:
Giới
Nam 28 trường hợp (43,8%), nữ 36 trường
hợp (56,2%).
Tuổi
Trung bình 48,54 ± 13,70, nhỏ nhất 19 tuổi,
lớn nhất 76 tuổi.

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

WHO Nhóm mổ NS Nhóm mổ mở
Tổng
n=29
n=35
n =64
B1
3 (10,3%)
0 (0,0%)
3 (4,7%)
B2
2 (6,9%)
1 (2,9%)
3 (4,7%)
B3
2 (6,9%)
2 (5,7%)

4 (6,2%)
14
(21,9%)
C
4 (13,8%)
10 (28,6%)

Bảng 1. Đặc điểm giải phẫu bệnh u liên quan
tuyến ức
Loại U
U tuyến ức
Carcinôm tuyến ức
U mỡ tuyến ức
Nang tuyến ức
Tổng

Mổ NS
25
4
4
6
39

Mổ mở
25
10
2
0
37


Nghiên cứu Y học

Tổng
50
14
6
6
76

p*

(*): Kiểm chi bình phương.

Bảng 3. Phân loại theo Masaoka

Nhận xét: U liên quan đến tuyến ức chiếm
đa số 76/209 (36,3%) trường hợp u trung thất.
Chúng tôi chỉ chọn các trường hợp u tuyến ức và
carcinôm tuyến ức vào nghiên cứu.

Masaoka Nhóm mổ NS Nhóm mổ mở
n=35
n=29
I
23 (79,3%)
20 (57,1%)

Bảng 2. Phân loại mô học u tuyến ức theo WHO
WHO Nhóm mổ NS Nhóm mổ mở
Tổng

p*
n=29
n=35
n =64
A
15 (51,7%)
17 (48,6%) 32 (50,0%) 0,304
AB
3 (10,3%)
5 (14,3%)
8 (12,5%)

II

3 (10,3%)

8 (22,9%)

III
IV

3 (10,3%)
0 (0%)

6 (17,1%)
1 (2,9%)

Tổng
p*
n =64

43
0,266
(67,2%)
11
(17,2%)
9 (14,1%)
1 (1,6%)

(*): Kiểm chi bình phương.

Bảng 4. Liên quan giữa mô bệnh học và giai đoạn bệnh
WHO
A
AB
B1
B2
B3
C

I
31 (72,1%)
3 (7,0%)
3 (7,0%)
1 (2,3%)
2 (4,7%)
3 (7,0%)

II
0 (0,0%)
5 (45,5%)

0 (0,0%)
1 (9,1%)
0 (0,0%)
5 (45,5%)

III
1 (11,1%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
1 (11,1%)
2 (22,2%)
5 (55,6%)

IV
0 (0,0%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
0 (0,0%)
1 (100,0%)

p*
<0,001

(*): Kiểm chi bình phương.

Bảng 5. Đối chiếu kết quả trong, sau mổ giữa hai nhóm trong u tuyến ức
Đặc điểm
Kích thước u
Kích thước u trung bình (cm)

Các đặc điểm trong mổ
Thời gian mổ trung bình (phút)
Lượng máu mất trung bình trong mổ (ml)
Các đặc điểm sau mổ
Thời gian hậu phẫu trung bình (ngày)
TG lưu ống dẫn lưu trung bình (ngày)
TG tiêm thuốc giảm đau trung bình (ngày)
Điểm đau trung bình

Nhóm mổ NS (n=29)

Nhóm mổ mở (n=35)

p*

7,48 ± 2,32

8,17 ± 2,44

0,256

89,65 ± 43,77
56,72 ± 59,39

116,85 ± 45,16
176,28 ±203,12

0,018
0,003


5,13 ± 1,40
2,10 ± 0,30
3,62 ± 1,63
4,82 ±1,48

7,68 ± 1,93
3,08 ± 0,74
5,68 ± 1,74
6,67 ± 1,40

<0,001
<0,001
<0,001
<0,001

(*): Kiểm t test

Trong nhóm u tuyến ức chúng tôi theo dõi
đến thời điểm kết thúc nghiên cứu tháng 9/2013.
Thời gian theo dõi trung bình 20,54 ± 10,62
tháng, ngắn nhất 2 tháng, dài nhất 38 tháng. Ghi
nhận kết quả như trong bảng 6.
Trong số 27 trường hợp không điều trị hỗ trợ
trong nhóm mổ nội soi, có 2 trường hợp tái phát
(1 trường hợp mổ lại sau đó hóa trị, 1 trường hợp
hóa trị).

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Bảng 6. Đối chiếu kết quả giữa hai nhóm trong u

tuyến ức
Đặc điểm
Kết quả sớm:
Tốt
Xấu
Kết trung hạn:
Tốt
Trung bình
Mất theo dõi

Nhóm mổ NS Nhóm mổ mở p*
(n=29)
(n=35)
29 (100%)
0 (0,0%)

34 (97,1%) 0,359
1 (2,9%)

25 (86,2%)
2 (6,9%)
2 (6,9%)

33 (94,3%) 0,278
0 (0,0%)
2 (5,7%)

(*): Kiểm chi bình phương.

43



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

BÀNLUẬN

giá u tuyến ức là có thể mổ được.

Đặc điểm mô bệnh học trong u tuyến ức

Mục đích của phẫu thuật là cắt bỏ hoàn
toàn các tổn thương bao gồm cắt bỏ hoàn toàn
tuyến ức.

Tất cả các trường hợp u tuyến ức đều có khả
năng xâm lấn nên phải được xem là ác tính. U
tuyến ức là loại u trung thất phát triển chậm, khi
được điều trị ở giai đoạn sớm bệnh nhân có
nhiều cơ may sống lâu dài. Phẫu thuật, xạ trị,
hóa trị đều có vai trò nhất định trong “quản lý
bệnh”. Trong đó phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là
phương pháp chủ đạo trong điều trị u tuyến ức.
Trong khi mổ, phẫu thuật viên đánh giá sự xâm
lấn của u và đánh dấu các vùng nghi ngờ để chỉ
dẫn cho các nhà giải phẫu bệnh kiểm tra về vi
thể. Cắt bỏ toàn bộ tuyến ức mở rộng được
khuyến cáo trong tất cả các trường hợp. Các
bệnh nhân được cắt bỏ toàn bộ khối u có tiên

lượng tốt nhất và phẫu thuật viên nên cố gắng
làm điều này khi có thể(1).
Trong nghiên cứu này, đa số các trường
hợp là u tuyến ức nhóm A (50%), kế đó là các
trường hợp carcinôm tuyến ức (21,9%). Không
có sự khác biệt về loại giải phẫu bệnh giữa hai
nhóm (p> 0,05).
Tiên lượng của u tuyến ức thể tủy hoặc thể
hỗn hợp tốt hơn các thể khác. Tỉ lệ sống thêm
không bệnh trong 10 năm của các loại mô bệnh
học A, AB, B1, B2, B3, C lần lượt là 100%, 100%,
83%, 83%, 35%, 28%. Như vậy hai loại u nhóm
B3 và C có tiên lượng kém nhất(6).
Tác giả Lucchi ở Ý nghiên cứu trong 14 năm
mổ mở 123 trường hợp u tuyến ức cho thấy tỉ lệ
nam nữ khá tương đồng với 60 nam/63 nữ, tuổi
trung bình là 56. Phân loại mô học theo tổ chức y
tế thế giới là: nhóm A 18%, nhóm AB 14%, nhóm
B1 27%, nhóm B2 18%, nhóm B3 23%. Phân giai
đoạn theo Masaoka là: giai đoại I 8%, IIA 27%,
IIB 41%, III 11%, IVA 12%, IVB 1%(6).
Liên quan giữa u tuyến ức với kết quả giữa
hai nhóm
Trong phẫu thuật u tuyến ức, có một số
nguyên tắc(1):
Tránh thực hiện sinh thiết nếu như việc đánh

44

Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn có thể đòi hỏi

việc cắt bỏ các cấu trúc lân cậnbao gồm màng
ngoài tim, các mạch máu lớn.
Trong quá trình cắt bỏ tuyến ức, nên kiểm
tra bề mặt màng phổi để tìm các di căn màng
phổi.
Đối chiếu một số đặc điểm về giai đoạn giữa 2
nhóm
Có nhiều cách phân loại u tuyến ức như
bảng phân loại Masaoka, bảng phân loại TNM
và giai đoạn, bảng phân loại của tổ chức y tế thế
giới năm 1999. Nhưng cho đến nay hệ thống xếp
giai đoạn của Masaoka cho u tuyến ức vẫn có ý
nghĩa trên lâm sàng về điều trị và tiên lượng.
Đánh giá sống thêm 5 năm toàn bộ cho các giai
đoạn I, II, III và IV lần lượt như sau: 90%, 90%,
60%, <25%. Và 10 năm cho các giai đoạn I, II, III
lần lượt là: 80%, 80%, 30%(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chủ yếu
bệnh nhân ở giai đoạn I có 43/64 trường hợp
(67,18%) và ở giai đoạn II có 11/64 trường hợp
(17,18%). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Tương ứng với nhóm giải phẫu bệnh nhóm A
chiếm 50%. Giai đoạn I u nhóm A chiếm đa số
(72,1%), giai đoạn II u nhóm AB và C chiếm đa
số, giai đoạn III và giai đoạn IV u nhóm C chiếm
đa số. U tuyến ức ở giai đoạn sớm tế bào nhóm
A chiếm đa số, ở giai đoạn muộn tế bào nhóm C
chiếm đa số (p < 0,001).
Chúng tôi đối chiếu với các nghiên cứu khác
của tác giả Chung JW, tác giả Yu-Jen Cheng,

cũng cho thấy rằng chủ yếu bệnh nhân ở giai
đoạn I và II, không có sự khác biệt giữa nhóm
mổ nội soi và nhóm mổ mở(3,4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kích thước
u trung bình giữa hai nhóm không có khác biệt.
Chúng tôi cũng mổ nội soi được cho các u có
kích thước lớn hơn so với nghiên cứu của tác giả
Chung JW(4).

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Bảng 7. Đối chiếu kết quả phân loại Masaoka với tác
giả khác
Masaoka

n
70
48
15
5
2
22

Nhóm
mổ NS
25
18
6

0
1
12

Nhóm
mổ mở
45
30
9
5
1
10

Chung JW (4)
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn III
Giai đoạn IV
Yu-Jen Cheng (3)
GĐ II
H. Q. Khánh
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn III
Giai đoạn IV

64
43
11
9

1

29
23
3
3
0

35
20
8
6
1

p
>0,05

>0,05
0,266

Bảng 8. Đối chiếu kích thước u tuyến ức với tác giả
khác
Tác giả
(4)
Chung JW
H. Q. Khánh

Nhóm mổ Nội soi Nhóm mổ mở
P
4,4 ± 1,8 × 3,2 ± 6,3 ± 2,1 × 4,6 <0,001

1,34
± 1,6
7,48 ± 2,32
8,17 ± 2,44
0,256

Trong nghiên cứu của chúng tôi, bảng so
sánh các yếu tố trong, sau mổ giữa 2 nhóm trong
mổ u tuyến ức. Cho thấy, thời gian mổ trung
bình, lượng máu mất trong mổ, thời gian hậu
phẫu trung bình, thời gian lưu ống dẫn lưu
trung bình, đau sau mổ ở nhóm mổ nội soi tốt
hơn nhóm mổ mở(4).
Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy
thời gian mổ trung bình giữa hai nhóm mổ nội
soi 117 ± 48 phút và mổ mở 70,0 ± 23,6 phút
không khác biệt, chỉ có thời gian lưu ống dẫn lưu
mổ nội soi 1,84 ± 0,94 ngày và mổ mở 3,62 ± 2,04
ngày có khác biệt (p<0,001); thời gian nằm viện
trung bình mổ nội soi 3,4 ± 1,3 ngày và mổ mở
6,4 ± 2,5 ngày có khác biệt (p < 0,001)(4).
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng,
lượng máu mất trung bình trong nhóm mổ nội
soi 119,2 ± 70,6 ml ít hơn so với nhóm mổ mở
238,5 ± 110,2 ml khác biệt có ý nghĩa (p=0,006).
Thời gian mổ nội soi 193,3 ± 79,6 phút tương tự
với mổ mở 207,5 ± 85,8 phút không khác biệt
(p=0,692). Thời gian lưu dẫn lưu khoang màng
phổi trung bình nhóm mổ nội soi 4,2 ± 2,1 ngày
và nhóm mổ mở 4,6 ± 2,1 ngày không khác biệt

(p=0,702). Thời gian hậu phẫu trung bình nhóm

Chuyên Đề Ngoại Khoa

Nghiên cứu Y học

mổ nội soi 6,8 ± 2,3 ngày và nhóm mổ mở 8,9 ±
4,4 ngày không khác biệt (p=0,157)(3).
Odaka M nghiên cứu so sánh mổ nội soi cắt
u tuyến ức với mổ mở cho 40 bệnh nhân u tuyến
ức không nhược cơ ở giai đoạn I và giai đoạn II
(với 22 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi và 18
bệnh nhân trong mổ mở). Tác giả ghi nhận:
lượng máu mất trong mổ giữa hai nhóm không
khác biệt với 100,6 ml ở nhóm mổ nội soi và
208,1 ml ở nhóm mổ mở (p=0,0513). Tuy nhiên
thời gian nằm viện trung bình ở nhóm mổ nội
soi là 4,6 ngày ít hơn so với nhóm mổ mở là 11,2
ngày, khác biệt có ý nghĩa (p<0,0001). Không có
biến chứng quan trọng nào được ghi nhận trong
mổ cũng như sau mổ ở cả hai nhóm(7).
Qua nghiên cứu của các tác giả trên ghi
nhận: trong mổ nội soi thời gian mổ, lượng máu
mất có khác nhau tùy tác giả nhưng thời gian
hậu phẫu ít hơn so với nhóm mổ mở.
Đối chiếu kết quả sớm giữa hai nhóm
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả sớm
ghi nhận tốt 100% các trường hợp ở nhóm mổ
nội soi, còn ở nhóm mổ mở tốt 97,1%, xấu 2,9%.
Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa (p=0,359).

Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy
có 3 trường hợp biến chứng ở nhóm mổ mở,
không có trường hợp nào biến chứng ở nhóm
mổ nội soi không khác biệt (p > 0,05)(4).
Tagawa Tsutomu nghiên cứu so sánh kết
quả sớm giữa mổ nội soi và mổ mở điều trị u
tuyến ức giai đoạn sớm (giai đoạn I, II) với kích
thước u <5cm. Tác giả ghi nhận, mổ nội soi tốt
hơn mổ mở về thời gian mổ, lượng máu mất(9).
Các nghiên cứu đều ghi nhận kết quả sớm ở
nhóm mổ nội soi tốt hơn, tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa.
Điều trị hỗ trợ sau mổ
Điều trị u tuyến ức dựa theo giai đoạn và
khả năng mổ được hay không(1).
Giai đoạn I: Được điều trị với mục đích triệt
căn bằng phẫu thuật đơn thuần, điều trị hỗ trợ
bằng xạ trị, hóa trị là không cần thiết. Theo dõi

45


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

hàng năm bằng chụp cắt lớp lồng ngực.
Giai đoạn II: Điều trị triệt căn bằng phối hợp
các phương pháp. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ
hoàn toàn khối u, đánh giá mô bệnh học sẽ quyết

định thái độ điều trị tiếp:
Nếu diện cắt không còn tổn thương vi thể:
Xạ trị tại chỗ, không hóa trị.
Nếu diện cắt có tổn thương vi thể: Xạ trị hậu
phẫu cho trường hợp u tuyến ức. Xạ trị và hóa trị
bổ trợ nếu là ung thư biểu mô tuyến ức.
Nếu diện cắt còn tổn thương đại thể: Xạ trị
và có thể hóa trị.
Giai đoạn III: Bệnh nhân được điều trị theo
từng tình huống lâm sàng. Các bệnh nhân còn
mổ được có thể đưa vào phẫu thuật rồi xạ trị và
hóa trị tương tự gia đoạn II. Các bệnh nhân
không mổ được có thể điều trị bằng hóa trị bổ
trợ trước sau đó đánh giá lại. Các trường hợp tái
phát tại chỗ: nên xem xét khả năng cắt bỏ trước
khi hóa trị, xạ trị.
Giai đoạn IV: Các trường hợp di căn có thể
xem xét hóa trị hoặc xạ trị.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều trị hỗ
trợ cho các bệnh nhân giai đoạn III, giai đoạn IV
còn giai đoạn I và giai đoạn II sau mổ cắt trọn u
chỉ theo dõi. Ở nhóm mổ nội soi: không điều trị
27 trường hợp (93,1%), có 3 trường hợp bệnh
nhân giai đoạn III sau mổ có chỉ định xạ trị, tuy
nhiên chỉ có 2 trường hợp (6,9%) tham gia điều
trị xạ trị. Tuy nhiên trong nhóm không điều trị,
có 2 trường hợp tái phát (1 trường hợp bệnh
nhân giai đoạn II được mổ lại và hóa trị, 1
trường hợp bệnh nhân giai đoạn III lúc đầu
không tham gia xạ trị, khi tái phát phải hóa trị).

Còn ở nhóm mổ mở: không điều trị 23 trường
hợp (65,7%), có điều trị xạ trị 11 trường hợp
(31,4%), hóa trị 1 trường hợp (2,8%), không có
trường hợp nào mổ lại do u tái phát. Khác biệt
giữa hai nhóm không có ý nghĩa
Nghiên cứu của tác giả Chung JW, cho thấy
ở nhóm mổ nội soi sau mổ có 8 trường hợp
(32%) xạ trị (1 trường hợp ở giai đoạn I, 6 trường
hợp ở giai đoạn II, 1 trường hợp ở giai đoạn IV),

46

không có trường hợp nào hóa trị hay mổ lại do u
tái phát, còn trong nhóm mổ mở sau mổ có 20
trường hợp (44,4%) xạ trị (7 trường hợp ở giai
đoạn I, 7 trường hợp ở giai đoạn II, 5 trường hợp
ở giai đoạn III, 1 trường hợp ở giai đoạn IV), 2
trường hợp (4,4%) hóa trị, không có trường hợp
nào phải mổ do u tái phát. Khác biệt giữa hai
nhóm không có ý nghĩa (p>0,05)(4).
Tác giả Chung JW, cho rằng phẫu thuật cắt
trọn u là yếu tố cơ bản trong phẫu thuật u tuyến
ức. Tuy nhiên trong nghiên cứu của ông cho
thấy việc áp dụng xạ trị sau mổ cho cả những
trường hợp ở giai đoạn sớm: giai đoạn I có 8
trường hợp (1 trường hợp ở nhóm mổ nội soi, 7
trường hợp ở nhóm mổ mở), ở giai đoạn II có 13
trường hợp (6 trường hợp ở nhóm mổ nội soi, 7
trường hợp ở nhóm mổ mở). Ngoài ra ở giai
đoạn III có 5 trường hợp, giai đoạn IV có 2

trường hợp cần xạ trị sau mổ. Có 2 trường hợp
điều trị hóa trị sau mổ(4).
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng điều
trị 22 trường hợp u tuyến ức giai đoạn II (12
trường hợp mổ nội soi, 10 trường hợp mổ mở).
Tác giả không điều trị xạ hay hóa sau mổ cho các
trường hợp này(3).
Như vậy trong điều trị u tuyến ức việc sử
dụng điều trị hỗ trợ ở nhóm mổ nội soi cũng
tương tự như nhóm mổ mở.
Đối chiếu kết quả theo dõi
Trong nghiên cứu về u tuyến ức, chúng tôi
theo dõi đến thời điểm kết thúc nghiên cứu
tháng 9/2013. Thời gian theo dõi trung bình 20,54
± 10,62 tháng, ngắn nhất 2 tháng, dài nhất 38
tháng. Chúng tôi ghi nhận kết quả: sau 3 tháng
kết quả tốt ở cả 2 nhóm, sau 6 tháng có 1 trường
hợp tái phát ở nhóm mổ nội soi còn ở nhóm mổ
mở không có tái phát, sau 12 tháng có 1 trường
hợp tái phát ở nhóm mổ nội soi, không có trường
hợp nào tái phát ở nhóm mổ mở. Tuy nhiên khác
biệt không có ý nghĩa (p=0,539 và p=0,540). Phân
tích 2 trường hợp tái phát này: 1 trường hợp u ở
giai đoạn III, sau mổ bệnh nhân không tham gia
điều trị xạ trị, sau 6 tháng u tái phát sau đó bệnh

Chuyên Đề Ngoại Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018


Nghiên cứu Y học

nhân được hóa trị và có kết quả tốt. Còn 1
trường hợp u ở giai đoạn II, sau mổ cắt trọn u
theo dõi sau 12 tháng u tái phát được mổ lại và
hóa trị sau đó, kết quả tốt.

giai đoạn I, II từ năm 1998 đến 2011. Tác giả ghi
nhận kết quả trung hạn về ung thư học trong
giai đoạn sớm của u tuyến ức ở hai nhóm mổ mở
và mổ nội soi là không khác biệt(8).

Qua đó cho thấy, đối với nhóm mổ mở các u
tuyến ức chưa ghi nhận tái phát ngay cả ở giai
đoạn III hay giai đoạn IV, còn trong nhóm mổ
nội soi có 2 trường hợp tái phát. Điều này có
khác biệt, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Cần
có thời gian theo dõi lâu hơn và số lượng bệnh
nhân nhiều hơn.

Tác giả Ye Bo, nghiên cứu so sánh giữa mổ
mở và mổ nội soi điều trị u tuyến ức giai đoạn
sớm trong thời gian 2008 đến 2012 trên 125 bệnh
nhân. Tác giả ghi nhận kết quả sớm ở nhóm mổ
nội soi tốt hơn, tuy nhiên kết quả dài hạn ở hai
nhóm không có khác biệt(11).

Tác giả Chung JW, nghiên cứu 70 trường
hợp u tuyến ức (25 trường hợp mổ nội soi, 45

trường hợp mổ mở) không ghi nhận trường hợp
nào tái phát trong thời gian theo dõi từ 5,5 đến
78,6 tháng (trung bình 51,7 ± 15,8 tháng). Tỉ lệ
không tái phát ước tính sau 2 năm, 5 năm, 7 năm
ở nhóm mổ nội soi là 100%, 96% và 96%. Ở
nhóm mổ mở tương ứng là 98%, 95% và 95%,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ sống
còn ước tính sau 2 năm, 5 năm, 7 năm ở nhóm
mổ nội soi là 100%, 100% và 100% còn ở nhóm
mổ mở là 98%, 87% và 77%, khác biệt có ý nghĩa
(p = 0,033)(4).
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng theo
dõi trung bình 33,9 ± 19,7 tháng (từ 5,2 đến 63,5
tháng) điều trị 22 trường hợp u tuyến ức giai
đoạn II, không điều trị xạ, hóa bổ trợ. Ghi nhận
không có trường hợp nào tái phát. Thời gian
sống còn trung bình ở nhóm mổ nội soi và nhóm
mổ mở là 32,3 ± 22,0 tháng và 35,8 ± 17,5 tháng,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,686)(3).
Nghiên cứu so sánh của tác giả Liu TJ, trên
120 bệnh nhân u tuyến ức giai đoạn sớm (giai
đoạn I và II theo Masaoka) với 76 bệnh nhân mổ
nội soi, 44 bệnh nhân mổ mở. Tác giả ghi nhận
với thời gian theo dõi trung bình 60 tháng, nhóm
mổ nội soi cho kết quả tốt hơn về thời gian nằm
viện, thời gian lưu ống dẫn lưu màng phổi, còn
kết quả theo dõi về ung thư học giữa hai nhóm
không có sự khác biệt(5).
Sakamaki Yasushi, nghiên cứu so sánh mổ
mở và mổ nội soi trên 82 bệnh nhân u tuyến ức


Chuyên Đề Ngoại Khoa

KẾT LUẬN
Về đặc điểm mô bệnh học trong u tuyến ức
chủ yếu là nhóm A (50%) và nhóm C (21,9%). Về
liên quan giữa mô bệnh học với giai đoạn bệnh:
ở giai đoạn sớm loại mô học thường là nhóm A,
còn giai đoạn muộn loại mô học thường là nhóm
C. Về kết quả phẫu thuật nội soi u tuyến ức: đối
với u tuyến ức phẫu thuật cắt trọn u là chủ đạo
trong điều trị. Đối với các trường hợp u tuyến ức
giai đoạn sớm là giai đoạn I và giai đoạn II thì
phẫu thuật nội soi cắt u cho thấy có nhiều lợi
điểm trong mổ, sau mổ hơn so với mổ mở, tuy
nhiên về kết quả sớm và kết quả trung hạn thì
không có sự khác biệt giữa phẫu thuật nội soi và
mổ mở.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.


6.

Ahmad U, Detterbeck CF (2014). Diagnostic Evaluation of
Anterior Mediastinal Masses and Clinical and Surgical Approach to
Thymic Tumors via Sternotomy, Mastery of Cardiothoracic
Surgery. Lippincott Williams & Wilkin, Philadelphia, USA,
pp. 124-133.
Ahmad U, Detterbeck CF (2014). Diagnostic Evaluation of
Anterior Mediastinal Masses and Clinical and Surgical Approach to
Thymic Tumors via Sternotomy, Mastery of Cardiothoracic
Surgery. Lippincott Williams & Wilkin, Philadelphia, USA,
pp. 124-133.
Cheng YJ, Kao EL, Chou SH (2005). Videothoracoscopic
Resection of Stage II Thymoma: Prospective Comparison of
the Results between Thoracoscopy and Open Methods..
American College of Chest Physicians, 128, pp. 3010-3012.
Chung JW, Kim HR, Chun MS, Kim YH, Park SI, Kim SR, Lee
DH (2012). Long-term Results of Thoracoscopic Thymectomy
for Thymoma without Myasthenia Gravis. The Journal of
International Medical Research, 40, pp. 1973-1981.
Liu TJ, Lin MW, Hsieh MS, et al (2014). Video-assisted
thoracoscopic surgical thymectomy to treat early thymoma: a
comparison with the conventional transsternal approach. Ann
Surg Oncol, 21, (1). pp. 322-8.
Lucchi M, Ricciardi R, Melfi F, Duranti L, Basolo F, Palmiero

47


Nghiên cứu Y học


7.

8.

9.

48

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018

G, Murri L,Mussi A (2009). Association of thymoma and
myasthenia gravis: oncological and neurological results of the
surgical treatment. European journal of cardio-thoracic surgery :
official journal of the European Association for Cardio-thoracic
Surgery, 35, (5). pp. 812-6; discussion 816.
Odaka M, Akiba T, Hiramatsu M, Matsudaira H, et al (2010).
Apr). Unilateral Thoracoscopic Subtotal Thymectomy for The
Treatment of Stage I and II Thymoma. Eur J Cardiothorac Surg,
37, (4). pp. 824-826.
Sakamaki Y, Oda T, Kanazawa G, Shimokawa T, Kido T,
Shiono H (2014). Intermediate-term oncologic outcomes after
video-assisted thoracoscopic thymectomy for early-stage
thymoma. J Thorac Cardiovasc Surg.
Tagawa T, Yamasaki N, Tsuchiya T, Miyazaki T, Morino S,
Akamine S, Nagayasu T (2014). Thoracoscopic versus
transsternal resection for early stage thymoma: long-term
outcomes. Surg Today, pp. 77-83.

10.


11.

Theodore PR, Jablons D (2010). Thoracic Wall, Pleura,
Mediastinum, and Lung, Current Diagnosis and Treatment
Surgery. Mc Graw Hill Medical, USA, pp. 305-358.
Ye B, Tantai JC, Ge X, et al (2013). Surgical techniques for
early-stage
thymoma:
Video-assisted
thoracoscopic
thymectomy versus transsternal thymectomy. J Thorac
Cardiovasc Surg, pp. 126-130.

Ngày nhận toàn văn:

27/11/2017

Ngày nhận bài nhận xét:

28/12/2017

Ngày bài báo được đăng:

15/03/2018

Chuyên Đề Ngoại Khoa




×