Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Pháp luật về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.99 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ BÌNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÌNH SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 603801

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2012
1


Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS KH Đào Trí Úc
Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 200….


Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tƣ liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tƣ liệu – Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội
2


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
CHƢƠNG I: QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG
VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI ........................................................6

1.1. Khái lược quyền con người và vai trò của pháp luật trong việc bảo
đảm quyền con người ...................................................................................6
1.1.1 Khái niệm quyền con người ................................................................6
1.1.2 Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người ................9
1.2. Đặc trưng quyền con người của bị can, bị cáo trong tư pháp hình sự .14
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG TƢ PHÁP HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ...................19

2.1. Quy định của Hiến Pháp về bảo đảm quyền con người đối với người
phạm tội .....................................................................................................19
2.2. Bảo đảm quyền con người đối với người phạm tội thông qua các quy
định về tội phạm và hình phạt ....................................................................22
2.2.1. Quy định trách nhiệm hình sự ..........................................................22
2.2.2. Quy định phân loại tội phạm ............................................................27
2.2.3. Quy định hình phạt, mục đích hình phạt, áp dụng hình phạt ...........38
2.3 Bảo đảm quyền con người đối với bị can, bị cáo thông qua các quy

định của tố tụng hình sự .............................................................................45
2.3.1. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử) ...............................45
2.3.2 Một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng áp dụng
các quy định này ........................................................................................51
3


CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY.. 59

3.1. Quan điểm chung về phương hướng hoàn thiện .................................59
3.2. Bảo đảm thực hiện các quy định trong các Công ước Quốc tế mà Việt
Nam tham gia, ký kết về quyền con người đối với các bị can, bị cáo ........60
3.3. Các bảo đảm trong xét xử của Toà án .................................................60
3.4. Nội dung hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm quyền con người .................................................................................61
3.4.1 Về pháp luật hình sự .........................................................................61
3.4.2 Về pháp luật tố tụng hình sự .............................................................70
KẾT LUẬN .................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................89

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và
cũng luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người được
sinh ra và đồng thời cũng phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho
nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là

chế định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia. Quyền con
người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc gia trên
thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ quyền con người cũng là một nhân
tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia
đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên
các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa
của quốc gia để bảo đảm các quyền con người được thực hiện một cách tốt
nhất và đầy đủ nhất. Hệ thống pháp luật này phải phù hợp với các nguyên
tắc, nội dung cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên
Hiệp Quốc.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời, quyền con người được chính thức tuyên bố
và ghi nhận bằng pháp. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, với
những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang, xét cho cùng cũng chỉ là vì độc
lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội mà cốt lõi của nó là bảo đảm thực hiện
quyền con người. Phản ánh các quá trình phát triển đó, từ Hiến pháp 1946,
1959, 1980 đến Hiến pháp 1992 đều thể chế hoá quyền con người, từng
bước mở rộng quyền con người. Trên cơ sở đó, hệ thống chính sách pháp
luật bảo đảm quyền con người ngày càng được củng cố hoàn thiện.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà
nước ta đã chuyển hoá nhiều nội dung về quyền con người trong các tuyên
bố, công ước quốc tế mà Nhà nước ta tham gia phê chuẩn, ký kết. Bên
cạnh các hoạt động "lập pháp" đó, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách,
biện pháp và hoạt động thực tế bảo đảm thực hiện quyền con người. Các
cơ quan bảo vệ pháp luật không ngừng được củng cố, phát triển, xã hội
ngày càng công bằng, văn minh, tạo cho mọi người có môi trường tự do,
1


bình đẳng để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con

người khỏi các hành vi xâm hại.
Song, quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo
đảm thực hiện nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người
mà còn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành,
mọi người tham gia. Trong đó, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Bởi vì, một trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử của Toà án chính là
hoạt động trực tiếp bảo vệ quyền con người đối với bên bị hại và cả bên bị
cáo - là những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm
hại. Nhiều năm qua, theo quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham
gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Song, trong xét xử vẫn còn oan sai; quyền con người của bị cáo có lúc có
nơi chưa được tôn trọng còn bị vi phạm, chưa có biện pháp bảo đảm hữu
hiệu. Điều đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau,
song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động đáng kể.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng
thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp
bách - phải hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con
người nhất là pháp luật trong lĩnh vực xét xử hình sự của Toà án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con người được các tổ chức Quốc tế, các nước trên thế giới
nói chung, Việt Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà
khoa học về quyền con người, quyền công dân. Nổi bật trong các công
trình này là hai tập chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân" của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Đi sâu
nghiên cứu tìm hiểu để đề ra các phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm
"xây dựng và hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người trong
điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay" là luận án PTS của thầy giáo
Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn cuốn sách "Một số vấn đề
về quyền dân sự và chính trị", xuất bản năm 1997. PGS. TS Trần Ngọc
2


Đường có một số bài viết về quyền con người, trong đó có bài "Hành vi
hợp pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
công dân" in trong tập 1 chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân".
Tạp chí cộng sản tháng 5-1993 có đăng bài "Quyền con người và quyền
công dân" của PGS. TS (hiện nay là Giáo sư, Tiến sỹ) Hoàng Văn Hảo và
Chu Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông viết bài "Hoàn thiện
pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta
hiện nay" trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12-1998. Tác giả
Nguyễn Văn Hiện có bài "Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân và tổ chức" - Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 8-1999.
Các công trình khoa học, bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu
nghiên cứu, phân tích, luận giải một số nội dung về quyền con người, các
biện pháp bảo đảm quyền con người, vấn đề bảo vệ quyền con người...
Tiến sĩ Phạm Hồng Hải có biên soạn cuốn sách Đảm bảo quyền bào
chữa của người bị buộc tội, xuất bản năm 1999 và bài Mấy ý kiến về bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ở nước ta (tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 3 năm 1998) nêu lên một số vấn đề về vi phạm quyền con
người từ phía cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo và từ phía
các phần tử xấu đối với những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống
quy định của pháp luật nước ta hiện nay về bảo đảm quyền con người
trong tư pháp hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
* Đối tƣợng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật
bảo đảm thực hiện quyền con người trong tư pháp hình sự.

* Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu về pháp luật bảo đảm thực hiện
quyền con người đối với bị cáo bị truy tố trước Toà mà không đi sâu phân
tích về pháp luật bảo đảm quyền con người đối với các đối tượng khác
trong các vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân, gia đình ... cũng như các bên
khác tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
* Mục đích: Đưa ra các nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm
quyền con người trong xét xử hình sự.
3


* Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con người và nghiên cứu những đặc
trưng của quyền con người trong xét xử hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử hình sự.
- Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân
tích - tổng hợp, khảo sát, so sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người,
đặc biệt là quyền con người trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá
thực trạng và đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong
xét xử hình sự.

7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương, 6 tiết.

4


CHƢƠNG I
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI
1.1. Khái lƣợc quyền con ngƣời và vai trò của pháp luật trong việc
đảm bảo quyền con ngƣời
1.1.1 Khái niệm quyền con ngƣời
Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng
định, nhưng những ý tưởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia
giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khi mà trong các Nhà nước
chiếm hữu nô lệ, con người bị coi là những "công cụ biết nói" thì những
tiếng kêu cứu đòi quyền được sống, được tự do, được quyền làm người ...
cũng xuất hiện.
Quyền con người, ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là
"đặc quyền". Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô
bạo trong các Nhà nước cổ đại thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng
lớp bị trị nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai đó. Do có những cuộc
đấu tranh "làm cho công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh không làm hại
kẻ yếu" mà đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù còn nhiều hạn chế:
là công cụ phục vụ mục đích thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên được tư
tưởng về bình đẳng, dân chủ, pháp luật hoá tư tưởng về quyền con người.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng
thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học
nghiên cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con

người. Song, trước hết, quyền con người được hiểu là những đặc quyền mà
con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự
nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển.
Mặc dù, những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công
nhận thì chúng không thể được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là
quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể là bằng pháp luật. Các đặc quyền
được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức trở thành quyền
của con người.
5


Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con
người được pháp luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các
quan hệ của mình với các cá nhân khác và với chính quyền.
Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được
xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con
người mang hai đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền
con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung xã hội, bị chế
ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nước"
[32,57] và được "mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội
loài người" [49,21].
Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá
nhân con người, nhưng quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó
với các con người khác trong tập thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền
con người trở nên vô nghĩa khi con người tách khỏi tập thể, cộng đồng và
ở trong tập thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người không thể
tách rời nghĩa vụ của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội"
[19,11].
Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân"
[48,276]. Nhân dân là những con người cụ thể có những quyền thiêng
liêng, không ai có thể xâm phạm được.
1.1.2 Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo quyền con ngƣời
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người
có tính "bẩm sinh" nhưng nó không thể chính thức tồn tại nếu không có
pháp luật. Trước hết, vai trò quan trọng của pháp luật đối với quyền con
người là nó ghi nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con người.
Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận.
Thông qua pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm
quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt
buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền
con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng liêng, không
6


thể xâm hại một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục,
thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Quyền con người được
pháp luật xác lập mang tính tối cao, ổn định không dễ dàng thay đổi. Điều
50 Hiến pháp 1992 khẳng định: quyền con người được quy định trong
Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, nó buộc
mọi người phải tôn trọng, phục tùng.
Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trên phương diện
pháp luật, quyền con người ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ
các ý tưởng về quyền được sống như một con người nhằm thoát khỏi
"công cụ biết nói", tư tưởng về quyền con người dần phát triển lên thành
những học thuyết, thành các bộ luật riêng lẻ và trở thành tiếng nói chung
của cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt màu da, địa vị, thành phần.
Nhờ có pháp luật mà quyền con người trở thành giá trị chung của nhân

loại, được loài người cùng nhau tôn trọng, bảo vệ. "Chỉ thông qua pháp
luật quyền con người mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động chung của
toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội" [49,47].
1.2. Đặc trƣng quyền con ngƣời của bị can, bị cáo trong tƣ pháp hình
sự.
Quyền con người không những được pháp luật ghi nhận mà còn được
pháp luật bảo vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con người nào
cũng phải được xử lý theo pháp luật. Song, tất nhiên quyền con người còn
có quan hệ chặt chẽ với chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nước, của các
tổ chức, trật tự xã hội... là những khách thể được pháp luật nói chung và
luật hình sự nói riêng bảo vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại do
bất cứ ai thì người đó phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con
người của bị cáo chỉ có thể được coi là bảo đảm khi xét trong một tổng thể
các mối quan hệ khác liên quan đến tội phạm do họ thực hiện. Như vậy,
việc xử lý đối với họ buộc phải tuân thủ những trình tự, thủ tục được quy
định chặt chẽ trong pháp luật, vì dẫu sao, quyền con người của họ vẫn phải
được tôn trọng.
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 ở ngay chương I, Điều 11 với tên
gọi “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” quy
định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
7


người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ
bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của
họ theo quy định của Bộ luật này”. Bộ luật tố tụng hình sự có định nghĩa
“bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” (theo khoản 1, Điều 49) và “bị
cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (khoản 1, Điều 50).
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN

CON NGƢỜI TRONG TƢ PHÁP HÌNH SỰ
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Để bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo, pháp luật đưa ra một
loạt các quy định buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ.
Pháp luật bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là tổng thể các
qui phạm pháp luật qui định về tội phạm, hình phạt và xét xử hình sự cùng
các quy định khác nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo và các bên có liên quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự phải
được thể hiện trên tất cả các phương diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc
qui định tội phạm, hình phạt mà còn qui định việc xét xử các vụ án hình sự.
Có nghĩa là nó phải được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập pháp và áp dụng
pháp luật, ở cả trong luật nội dung và luật hình thức. Ở đó, quyền, nghĩa vụ
của các bên tiến hành và tham gia tố tụng được khẳng định, sự thật của vụ án
và trách nhiệm hình sự phải được xác định một cách khách quan, chính xác
nhất. Ở đó, quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại phải được khôi phục lại, người
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm do họ gây ra.
2.1. Quy định của Hiến Pháp về bảo đảm quyền con ngƣời đối với ngƣời
phạm tội
Ngày 24/9/1982, Việt Nam gia nhập hai Công ước quốc tế về quyền con
người, đó là: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và, Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Đây là một quyết tâm
lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Gia nhập hai công ước quốc tế
8


này, “Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị cao quý của các quyền và
tự do cơ bản của con người”1. Đồng thời, chúng ta từng bước nội luật hóa
các quy phạm pháp luật của hai Công ước vào hệ thống pháp luật của

mình. Sau Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 ra đời và khẳng định: “Ở nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (Điều 50). Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử nền lập hiến Việt Nam, cụm từ “quyền con người” được
chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Từ quy định này của đạo luật gốc,
nhiều bộ luật, luật lần lượt ra đời điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng
và ngày càng củng cố, mở rộng quyền con người, quyền công dân. Đây là
một bước phát triển tất yếu, bởi vì quyền con người, quyền công dân sẽ
không tồn tại trong thực tế nếu nó không được điều chỉnh bởi pháp luật.
Hơn thế, Hiến pháp Việt Nam nhấn mạnh rằng, quyền con người, quyền
công dân được các văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận cũng có
nghĩa là các quyền đó được bảo đảm bởi sức mạnh tối cao của pháp luật
với các thiết chế của nó.
Một nội dung vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân nhưng chưa được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước
đây, thì nay, Hiến pháp 1992, quy định:
“ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người
khác phải bị xử lý nghiêm minh” (Điều72).
2.2. Bảo đảm quyền con ngƣời đối với ngƣời phạm tội thông qua các
quy định về tội phạm và hình phạt
2.2.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phương châm " biết để không thực hiện" và "phòng tội hơn trị
tội", cho nên pháp luật hình sự, một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành
1


Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người. Các văn kiện quốc tế về quyền
con người. Nxb. Chính trị quốc gia. H, 1998, tr. 7.

9


vi nguy hiểm cho xã hội bị cấm, mặt khác đưa ra các quy định buộc mọi
người phải tuyệt đối tuân thủ. Theo nghĩa đó, Điều 2 Bộ luật hình sự quy
định" chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự". Đây là cơ sở thống nhất, duy nhất của
trách nhiệm hình sự. Nó khẳng định "chủ thể của một hành vi tội phạm chỉ
có thể là một thể nhân cụ thể - tức là một cá nhân chứ không phải là một
tập thể hay một kiểu cộng đồng nào" [67,4]. Nếu ai đó (bị cáo) đã phải
chịu trách nhiệm hình sự thì ít nhiều, quyền con người, quyền công dân
của họ cũng phải bị hạn chế. Cho nên, ở đây pháp luật quy định là: trách
nhiệm hình sự chỉ được đưa ra áp dụng đối với người phạm tội, tức là khi
mà người đó thực hiện hành vi vi phạm điều mà pháp luật hình sự cấm,
hay nói cách khác một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những
hậu quả do hành vi của chính người đó gây ra. Ngoài việc vi phạm điều
cấm của pháp luật hình sự - phạm tội ra, thì bất luận trong trường hợp nào,
trách nhiệm hình sự cũng không thể được đưa ra áp dụng. Không những
thế, chỉ có những dấu hiệu của hành vi được mô tả trong luật mới là cơ sở
cho việc giải quyết trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự thể hiện mối
quan hệ giữa Nhà nước với công dân, là sự phản ứng của Nhà nước đối với
hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định, tức là đối
với tội phạm. Hành vi có thể được coi là tội phạm nếu có các yếu tố của
một cấu thành tội phạm và được luật hình sự quy định.
2.2.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự không phải là để trừng
phạt mà các quy phạm này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của

cá nhân, một mặt chúng kích thích các hoạt động hợp pháp, khuyến khích
các hành vi tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác động kìm chế, đe doạ
các động cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân" [21,204].
Do vậy, việc quy định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là
quan trọng, nhưng quan trọng hơn đối với việc quy định tội phạm là xác
định rõ ràng giới hạn giữa hành vi bị coi là tội phạm với các hành vi vi
phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu không xác định cụ thể giới hạn đó thì có
hành vi tuy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự lại bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc ngược lại, có trường hợp phạm tội lại coi là vi
10


phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm nguyên tắc công bằng - là nguyên
tắc quan trọng được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định được rằng, tội phạm xuất phát từ những
hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì
theo Mác "Chỉ theo mức độ tôi tự biểu hiện ra, theo mức độ tôi bước vào
lĩnh vực thực tế, thì tôi mới bước vào phạm vi nằm dưới quyền lực của nhà
lập pháp. Ngoài những hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối
với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Những hành vi
của tôi đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì
hành vi là cái duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực, và
như vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền lực của pháp luật hiện hành" [42,
513]. Do đó, các yếu tố khác như: thái độ, ý định, âm mưu, quan điểm của
con người khi chưa được thể hiện trong thực tế bằng hành vi thì không thể
coi là tội phạm được. Còn tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu vật chất
tổng hợp của mọi hành vi trái pháp luật. Việc phân biệt tội phạm với các vi
phạm pháp luật khác dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành
vi, từ đó đưa tới các phản ứng khác nhau của Nhà nước đối với từng loại vi
phạm pháp luật - pháp luật hình sự xác định chính xác giới hạn của hành vi

phạm tội và hành vi không phạm tội và được khẳng định tại Điều 8 BLHS
"Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc
phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của pháp luật xã hội chủ nghĩa ....
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý
bằng các biện pháp khác".
2.2.3. Quy định hình phạt, mục đích hình phạt, áp dụng hình
phạt
11


Xuất phát từ nhu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, các tổ chức ... mà Nhà nước đề ra Pháp luật nói chung
và luật hình sự nói riêng. Và để thực hiện pháp luật, Nhà nước dùng hai
biện pháp chính là giáo dục thuyết phục và cưỡng chế. Trong đó giáo dục
thuyết phục là công việc quan trọng hàng đầu. Song pháp luật, đặc biệt là
pháp luật hình sự không thể mất đi tính cưỡng chế của nó. Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế. Nói đến nó nhiều người nghĩ ngay đến các biện pháp
trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước. Song hình phạt được đặt ra, trước hết
là để phòng ngừa, răn đe và sau đó mới là cơ sở để Toà án cân nhắc trách
nhiệm hình sự đối với ai cố tình vi phạm những điều được pháp luật tuyên
bố bảo vệ. Đến lượt nó, bản thân hình phạt cũng phải bảo đảm nhân đạo,
công bằng. Mác khẳng định "cả lịch sử lẫn lý trí đều xác nhận như nhau
cái sự thật là: sự tàn nhẫn không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác biệt nào làm

cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự
trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật" [42, 179].
" Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" (Điều 8
BLHS). Hình phạt chỉ do Bộ luật hình sự quy định.
Như vậy, hình phạt là phản ứng của Nhà nước, đồng thời cũng là sự lên
án của xã hội đối với người phạm tội. Tính tất yếu, tính không thoát khỏi
trách nhiệm của người phạm tội không thể gây ra một sự nghi ngờ nào về
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều này cũng có nghĩa là người
phạm tội chịu hình phạt phải bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
mình. Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đòi hỏi ở đây là: biện
pháp hình phạt phải được quy định tương xứng với tính chất và mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội "Sự đo lường trách nhiệm đối với tội
phạm được và cần phải dựa trên nguyên tắc công bằng và hợp lý" [45,182]
"Điều đó đặt ra những đòi hỏi rất cao đối với hoạt động lập pháp khi quy
định các biện pháp trách nhiệm (hình phạt)" [73,101].
Thực tiễn cho thấy rằng, việc quy định và đặc biệt là áp dụng các
biện pháp hình phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội gặp không ít khó khăn. Do đó, việc lập pháp chưa bao giờ được
coi là hoàn thiện. Đồng thời trong xét xử, số lượng các vụ án bị cải sửa
12


theo cả hai hướng tăng và giảm mức hình phạt đối với các bị cáo còn
nhiều.
2.3 Bảo đảm quyền con ngƣời đối với bị can, bị cáo thông qua các quy
định của tố tụng hình sự
2.3.1. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử)
Nhằm tôn trọng thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, phê chuẩn,
Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình mà điểm

nổi bật trong đó là xây dựng các qui định bảo đảm cho quyền con người,
quyền công dân của người phạm tội không bị xâm hại trái pháp luật.
Đối với quá trình xét xử, pháp luật có các qui định nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Các nguyên tắc xét xử nêu trên
không nằm ngoài mục đích đó. Bên cạnh đó, pháp luật còn ghi nhận các
quyền cụ thể của bị cáo và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện.
Qua việc phân tích các nguyên tắc xét xử, thấy rằng, thực chất đó là
những qui định nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bởi lẽ,
các nguyên tắc đó là nghĩa vụ của Toà án cho nên tự nó cũng đã hàm chứa
quyền của bị cáo. Các quyền đó có thể khái quát chung lại như là quyền
được bảo vệ và xét xử công bằng của bị cáo.
Ngoài việc có các quyền được pháp luật qui định đối với mọi công
dân nói chung, trong quá trình tham gia tố tụng (xét xử), bị cáo còn có một
số quyền như sau:
2.3.1.1. Quyền đƣợc coi là vô tội khi chƣa có bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
2.3.1.2. Quyền đƣợc đƣa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục đƣợc
pháp luật qui định
2.3.1.3. Quyền đƣợc giao nhận quyết định đƣa vụ án ra xét xử
2.3.1.4. Quyền đƣợc tham gia phiên toà
2.3.1.5. Quyền đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng
2.3.1.6. Quyền đƣa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị, bào chữa
2.3.1.7. Quyền đƣợc nói lời sau cùng
2.3.1.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm
2.3.2 Một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực
trạng áp dụng các quy định này.

13



Tố tụng hình sự là một ngành luật có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến
quyền con người. Bởi vì lĩnh vực tố tụng hình sự rất nhạy cảm với khả
năng xâm phạm đến quyền con người. Trong tố tụng hình sự, các cơ quan
tiến hành tố tụng được phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt
người, tạm giữ, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do về thân thể
của con người. khi đưa ra các quy định của pháp lụt tố tụng hình sự, các
nhà làm luật cũng phải tính đến việc quy định có ảnh hưởng đến các quyền
của con người không, có làm phương hại đến các quyền xã hội của con
người và cộng đòng xã hội hay không. Tuy nhiên, các nhà làm luật cũng
tính đến giới hạn các quyền đó đến đâu và cơ chế để bảo vệ các quyền đó
khi bị xâm hại. Ví dụ, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định một số biện pháp
cưỡng chế như: khám xét, kê biên tài sản… ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
tự do về nơi chốn, chỗ ở; hay một số các quyết định như khởi tố bị can,
quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định thi hành án… ảnh hưởng đến
quyền công dân của con người. Cũng nhân thấy rằng, hiện nay vẫn còn
một số nội dung về Luật Tố tụng hình sự vẫn chưa được thể hiện cụ thể và
rõ ràng, nên cần tiếp tục nghiên cứu.

CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. Quan điểm chung về phƣơng hƣớng hoàn thiện
3.1.1. Bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nƣớc ta.
Quyền con người với các quy định cụ thể ở quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân đã được khẳng định một cách trân trọng trong Hiến pháp
1992, thể hiện bản chất dân chủ - nhân đạo - tiến bộ của Đảng, Nhà nước
ta cần được quán triệt để điều chỉnh và bảo vệ bằng các quy phạm của
pháp luật hình sự, làm cơ sở để Toà án giải quyết các vụ án.
Trong thư gửi Hội thảo quốc gia nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn

nhân quyền Thế giới do Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối
hợp với Ban tư tưởng văn hoá Trung ương, Bộ ngoại giao, trung tâm Khoa
14


học và nhân văn Quốc gia tổ chức tháng 12/1998, Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu đã khẳng định lại quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta
là:"Bảo vệ và phát triển quyền con người không chỉ là một nhiệm vụ lớn
hiện nay mà chính là lý tưởng phấn đấu của những người Cộng sản; là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; là cốt lõi của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh" [36,67]. Do đó, trong quá trình xây dựng pháp luật
cần "ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân"
[18,130].
3.1.2. Bảo đảm thực hiện các quy định trong các Công ƣớc Quốc
tế mà Việt Nam tham gia, ký kết về quyền con ngƣời đối với các bị
can, bị cáo
Là thành viên của Liên hiệp quốc, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn
và cam kết thực hiện 8 Công ước Quốc tế về quyền con người; "tham gia
các Công ước này, Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị cao quý về
các quyền và tự do cơ bản của con người" [37,7]
Do đó, "để nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế và để cho
thế giới thấy rằng "sự thừa nhận" này không phải là hình thức - chỉ nằm
trên giấy tờ, mà là có thật - được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và
được thực thi trong cuộc sống, thì hệ thống pháp luật Việt Nam (trong đó
có pháp luật hình sự) cần được hoàn thiện cho phù hợp với các nguyên tắc
và các quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế" [11,29].
Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong
lĩnh vực xét xử án hình sự cần phải tính đến các yếu tố, đặc điểm phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá, truyền thống pháp lý của dân tộc Việt Nam ta. Có
như vậy pháp luật mới có tính khả thi và tồn tại được trong điều kiện Việt

Nam.
3.1.3. Các bảo đảm trong xét xử của Toà án
Việc hoàn thiện pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc: pháp chế,
dân chủ, nhân đạo, công bằng, cá thể hoá trách nhiệm hình sự. Bảo đảm
quyền con người bao gồm nhiều mặt nên việc hoàn thiện pháp luật phải
hoàn chỉnh, đồng bộ, mang tính ổn định cao và phải cụ thể, rõ ràng, tránh
tình trạng giải thích, áp dụng pháp luật không thống nhất. Như vậy, các
quy định về định tội, định khung, xác định chế tài, quyền, nghĩa vụ của các
bên tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng ... phải chặt chẽ, khắc phục
kẽ hở, tránh được tuỳ tiện. Chẳng hạn, các quy định về tội danh không
15


được quá chung chung, trừu tượng; các tình tiết định khung trong cấu
thành tội phạm phải thực sự đánh dấu sự thay đổi mức độ nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm một cách đáng kể... tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp
dụng thống nhất pháp luật.
Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải bảo đảm được tính ổn định
đồng thời phải theo kịp bước tiến trong đời sống xã hội. Hơn nữa, các luật
mới (sửa đổi, bổ sung) phải có tính khả thi, hạn chế việc cần thiết phải có
nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Đồng thời từ Hiến pháp đến
các văn bản dưới luật phải tạo thành một thể thống nhất, trong đó Hiến
pháp, luật giữ vị trí tối cao. Điều đó tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của
Toà án mà đặc biệt là trong việc áp dụng pháp luật.
Việc hoàn thiện pháp luật một mặt phải nhằm phòng ngừa các hành
vi vi phạm quyền con người, mặt khác phải tạo điều kiện cho việc giải
quyết nhanh chóng, đúng đắn, nghiêm minh các hành vi phạm tội, có nghĩa
là không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự nhằm
bảo đảm quyền con ngƣời

3.2.1 Về pháp luật hình sự
Theo tiến trình phát triển của xã hội loài người, quyền con người về
mặt pháp lý ngày càng được củng cố, mở rộng. Chính vì vậy, việc hoàn
thiện pháp luật bảo đảm quyền con người nói chung và quyền con người
trong xét xử hình sự nói riêng cũng là công việc thường xuyên, liên tục. Về
vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường - trưởng đoàn đại
biểu nước ta tham dự khoá họp hàng năm lần thứ 56 của Uỷ ban Nhân
quyền Liên hiệp quốc họp tại Giơ ne vơ, ngày 28/3/2000 đã phát biểu:
"Phấn đấu để đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người là trách
nhiệm thường xuyên của mọi quốc gia. Trên thực tế, tất cả các quốc gia
trên thế giới cần phấn đấu để vượt qua thách thức này. Điều quan trọng là
các Chính phủ luôn coi trọng mục tiêu phấn đấu vì các quyền con người và
có chính sách nhất quán để thực hiện mục tiêu đó" [14,8]. Quyền con
người của bị cáo, trước tiên phụ thuộc vào các quy định của luật và tính
khả thi của nó. Do đó, pháp luật phải có quy định cụ thể, mang nội dung
16


xác định, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ giữa một bên là cơ quan tiến hành
tố tụng, một bên là bị cáo và đại diện của họ.
Hiện nay, thực tiễn cuộc sống đang đặt ra vấn đề cần hoàn thiện pháp luật bảo
đảm quyền con người đối với bị cáo với những nội dung cơ bản như sau:
Về các qui định của pháp luật về tội phạm, trách nhiệm hình sự, về
lỗi
Như đã phân tích, Điều 8 BLHS hiện nay liệt kê một cách khá dài
các khách thể được luật sự sự bảo vệ. Nhưng chưa hết, sau đó còn phải quy
định thêm: xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, những khách thể được nêu ra là rất cụ thể nhưng vừa dài
lại vừa thiếu. Do đó, cần đưa ra quy định ngắn gọn nhưng vẫn bảo đảm
bao quát hết được các khách thể mà luật hình sự cần bảo vệ.

* Về khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho cá nhân, xã hội, quốc gia hay hoà
bình, ổn định và phát triển của quốc tế được qui định trong Bộ luật hình sự
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý xâm phạm các khách thể được luật hình sự bảo vệ.
* Chế định trách nhiệm hình sự được coi là chế định quan trọng
trong pháp luật hình sự, nên cần được chính thức quy định trong Bộ luật
hình sự theo hướng sau:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm
mang tính cưỡng chế Nhà nước do Toà án áp dụng đối với người phạm tội
và được thực hiện bằng hình phạt cụ thể do Bộ luật hình sự qui định.
Trước hết, qui định này khắc phục được "lỗ hổng" trong Bộ luật hình sự.
Hay nói cách khác, nó góp phần hoàn chỉnh kỹ thuật lập pháp (hình sự) ở
nước ta hiện nay. Qui định này cũng thể chế hoá được qui định tại Điều 72
Hiến pháp, thể hiện rõ tinh thần nhân đạo "không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật". Nó thể hiện được lô gíc: không có tội phạm sẽ không có trách nhiệm
hình sự và thể hiện được nguyên tắc: trách nhiệm hình sự do Toà án áp

17


dụng. Đồng thời nó cũng nêu lên được căn cứ duy nhất của trách nhiệm
hình sự là việc thực hiện tội phạm.
* Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của tội phạm. Việc xác định lỗi
của chủ thể trong tội phạm giúp cho sự phân biệt giữa hành vi có tính chất tội
phạm và hành vi không có tính chất tội phạm, đồng thời góp phần phân biệt
được mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và của người phạm tội. Chính
vì vậy, cần quy định lỗi là gì trong Bộ luật hình sự. Nên chăng, qui định lỗi là
thái độ tâm lý của người phạm tội được thể hiện với hình thức cố ý hoặc vô ý

đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và với hậu quả do
hành vi đó gây ra.
3.2.2 Về pháp luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, Về quyền, nghĩa vụ của bị can, bị cáo, người bào chữa:
Phải khẳng định rằng, một hệ thống pháp luật dân chủ tiến bộ phải là
hệ thống pháp luật vì con người, cho con người, bảo đảm sự an toàn cho
con người trong đó có cả những người có một thời lầm lỗi. Điều này cũng
đúng với bản chất của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngày nay, các
quốc gia không ngừng phấn đấu trên mọi lĩnh vực mà quan trọng hơn cả là lập
pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người .
Thực hiện mục đích này, trước hết các quy định về quyền, nghĩa vụ của
công dân nói chung, bị cáo nói riêng phải cụ thể, rõ ràng, xác thực, dễ
hiểu, dễ thực hiện.
"Để làm được điều đó, chương V của Hiến pháp 1992 cần bao quát
toàn bộ tinh thần của quyền con người" [59,4] để từ đó các luật về quyền
con người được củng cố, hoàn thiện.
"Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những
giá trị xã hội cao quý nhất" [11,10] cho nên, theo như Hiến pháp 1946,
chương "quyền và nghĩa vụ của công dân" nên được đặt ở vị trí chương thứ II
trong Hiến pháp.
Một bảo đảm vô cùng quan trọng cần được khẳng định trong Hiến pháp
là: Mọi công dân có quyền được khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền
trong nước bảo vệ quyền cơ bản của mình khi bị xâm hại trái pháp luật.
18


Thứ hai, nâng cao ý thức, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng
về việc đảm bảo các quyền của những người tham gia tố tụng trong các vụ
án hình sự. Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì quyền con người có được
đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm và những hoạt

động của cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng bắt người tùy tiện, bắt oan sai, không đúng trình tự thủ tục
là do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tố tụng
còn hạn chế, ý thức pháp luật chưa được đề cao. Do nhận thức không đầy
đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động, bắt người, tạm
giữ, tạm giam cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án làm cho việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt
động tùy tiện, trái pháp luật xâm hại đến quyền con người, lợi ích hợp
pháp của công dân. Để bảo đảm được quyền con người, quyền công dân
trong hoạt đọng tố tụng, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, phải không ngừng bồi dưỡng nâng
cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị và đạo đức công vụ cho những cán
bộ này; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền và
trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức
độ cho phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo
cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.
Mặt khác, để nâng hiệu quả công tác và bảo đảm được quyền con
người, chủ thể tiến hành tố tụng phải nhận thức được rõ ý nghĩa của việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Phải hiểu rằng: áp dụng các biện pháp
bắt người, tạm giữ, tạm giam là nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại, nhưng cần chú ý bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị áp dụng. Bởi vì người bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn chưa phải là tội phạm, họ mới chỉ tạm bị hạn chế một số quyền như
quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú. Những quyền khác của người bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn vẫn phải được bảo đảm và được tôn trọng.
Chẳng hạn, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Việc áp dụng tùy tiện các
19



biện pháp ngăn chặn như việc bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ
tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn… đều làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Người
thực hiện một trong các hành vi nói trên phải bị xử lý nghiêm khắc, thậm
chí có thể bị truy tố theo pháp luật để bảo đảm sự nghiêm minh, công bằng
xã hội, bảo đảm quyền con người của người bị bắt oan, sai, bị tạm giữ, tạm
giam quá hạn. Những hành vi bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ
tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn không chỉ xâm hại
hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm quyền
bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người, công dân
mà còn làm suy giảm uy tín của Nhà nước ta, nhà nước của dân, do dân và
vì dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn sẽ nâng cao hiệu quả
cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp phần quan
trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người. Với yêu cầu của cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, việc bắt, giam giữ cần phải được tiến hành
kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ một lý do gì mà áp
dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không
đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối
với người phạm tội mà là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để tước bỏ
diều kiện gây ra phạm tội, ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh
pháp luật của người thực hiện và hành vi phạm tội, đảm bảo sự hoạt động
đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Viện Kiểm sát chỉ phê chuẩn
lệnh bắt khi đã xác định rõ ràng căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó
khăn cho hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ
quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án, và cả người bị bắt về các tình
tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh bắt.
Trong trường hợp bắt người không có căn cứ thì Viện Kiểm sát kiên quyết

không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên cần phải luôn đề cao trách
20


nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong quá trình thực thi công vụ
của mình.
Thứ ba, nâng cao nhận thức của những người tham gia tố tụng về quyền
con người trong tố tụng hình sự. Muốn thực hiện được tốt quyền của mình
thì ngay bản thân những người tham gia tố tụng cần phải có những nhận
thức nhất định về các quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng hình sự.
Đây là một vấn đề gặp rất nhiều vướng mắc hiện nay trong khi giải
quyết các vụ án hình sự. Rất nhiều người dân không nắm được các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự khi tham gia với những tư cách khác
nhau trong các vụ án hình sự. Rất có nhiều vụ án hình sự không có người
bào chữa tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo,
người bị hại… Một trong những nguyên nhân chính là người tham gia tố
tụng không biết tầm quan trọng và lợi ích cho họ khi có người bào chữa
tham gia, do đó họ không mời người bào chữa. Những yếu kém trong nhận
thức về pháp luật của những người tham gia tố tụng cũng là nguyên nhân
dẫn đến sự cẩu thả, thiếu trách nhiệm trong việc tôn trọng và bảo đảm thực
hiện các quyền của những người tham gia tố tụng. Do đó, việc phổ biến
pháp luật cho nhân dân cần được sâu rộng hơn nữa. Chỉ khi người dân biết
được các quyền của mình mà pháp luật cho phép, họ mới có thể thực hiện
tốt các quyền của mình.
Thứ tư, cần tăng cường số lượng cho đội ngũ luật sư và nâng cao vai
trò, vị trí của luật sư trong quá trình tranh tụng. Thời gian vừa qua, mặc dù
chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ
luật sư nhưng nhìn chung đội ngũ luật sư còn có nhiều hạn chế, còn thiếu
và yếu về số lượng và chất lượng. Hiện nay cả nước có khoảng 4000 luật
sư, tuy nhiên số luật sư này còn khá khiêm tốn so với tổng quan gần 80

triệu người dân Việt Nam. Số lượng các vụ án hình sự có người bào chữa
tham gia lại càng khiêm tốn hơn vì trong số đó có rất nhiều vụ án hình sự
không có người bào chữa do bị cáo không có khả năng về tài chính hoặc
không muốn mời người bào chữa. Bên cạnh việc tăng cường về số lượng
thì việc phát triển và nâng cao về trình độ pháp luật, kỹ năng tranh tụng
21


×