Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 99 trang )



Đại học quốc gia hà nội

Khoa luật




Bùi Thị Minh




Đảm bảo quyền của công dân
đ-ợc bồi th-ờng thiệt hại do hành vi
trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
ở Việt Nam hiện nay

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân



Hà Nội - 2009
Môc lôc CñA LUËN V¡N


Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương I: Những vấn đề chung về quyền công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1 Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.1.1 Khái niệm quyền công dân và quyền công dân được bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.1.2 Các đặc điểm của quyền công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.1.2.1 Quyền được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự là một quyền thuộc quyền dân sự.
1.1.2.2 Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự dựa trên cơ sở pháp lý về trách nhiệm bồi
thường của cơ quan nhà nước.
1.2 Bản chất của trách nhiệm bồi thường nhà nước và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.2.1 Bản chất của trách nhiệm bồi thường nhà nước.
1.2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự.
1.3 Những yếu tố bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại của công dân do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.3.1 Yếu tố chính trị
1.3.2 Yếu tố pháp luật
1.3.3 Các yếu tố kinh tế xã hội
Chương II: Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng
2.1 Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.

2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại
cho công dân do những hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hiện nay.
2.2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại
cho công dân của các cơ quan tiến hành tố tụng giai đoạn điều tra, truy tố
2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc gải quyết bồi thường thiệt hại
cho công dân của cơ quan tiến hành tố tụng giai đoạn xét xử
2.2.3 việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết bồi thường giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam hiện nay

Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị trong việc bảo đảm quyền của công
dân được bồi thường thiệt hại cho do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự
3.1 Bảo đảm quyền của công dân được bồi thường do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự là một vấn đề cấp thiết hiện nay.
3.2 Một số đề xuất, kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại cho công dân do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự.
3.3 Một số đề xuất, kiến nghị khác.
Kết luận.
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o



1
Më §ÇU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước mà vấn đề then chốt là xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã đặt ra nhiệm vụ củng cố, hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền, cần
cải cách nền hành chính quốc gia cùng với những cải cách tư pháp để hướng

tới mục tiêu xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp thực sự sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật, vì công lý, công bằng xã hội theo quan điểm của
Đảng và Nhà nước.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của
nhân dân ngày càng được cải thiện, các quyền của công dân về dân sự cũng
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự,
xu thế dân chủ hóa các hoạt động tố tụng ngày càng được củng cố. Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/1/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" tạo ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp
cải cách tư pháp. Tư tưởng chủ đạo của Nghị quyết số 08-NQ/TW về cải cách
tư pháp là cải cách nhằm đảm bảo tính dân chủ của hoạt động tư pháp, đảm
bảo quyền tự do dân chủ của công dân. Tư tưởng chủ đạo của Nghị quyết số
08-NQ/TW về cải cách tư pháp là nhằm đảm bảo tính dân chủ của hoạt động
tư pháp, đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân. Thể chế hóa tư tưởng
của Nghị quyết số 08-NQ/TW, một loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước
ra đời, trong đó có những văn bản có giá trị hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới
toàn bộ hệ thống tư pháp như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004. Thực tiễn triển khai Nghị quyết 08-NQ/TW, Bộ luật
Tố tụng hình sự và các văn bản liên quan đã đem lại những bước tiến đáng kể
trong tiến trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng hình sự, giảm thiểu các trường
hợp oan sai.

2
Tuy nhiên, trên thực tế, đã có nhiều trường hợp người vô tội bị oan do
các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây nên những
tổn thất về vật chất và tinh thần cho họ và cho cả thân nhân của họ, gây sự bất
bình trong nhân dân. Nhằm khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, nâng cao trách nhiệm của người có thẩm
quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, ngày 17/3/2003 Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH 11

về việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự gây ra. Đây là một nghị quyết quan trọng liên quan đến hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để hướng dẫn thi hành nghị quyết
này, các cơ quan như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính đã phối hợp
xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT hướng dẫn thi
hành nghị quyết nêu trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã xuất hiện
những vướng mắc cả về áp dụng pháp luật và thực tiễn tiến hành như việc
đương sự yêu cầu bồi thường sau khi đã hết thời hiệu, việc xác định cơ quan
có trách nhiệm bồi thường, việc xác định mức độ thiệt hại để bồi thường.
Nguyên nhân của tình trạng này là do việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan
do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra là một loại việc
tương đối mới, các cơ quan tiến hành tố tụng còn lúng túng trong việc nhận
thức, áp dụng các quy định của Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 và
các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời người dân cũng chưa hiểu biết đầy
đủ các quy định của pháp luật về vấn đề này. Để khắc phục tình trạng trên,
các cơ quan tiến hành tố tụng đã nâng cao trách nhiệm của mình trong quá
trình giải quyết yêu cầu bồi thường, thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm
từ thực tiễn giải quyết, các vướng mắc về áp dụng pháp luật để báo cáo, kiến
nghị kịp thời với cơ quan cấp trên. Vì vậy, ngày 21/11/2006, liên ngành Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 04/2006/TTLN

3
thay thế Thông tư số 01/2004/TTLN để hướng dẫn việc bồi thường cho công
dân phù hợp với thực tế hơn. Với việc ban hành nghị quyết và thông tư liên
tịch về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã hạn chế được phần nào việc khởi tố, truy
tố và xét xử oan người vô tội. Bên cạnh đó, một giải pháp rất quan trọng nữa
là các cấp, các ngành cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho

người dân dưới nhiều kênh thông tin khác nhau, vì việc người dân nhận thức
đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường.
Tuy nhiên, việc "phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội" vẫn luôn luôn là nhiệm vụ, mục đích cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự
được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bị thiệt hại do
cơ quan tố tụng, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
quyền được bồi thường thiệt hại, được phục hồi danh dự và quyền lợi. Việc bồi
thường trong từng trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Thực tiễn hiện nay,
Nhà nước chỉ tiến hành bồi thường cho người đã bị khởi tố, truy tố, xét xử và thi
hành án sau khi đã có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội.
Việc bồi thường được thực hiện theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-
UBTVQH11 và một số văn bản hướng dẫn về bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Tuy
nhiên, cơ chế để công dân được thực hiện quyền bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay vẫn còn trong giai
đoạn vừa xây dựng, vừa hoàn thiện. Các quy định của pháp luật được ban
hành chưa đầy đủ, chưa toàn diện để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến loại bồi thường thiệt hại đặc biệt này. Do đó, trên thực tế, công dân vẫn
phải phụ thuộc rất lớn vào ý chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc giải quyết bồi thường. Ngược lại, bản thân các cơ quan tiến hành tố

4
tụng cũng gặp rất nhiều khó khăn từ cơ chế bồi thường thiệt hại cho công dân.
Nhiều vụ việc đòi bồi thường đến nay chưa có khả năng giải quyết dứt điểm,
thậm chí, cả sau khi đã có phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Các vấn đề mà thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu hơn
về mặt lý luận các nội dung đảm bảo bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp

luật trong tố tụng hình sự, đặc biệt phải nghiên cứu vấn đề này với tư cách
một nội dung pháp lý của quyền công dân, từ đó, tạo ra những luận cứ khoa
học cho quá trình pháp điển hóa các quy định này, tiến tới việc xây dựng một
đạo luật thống nhất điều chỉnh.
Như vậy, đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là vấn đề mới, thể hiện
những tư tưởng quan trọng của cải cách tư pháp, đòi hỏi phải có sự phân tích,
làm rõ sâu hơn về mặt lý luận. Đây cũng là một vấn đề mang tính chất thời sự
và cấp bách hiện nay khi thực tế thực hiện các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự còn
có những vướng mắc nhất định, gây phương hại đến lợi ích chính đáng của
công dân và uy tín chính trị của hệ thống các cơ quan tư pháp.
Xuất phát từ những đòi hỏi mang tính chất lý luận và thực tiễn trên,
cùng sự quan tâm nghiên cứu của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài "Đảm
bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng ở nhiều nước đã
được các nhà nghiên cứu lý luận và luật pháp đề cập đến trong đó có những
công trình đã được công bố như: "Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tư
pháp" và "Thực tiễn bồi thường án sai" của hai tác giả Trung quốc là Dương
Lập Tân và Trương bộ Hồng; "Thực hiện trách nhiệm của Nhà nước và các

5
cơ quan có thẩm quyền tố tụng" của GS.TS Mapozova (Viện Nhà nước pháp
luật Matxcova) - Liên bang Nga; "Nguyên tắc bảo hộ người bị hại trong quá
trình tố tụng hình sự" của tác giả Crabosky (Australia, 1989) Tuy nhiên,
việc bồi thường thiệt hại cho công dân do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
tố tụng hình sự ở Việt Nam là một vấn đề mới được đặt ra trong hệ thống pháp

luật. Sau bao nhiêu công trình nghiên cứu chuyên sâu, qua thực tiễn hoạt động tố
tụng hình sự, ngày 17/3/2003 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban Nghị quyết
388/2003/NQ-UBTVQH11 về "Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra". Việc ban hành nghị
quyết này như một bước đánh dấu đảm bảo cho công dân quyền được bồi
thường do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Cũng từ
sau khi nghị quyết này được ban hành có nhiều công trình khoa học, các bài viết
mang tính chất nghiên cứu, tổng hợp, đánh giá thực tiễn đã nghiên cứu vấn đề
này đã được công bố như: "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra", của Lê Mai Anh, Luận án tiến sĩ luật học;
"Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc Công an nhân dân", của Nguyễn Viết
Sách, Tạp chí Kiểm sát, số 16, 2005; "Về trách nhiệm của Tòa án đối với việc
bồi thường thiệt hại cho người bị oan", của Hoàng Ngọc Thành, Tạp chí
Kiểm sát, số 16, 2005; "Qua hai năm thực hiện Nghị quyết 388 trong ngành
Kiểm sát nhân dân", của Hoàng Thế Anh, Tạp chí Kiểm sát, số 16, 2005
Tuy nhiên, các công trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập đến vấn đề bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu tổng quát về mặt lý luận và
thực tiễn về vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong tố tụng
hình sự gây ra dưới góc độ là một quyền của công dân. Vì vậy, có thể coi đây
là lần đầu tiên đề tài "Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
hiện nay" được nghiên cứu và nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học.

6
3. Mục đích của đề tài
Việc thực hiện nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú thêm
các kiến thức lý luận-pháp lý về quyền của công dân và đảm bảo quyền của
công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động

tố tụng hình sự hiện nay. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng việc đảm bảo
quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay dựa trên các số liệu, dữ liệu
cập nhật mới nhất hiện nay. Đồng thời đưa ra các quan điểm, các phương
hướng hoàn thiện pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự góp phần luận
chứng các quan điểm, các giải pháp trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật, cải cách tư pháp đã được Bộ Chính trị đề ra tại các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005. Đây
là một điểm mới mà đề tài cần phải làm được.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu các khái niệm chung về quyền của công dân; các đặc
điểm, nội dung quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
- Làm rõ đặc điểm, nội dung, bản chất trách nhiệm của nhà nước trong
việc bồi thường thiệt hại do các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn việc áp dụng
pháp luật về giải quyết bồi thường thiệt hại cho công dân do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự, đánh giá nhu cầu điều chỉnh bằng pháp
luật các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.

7
- Căn cứ vào thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền công
dân được bồi thường để đưa ra các đề xuất và kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
phương hướng giải quyết các vấn đề hữu quan khác trong tiến trình hoàn
thiện cơ chế đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn về quyền của
công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
tố tụng hình sự, để từ đó, có những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật đảm
bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung.
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, đề tài không thể bao
quát hết tất cả các giai đoạn, các chủ thể của tố tụng hình sự. Để đảm bảo tính
chuyên sâu của luận văn, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở
những vấn đề về bảo đảm quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự -
những vấn đề mà theo quan điểm của tác giả, là cơ bản và quan trọng hơn cả.
Những nội dung được lựa chọn nghiên cứu trong luận văn là những vấn đề
tiêu biểu, qua đó làm rõ được về mặt lý luận và khái quát được thực tế việc
bảo đảm quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về vấn đề quyền
công dân và quyền con người, các quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.

8
- Về phương pháp nghiên cứu, luận văn dựa trên phương pháp tiếp cận
để làm sáng tỏ về mặt khoa học của từng vấn đề tương ứng như phương pháp
luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… Đồng thời việc nghiên cứu đề tài còn
dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất
có tính chỉ đạo của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền công dân
được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự ở Việt Nam vừa khẳng định nguyên tắc tuân thủ pháp luật một cách
triệt để không loại trừ ai kể cả Nhà nước, đồng thời cũng khẳng định quan
điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với mục đích xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn
diện những vấn đề pháp lý chủ yếu để bảo đảm quyền công dân được bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
Luận văn đã làm sáng tỏ về phương diện lý luận và thực tiễn vấn đề
điều chỉnh pháp lý cũng như phương hướng hoàn thiện pháp luật để đảm bảo
quyền công dân được bồi thường do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn này góp phần làm phong
phú thêm các kiến thức lý luận - pháp lý về quyền công dân nói chung và
quyền của công dân được được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Qua các phần nghiên cứu của luận
văn cũng thấy được thực trạng về mặt lý luận và thực tiễn, những thuận lợi,
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quyền được bồi thường
của công dân trong hoạt động tố tụng.

9
Đồng thời, những nghiên cứu này có thể làm tài liệu có tính chất tham
khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền
công dân được bồi thường do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự và
cũng là tư liệu để tham khảo trong thực tế thực hiện, đảm bảo quyền được bồi
thường của công dân.
Như vậy, bên cạnh những ý nghĩa lý luận và thực tiễn thì luận văn còn

góp phần thay đổi quan điểm nhìn nhận của các cơ quan tư pháp trong việc đề
cao trách nhiệm của Nhà nước trước công dân khi nhân danh quyền lực của
Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, các cá nhân có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo cho hoạt động tố tụng thể
hiện đúng bản chất dân chủ, nhân quyền.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyền của công dân được bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho công dân do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị trong việc bảo đảm quyền của
công dân được bồi thường thiệt hại cho do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CỦA CÔNG DÂN
ĐƢỢC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. QUYỀN CỦA CÔNG DÂN ĐƢỢC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm quyền công dân và quyền của công dân đƣợc bồi
thƣờng thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
Con người từ khi sinh ra đã có những quyền nhất định. Quyền của con

người bắt nguồn từ bản chất của con người và lịch sử xã hội. Quyền con người
một mặt là sự phản ánh những đặc trưng tự nhiên vốn có và chỉ có ở loài người,
đó là những nhu cầu cơ bản nhất về vật chất và tinh thần, như: ăn, ở, mặc
Mặt khác, quyền con người là sự phản ánh những khả năng của con người, trước
hết là những hành động có ý thức nhằm đạt được những mục đích và tự bảo vệ
mình. Tuy nhiên, xét về cấu trúc, chỉ với nhu cầu và khả năng của con người
chưa thể tạo thành quyền. Muốn đạt tới quyền phải cần tới một quyền lực công
cộng, một ý chí của tập thể thừa nhận và bảo vệ nó, khi đó mới hình thành quyền.
"Quyền" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là: "1. Điều mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền
công dân, quyền bầu cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức
vụ mà được làm" [39, tr. 815]. Tuy nhiên, dù với cách giải thích thứ hai,
"quyền" vẫn là những gì "mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng,
được làm, được đòi hỏi", là khả năng xử sự nhất định của cá nhân, tổ chức -
khả năng được hưởng, được làm, được đòi hỏi từ cộng đồng xung quanh.
"Công dân" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là "người dân,
trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước" [39, tr. 207].
Trên bình diện thế giới, khái niệm quyền công dân được tiếp cận ở nhiều góc

11
độ khác nhau, với nhiều cách hiểu khác nhau, song về cơ bản, quyền công dân
được hiểu là những quyền của những con người - công dân, được hiến pháp
và pháp luật của một quốc gia nhất định ghi nhận và bảo vệ. Khi con người
được coi là công dân, quyền công dân chính là quyền con người trong một
chế độ xã hội - chính trị cụ thể. Điều này chỉ ra tính khác biệt của quyền công
dân so với quyền con người - một khái niệm thường bị hiểu đồng nhất với
khái niệm quyền công dân. Khái niệm quyền con người rộng hơn khái niệm
quyền công dân. Nói tới quyền con người là nói tới các quyền của cá nhân
mỗi con người không phân biệt các đặc tính tự nhiên: chủng tộc, màu da, lứa
tuổi, giới tính… hay các đặc tính xã hội của con người: trình độ văn hóa, tôn

giáo, tín ngưỡng, chế độ chính trị… Quyền công dân được hiểu là quyền con
người giới hạn trong phạm vi các đặc tính xã hội của con người và trong
phạm vi một quốc gia, một chế độ chính trị trong đó con người tồn tại.
Quyền công dân được hiểu thống nhất bao gồm các nhóm quyền lớn:
nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị như tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, quyền bầu ứng, ứng cử, quyền tự do báo chí, lập hội, biểu tình…, nhóm
quyền dân sự như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được bảo vệ, bồi
thường khỏi những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của bản thân…, nhóm quyền về kinh tế - xã hội như
quyền tự do kinh doanh, sở hữu tài sản, quyền lao động, học tập, phát minh,
sáng chế Trong nhóm các quyền dân sự, có một loại quyền đặc biệt, tương
ứng với quyền này là nghĩa vụ bồi thường của một chủ thể đặc biệt - Nhà
nước, đó là quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Hoạt động tố tụng hình sự được quan niệm là hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự với hoạt động cụ thể của những
người tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự là các
cơ quan nhà nước chuyên trách thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án

12
hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đây là các cơ
quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Người tiến
hành tố tụng là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ
nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động
tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm
góp phần giải quyết vụ án hình sự.
Oan sai nếu xảy ra trong tố tụng hình sự sẽ dẫn đến khả năng công dân
phải chịu trách nhiệm hình sự mà đáng lẽ, họ không phải chịu bất kỳ loại trách
nhiệm pháp lý nào hoặc chỉ phải chịu một loại trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn. Nói

cách khác, hành vi trái pháp luật của Nhà nước trong tố tụng hình sự có nguy cơ
xâm hại nghiêm trọng đến các quyền dân sự của công dân. Thậm chí, có ý kiến
cho rằng, lĩnh vực tố tụng hình sự tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại cho công
dân cao nhất và khả năng Nhà nước phải bồi thường cho công dân nhiều nhất.
Từ góc độ khoa học pháp lý, với cách đặt vấn đề như trên, có thể hiểu
khái quát về quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự là một nội dung của quyền công dân, thuộc
nhóm quyền dân sự, phát sinh giữa Nhà nước và công dân, trên cơ sở thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Như vậy, quyền
của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
tố tụng hình sự là một loại quyền công dân trong nhóm quyền dân sự, theo đó,
công dân được Nhà nước bồi thường do đã thực hiện hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại thiệt hại cho công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Các đặc điểm của quyền công dân đƣợc bồi thƣờng thiệt hại
do hành vi trái pháp luật của Nhà nƣớc trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Quyền được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
trong tố tụng hình sự là một quyền thuộc quyền dân sự
Nhóm các quyền về dân sự là các quyền liên quan đến cuộc sống dân
sự hàng ngày của công dân, các quyền tự do cá nhân như quyền sống, quyền

13
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền ăn ở, đi lại, giao thông liên lạc, tham gia
các giao dịch dân sự, quyền được đền bù do các hành vi trái pháp luật trong
hợp đồng và ngoài hợp đồng. Quyền công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự là một nội dung của mối quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì cơ sở phát sinh nghĩa vụ của Nhà
nước và quyền của công dân trong trường hợp này là hành vi trái pháp luật
của Nhà nước trong tố tụng hình sự mà không phải do vi phạm thỏa thuận,
điều khoản của bất kỳ một hợp đồng nào được thiết lập trước đó giữa Nhà
nước và công dân. Công ước quyền con người về dân sự - chính trị tháng 12

năm 1966 khẳng định: công dân có quyền được bồi thường thiệt hại khi các
quyền về con người và quyền tự do thân thể của họ bị công chức nhà nước vi
phạm một cách trái pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ. Người bị thiệt hại
có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại và Nhà nước có trách nhiệm
bồi thường.
Mặt khác, khi phân loại quyền công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là một quyền thuộc
nhóm quyền công dân về dân sự - điều này không có nghĩa chỉ giới hạn trong
phạm vi nhóm quyền dân sự một cách tuyệt đối. Bởi vì, như đã từng đề cập,
sự phân chia quyền công dân thành những nhóm quyền về dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa chỉ có tính chất tương đối, giữa những quyền trong một
nhóm quyền này có sự liên hệ và đan xen lẫn với những quyền trong một
nhóm quyền khác. Cụ thể, quyền công dân được bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm các quyền được
công khai xin lỗi, được bồi thường các thiệt hại về vật chất, được khôi phục
một số quyền công dân trước đó đã bị tước bỏ, do đó, quyền được bồi thường
thiệt hại ở đây trước hết là quyền được khôi phục một cách toàn diện các
quyền về dân sự, các quyền về dân sự sau khi được khôi phục sẽ tạo điều kiện
cho việc thực hiện các quyền và khôi phục các lợi ích khác về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội…

14
1.1.2.2. Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự dựa trên cơ sở pháp lý về
trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước
Trong tố tụng hình sự, hành vi trái pháp luật thể hiện là những hành vi
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự (như khởi tố bị can, truy tố, ra
bản án, tuyên hình phạt, áp dụng các biện pháp ngăn chặn) đối với những
công dân mà bản thân họ không phạm tội, hành vi của họ không cấu thành tội
phạm, chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không có năng lực trách nhiệm

hình sự, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân hành vi phạm
tội đã được xử lý bằng một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
trước đó…
Như vậy, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, hành vi trái pháp luật trước
hết là vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng trực tiếp liên quan đến
quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Hành vi trái pháp luật có thể là một
hành vi độc lập, mang tính độc đoán cá nhân của người tiến hành tố tụng (ví
dụ: bắt, giam người không có căn cứ vì động cơ cá nhân của người có thẩm
quyền) hoặc là sản phẩm của các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tắc trách,
không thu thập đầy đủ chứng cứ, bỏ sót các chứng cứ quan trọng để chứng
minh công dân có tội hay không có tội, do vậy, dẫn đến việc khởi tố bị can
không có căn cứ, ra cáo trạng, bản án đối với người không thực hiện hành vi
phạm tội… Trên thực tế, biểu hiện ra bên ngoài của các hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho công dân là những trường hợp: công dân bị khởi tố, tạm
giam, tạm giữ nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định đình chỉ
điều tra vụ án, trả tự do vì đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam mà không chứng
minh được người đó đã thực hiện tội phạm hoặc người đó chưa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự hoặc chứng minh được hành vi của người đó không cấu
thành tội phạm mà chỉ bị xử lý hành chính hoặc dân sự; công dân bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, khám xét, thu giữ, tạm giữ, tạm giam, kê biên tài
sản không có căn cứ dẫn đến thiệt hại về vật chất và tinh thần; công dân đã bị

15
truy tố ra trước Tòa để xét xử nhưng Tòa án tuyên bị cáo không có tội hoặc
bản án kết tội của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy, tuyên bố bị cáo
không có tội…
Khi nói tới các hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự và hậu quả
của hành vi trái pháp luật này, không thể không đề cập đến khái niệm "oan" và
"sai" - đây là những khái niệm có liên quan mật thiết. Các hành vi trái pháp luật
bản chất là các hành vi thực hiện "sai" quy định của pháp luật, và do thực hiện

"sai", có thể dẫn tới hậu quả "oan" cho công dân. Tuy nhiên, như thế nào là "oan",
như thế nào là "sai" hiện còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Theo Từ điển
tiếng Việt thì "oan" có nghĩa là "một người nào đó bị quy cho tội mà họ không
phạm, phải chịu trừng phạt mà bản thân họ không đáng phải chịu" [39, tr. 749]
và "sai" có nghĩa là "một hành vi nào đó không phù hợp với phép tắc, với
những điều qui định" [39, tr. 844]. Như vậy, khái niệm "sai" có ý nghĩa rất
rộng, bao trùm lên cả khái niệm oan. Khái niệm "oan" có ý nghĩa hẹp hơn
khái niệm "sai".
Trong tố tụng hình sự, khái niệm "oan" có nghĩa là một công dân nào
đó hoàn toàn không thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm
pháp luật nào có liên quan tới vụ án, nhưng đã bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Còn khái niệm "sai" trong tố tụng hình sự
có nghĩa là một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội
đó đúng ra phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này, nhưng lại bị
khởi tố, truy tố, xét xử về một tội danh khác hoặc bị áp dụng hình phạt nặng hơn
hình phạt lý ra họ phải gánh chịu, hoặc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án các cơ quan chức năng đã có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến việc
họ phải gánh chịu những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần. Một đặc điểm cơ
bản để phân biệt khái niệm "oan" với khái niệm "sai" là khi nói tới một người bị
oan, có nghĩa là họ hoàn toàn không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quan niệm về oan, sai một
cách rất chung chung và được hiểu là do các cơ quan tiến hành tố tụng đã

16
nhận định sai sự thật; áp dụng sai pháp luật; vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng
mà pháp luật quy định.
Pháp luật Liên bang Nga cũng chưa có quy định về khái niệm oan, sai
trong trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Nga có thể hiểu những hành vi có
thể dẫn đến oan, sai là: người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự

một người mà rõ ràng là người đó không có tội; kiểm sát viên hay người tiến
hành điều tra sơ bộ đình chỉ việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
bị tình nghi phạm tội hoặc người đã bị khởi tố về một tội nào đó; hành vi giữ
người trái pháp luật; người tiến hành điều tra sơ bộ ép buộc người bị tình
nghi, bị can, người bị hại, người làm chứng đưa ra lời khai không đúng sự thật
hoặc người giám định đưa ra kết luận giám định sai; những hành vi vi phạm
pháp luật gây thiệt hại đối với tài sản bị kê biên, tạm giữ…
Pháp luật Cộng hòa Pháp cũng không phân biệt rõ ràng các trường hợp
oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự. Luật chỉ qui định rằng những người
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là những người được tuyên vô tội.
Luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng không có quy định pháp luật
phân biệt giữa oan và sai mà Tòa án chỉ căn cứ vào những tình tiết cụ thể để
giải quyết vấn đề bồi thường.
Luật của Nhật Bản cũng không thể đưa ra khái niệm "oan" và "sai" mà
chỉ quy định những điều kiện để được bồi thường thiệt hại.
Như vậy, pháp luật của các nước nêu trên đã không thể hiện khái niệm
này và cũng không qui định một cách rạch ròi trường hợp nào là oan, trường
hợp nào là sai trong hoạt động tố tụng hình sự. Luật chỉ qui định một cách rất
chung chung và chủ yếu đề cập tới đối tượng nào và trong điều kiện nào thì
được yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Hành vi trái pháp luật được thực hiện một cách có lỗi, bị coi là có lỗi
nếu lựa chọn và thực hiện một xử sự không phù hợp với quy định của pháp

17
luật khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự
khác phù hợp với quy định của pháp luật. Lỗi có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
Lỗi với tính chất là trạng thái tâm lý của cá nhân. Tuy nhiên, trong mối quan
hệ bồi thường giữa Nhà nước với công dân, thì lỗi phải coi là lỗi của Nhà nước
chứ không phải là lỗi của cá nhân người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự.
Bởi vì, cá nhân này gây thiệt hại ở tư cách là người có thẩm quyền trong hoạt

động tố tụng hình sự, được trao quyền lực nhà nước, là đại diện của Nhà
nước. Cách xác định này để đảm bảo sự triệt để trong việc thực thi trách
nhiệm của Nhà nước đối với công dân.
Những trường hợp Nhà nước không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là khi không có lỗi của Nhà nước, ví dụ: những người bị bắt giam do hành
vi phạm tội nhưng sau đó được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc miễn
chấp hành hình phạt. Một trường hợp khác, không phải bồi thường cho công
dân khi tồn tại hỗn hợp lỗi của cả Nhà nước và công dân khi công dân cố ý
khai sai sự thật hoặc tạo chứng cứ giả nhằm mục đích gây khó khăn, đánh lạc
hướng điều tra, truy tố, xét xử để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, giam giữ
oan, sai.
Việc xác định chủ thể của lỗi trong hoạt động tố tụng hình sự chỉ được
đặt ra khi cần giải quyết vấn đề bồi hoàn, làm rõ trách nhiệm bồi hoàn của cá
nhân có thẩm quyền với Nhà nước mà không được phép đặt ra trong việc giải
quyết bồi thường giữa Nhà nước và công dân.
Hành vi trái pháp luật, được thực hiện một cách có lỗi phải gây ra
những hậu quả nhất định. Nói cách khác, phải gây ra những thiệt hại thực tế.
Các thiệt hại này bao gồm những tổn thất về tinh thần (danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị ảnh hưởng), các tổn hại về tính mạng, sức khỏe (bị chết, bị suy giảm
sức khỏe do bị giam, giữ, chấp hành hình phạt…), các quyền tự do thân thể;
các tổn hại về tài sản (tài sản bị tịch thu, bị buộc phải trả cho người khác một
cách không có căn cứ ).

18
Các hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự có thể gây ra một hoặc
nhiều thiệt hại khác nhau, giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả phải có mối
quan hệ lôgíc, hành vi là nguyên nhân tất yếu gây ra hậu quả, phải xảy ra trước
hậu quả. Tuy nhiên, từ đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự, có thể nhận thấy
hành vi trái pháp luật gây ra hậu quả cho công dân lại là hậu quả của một hành vi
trái pháp luật khác hoặc hậu quả gây thiệt hại cho công dân là kết quả của nhiều

hành vi trái pháp luật khác nhau. Trong mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát, hầu hết các vấn đề tố tụng quan trọng đều do Cơ quan điều tra
quyết định với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Vậy Cơ quan điều tra phải
chịu trách nhiệm hay Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm. Do đó, rất dễ dẫn
đến tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng dễ đùn đẩy nhau trong việc thừa
nhận hành vi trái pháp luật của mình và thực hiện trách nhiệm với công dân
nếu pháp luật thực định không xác định rõ nguyên tắc, chủ thể bồi thường.
1.2. BẢN CHẤT CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC VÀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Bản chất của trách nhiệm bồi thƣờng nhà nƣớc
Quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước là quan hệ
pháp luật dân sự hay quan hệ pháp luật hành chính? Quan điểm truyền thống
mà nhiều quốc gia xác lập khi xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi thường
nhà nước thì quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước là
quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà một bên
chủ thể là Nhà nước. Bên cạnh đó, có một số quan điểm khác cho rằng quan
hệ pháp luật này là quan hệ pháp luật hành chính, vì một bên trong quan hệ
pháp luật này là Nhà nước; hoặc quan hệ pháp luật này vừa có tính hành
chính, vừa có tính dân sự.
Trách nhiệm bồi thường nhà nước là trách nhiệm trực tiếp hay trách
nhiệm thay thế? Đây là vấn đề thể hiện rõ tính chất pháp lý của mỗi quốc gia
về việc có thừa nhận hay không trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

19
Khi đặt câu hỏi là Nhà nước có phải chịu trách nhiệm hay không thì sẽ
có hai cách trả lời.
(1) Nếu câu trả lời là không, thì thay vì ban hành Luật Bồi thường nhà
nước sẽ là Luật bồi thường của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, các nhà
lãnh đạo nhà nước; hoặc sẽ tiếp cận vấn đề bằng cách khác là xây dựng một

luật về phúc lợi xã hội, theo đó nhà nước không có trách nhiệm phải bồi thường
mà sẽ dành một phần ngân sách cho các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho nạn nhân.
(2) Nếu câu trả lời là có, thì sẽ có Luật Bồi thường nhà nước. Cách thức
tiếp cận vấn đề trách nhiệm nhà nước của các quốc gia trên thế giới có hai loại
chủ yếu: thứ nhất là trách nhiệm nhà nước là trách nhiệm thay thế; thứ hai là
trách nhiệm trực tiếp. Cách thức tiếp cận trên khác nhau chủ yếu trên nhận
định về hành vi của công chức, theo đó, nếu coi hành vi của công chức là
hành vi của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước sẽ là trách nhiệm trực
tiếp. Ngược lại, nếu coi hành vi của công chức không phải là hành vi của Nhà
nước thì trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm thay thế.
Theo quan điểm trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm thay thế
cho rằng: Hành vi sai là hành vi của công chức và nếu gây thiệt hại thì công
chức phải bồi thường thiệt hại; tuy nhiên Nhà nước là bên gánh chịu trách
nhiệm thay cho công chức vì công chức hành động vì lợi ích của Nhà nước
chứ không vì bản thân họ, vì vậy người hưởng lợi ích là Nhà nước cũng nên
có trách nhiệm; mặt khác hành vi của công chức là hành vi công vụ, thực hiện
quyền lực nhà nước và vì vậy luôn tiềm ẩn rủi ro, vậy thì Nhà nước với tư
cách là người quy định việc thực hiện các hoạt động tiềm ẩn rủi ro cũng phải
gánh chịu rủi ro và phải bồi thường thiệt hại. Nhưng nếu quy trách nhiệm cho
công chức thì với khả năng tài chính của mình công chức không thể bồi
thường và như vậy người bị thiệt hại không được đảm bảo quyền lợi. Nhà
nước với trách nhiệm hiến định là phải bảo vệ công dân nên Nhà nước phải
bồi thường. Nếu quy định công chức phải bồi thường thì sẽ ảnh hưởng tiêu

20
cực đến tính lành mạnh trong hoạt động của Nhà nước, đó là công chức sẽ lo
ngại việc thực hiện công vụ gây thiệt hại và mình phải bồi thường nên họ sẽ
không thực hiện công việc của mình.
Trước hết, nếu công chức làm sai và phải bồi thường thì hoàn toàn tự
nhiên. Nhưng trong quan hệ nội bộ thì trong một số trường hợp người ta vẫn

nói "người cha gánh trách nhiệm cho con". Vì vậy, trong một số trường hợp
mà Nhà nước phải gánh chịu trách nhiệm cho công chức. Bên cạnh đó, trong
khoa học, có quan điểm cho rằng "ai là người hưởng lợi thì người đó phải
chịu rủi ro", người làm thuê tạo ra lợi ích cho công ty mà họ làm thuê, công
chức tạo ra lợi ích cho Nhà nước, vì vậy Nhà nước là người được hưởng lợi
khi công chức thực hiện công vụ, đặc biệt trong các hoạt động có tính cưỡng
chế thì những hoạt động này luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro lớn. Vì vậy, nếu Nhà
nước yêu cầu công chức phải thực hiện hoạt động có tính rủi ro thì Nhà nước
phải chịu rủi ro.
Liên quan đến tính hợp hiến của Luật Bồi thường nhà nước thì trước
hết ta cùng thừa nhận một điều rằng Nhà nước có trách nhiệm chung với toàn
xã hội. Liên hệ trách nhiệm này với việc yêu cầu công chức phải bồi thường
thì hoàn toàn mâu thuẫn nhau vì thực tế thì đa số trường hợp công chức không
có khả năng bồi thường cho người bị thiệt hại. Đây không phải là vấn đề pháp
lý mà là vấn đề mang tính chính sách.
Tóm lại, một quốc gia có thể lựa chọn thuyết về trách nhiệm thay thế
để áp dụng. Tuy nhiên, mỗi lý thuyết đều có hạn chế cũng như ưu thế, vì vậy
chúng sẽ được đánh giá, cân nhắc trước khi lựa chọn.
Có quan điểm khác lại cho rằng, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
là trách nhiệm trực tiếp. Bởi vì, hành vi của công chức là hành vi của Nhà
nước, vì vậy nếu công chức có hành vi gây thiệt hại thì chính là Nhà nước gây
thiệt hại (hay hành vi sai của công chức là hành vi sai của Nhà nước). Vậy
đương nhiên trong trường hợp này trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên,

21
vấn đề đặt ra là Nhà nước có thực sự tồn tại như một thực thể pháp lý thực sự
hay không. Trước hết cần thừa nhận với nhau rằng, trong xã hội luôn tồn tại
sự sai trái và điều này là hoàn toàn bình thường và vấn đề này nếu áp dụng
với con người là điều bình thường. Tuy nhiên, nếu áp dụng điều này với Nhà
nước thì cần phải tiếp cận dưới góc độ của Bộ luật Dân sự. Nếu áp dụng quy

định của Bộ luật Dân sự để xác định trách nhiệm trực tiếp thì trách nhiệm
phải là của một người cụ thể nào đó. Vì vậy, nếu không coi Nhà nước là một
thực thể pháp lý tồn tại thực sự thì không thể áp dụng các quy định của Bộ
luật Dân sự khi xác định trách nhiệm trực tiếp (pháp luật Nhật Bản quy định
rõ Nhà nước là một pháp nhân- tức là Nhà nước là một thực thể pháp lý tồn
tại thực sự). Có thể lấy ví dụ trường hợp ô nhiễm môi trường, trường hợp dịch
cúm lây lan trên diện rộng v.v thì người dân có thể kiện chính quyền vì đã
không có biện pháp dự phòng, cảnh báo thích hợp. Trường hợp này nếu áp
dụng quan điểm về trách nhiệm thay thế thì sẽ phải xác định trách nhiệm
thuộc về ai, cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Trách nhiệm này có thể thuộc về
sở y tế, chính quyền địa phương, thậm chí nếu suy diễn tiếp tục thì trách nhiệm
lại thuộc về các cơ quan trung ương. Áp dụng quan điểm về trách nhiệm trực
tiếp trong trường hợp này thì người bị thiệt hại chỉ cần biết người phải bồi
thường ở đây là Nhà nước. Ở Nhật Bản, chính từ những thực tiễn về những
nạn dịch mà người ta bắt đầu hướng tới lựa chọn trách nhiệm trực tiếp. Trên
cơ sở này chúng ta có thể xây dựng những quy định liên quan đến việc miễn
trách nhiệm cho công chức. Về mặt cơ học, vật lý thì có thể hành vi gây thiệt
hại do công chức thực hiện, song về mặt pháp lý thì đây là hành vi của Nhà
nước. Chúng ta cũng có thể xây dựng những quy định về trách nhiệm của
công chức trong trường hợp họ làm sai do cố ý không tuân thủ các quy định
về chế độ công vụ, những quy định khác về nghề nghiệp v.v
Ngoài ra, quan điểm về trách nhiệm trực tiếp cho phép quy trách
nhiệm cho Nhà nước chỉ trên cơ sở hành vi trái pháp luật và hậu quả mà
không cần xét đến yếu tố lỗi. Có thể nói Điều 619 Bộ luật Dân sự năm 2005

22
của Việt Nam đã thể hiện được nội dung cơ bản của quan điểm về trách nhiệm
trực tiếp, theo đó cơ quan, tổ chức của Nhà nước phải bồi thường mà không
tính đến yếu tố lỗi của công chức, sau đó công chức phải bồi hoàn lại cho cơ
quan, tổ chức trong trường hợp họ có lỗi.

Vấn đề hoàn trả trong trách nhiệm trực tiếp cũng có cách hiểu khác
với trách nhiệm thay thế, vì khi đã coi công chức là một phần của Nhà nước
thì không tồn tại việc hoàn trả; tuy nhiên luôn tồn tại mối quan hệ nội bộ giữa
công chức và Nhà nước. Nhà nước quy định chế độ công vụ, những quy định
khác về nghề nghiệp, nghiệp vụ cho công chức và công chức phải tuân thủ
những quy định này khi thực hiện công vụ. Trường hợp mà công chức gây thiệt
hại do vi phạm chế độ công vụ, vi phạm quy định về nghề nghiệp, nghiệp vụ
thì công chức phải bồi hoàn cho Nhà nước vì chính sự vi phạm này đã gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước. Như vậy, có thể thấy hoàn trả trong trách
nhiệm trực tiếp hoàn toàn khác về bản chất so với bồi hoàn trong trách nhiệm
thay thế.
Có thể nói, hiện nay thuyết về trách nhiệm trực tiếp đang chiếm ưu thế
trên thế giới. Thuyết này có nhiều ưu điểm so với thuyết về trách nhiệm thay
thế. Có nhiều quốc gia hiện nay có pháp luật bồi thường nhà nước đều muốn
sửa đổi luật của mình theo hướng trách nhiệm trực tiếp. Ngay ở Đức gần đây
khi định xây dựng một luật về bồi thường nhà nước mới họ cũng định sửa
theo hướng áp dụng quan điểm về trách nhiệm trực tiếp. Ở Nhật Bản hiện
nay, về phương diện học thuật thì mặc dù thuyết trách nhiệm thay thế chiếm
ưu thế nhưng gần đây trong các phán quyết của Tòa án đã chuyển nhiều sang
hướng áp dụng thuyết về trách nhiệm trực tiếp.
Trên thế giới hiện nay có ba quan điểm chính về pháp luật bồi thường
nhà nước: (1) coi pháp luật bồi thường nhà nước là sự mở rộng của Bộ luật
Dân sự. (2) pháp luật bồi thường nhà nước là sự cụ thể hóa của Bộ luật Dân
sự, (3) pháp luật bồi thường nhà nước là một phần của pháp luật dân sự.

×