Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Nâng cao sức cạnh tranh của công ty cổ phần quốc tế sơn hà trên thị trƣờng miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.04 KB, 48 trang )

TÓM LƯỢC
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc hội nhập
kinh tế WTO, kinh tế Việt Nam chịu tác động của nhiều nhân tố. Các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải tìm ra các giải pháp, chiến lược kinh doanh để nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp, mang lại hiệu quả kinh doanh. Giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp là một trong những giải pháp được nhiều doanh nghiệp áp
dụng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phân tích thị trường, tìm ra lợi thế của
công ty để đưa ra giải pháp kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Chính vì vậy,qua quá trình thực tập tốt nghiệp em đã lựa chọn đề tài: “ Nâng
cao sức cạnh tranh của công ty cổ phần quốc tế Sơn Hà trên thị trường miền Trung”.
Đề tài tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Về lý thuyết khóa luận đã tập hợp được khái niệm, những lý thuyết cơ bản liên
quan đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của
doanh nghiệp làm cơ sở cho việc nghiên cứu các giải pháp đẩy nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Về thực tiễn, đề tài đánh giá khái quát thực trạng thị trường miền Trung và các
nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của công ty Sơn Hà trên thị trường miềnTrung.
Qua đó cũng rút ra được một số thành công mà công ty đã đạt được, đồng thời cũng
đưa ra một số hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đề tài đưa ra một số giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh của công ty cổ phần quốc tế Sơn Hà trên thị trường miền Trung. Từ đó công ty
có thể áp dụng các giải pháp vào kinh doanh nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh
cổ phần quốc tế Sơn Hà trên thị trường miền Trung.

1

1


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực tập tổng hợp và viết khóa luận tốt nghiệp của mình, em


đã nhận được sự giúp của Nhà trường, thầy cô khoa Kinh tế nói chung và bộ môn Kinh
tế thương mại nói riêng đã giúp em có được những kiến thức chuyên ngành, là nền
tảng vững chắc để vận dụng vào đề tài khóa luận này. Đồng thời, em cũng nhận được
sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị tại Công ty Công ty Cổ phần quốc tế Sơn Hà. Bên
cạnh đó, em còn nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ tận tình của gia đình bạn bè, người
thân, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài của mình.
Vì vậy, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tời các thầy cô giáo trong Khoa
Kinh tế và đặc biệt là tới cô TS. Phạm Thị Dự, người trực tiếp hướng dẫn, quan tâm,
tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa
luận này. Tiếp theo, em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, các cô chú, anh chị
trong Công ty Cổ phần quốc tế Sơn Hà đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình thực tập, tìm hiểu và viết khóa luận của mình. Và cuối cùng, em xin gửi lời cảm
ơn tới gia đình, bạn bè, người than là những nguồn cổ vũ, động viên quan trọng đối
với em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài
không thể tránh khỏi những thiếu. Do vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
cúa các thầy cô để bài khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 24/04/2017
Sinh viên thực hiện
Hoàng Văn Thành

2

2


MỤC LỤC

3


3


DANH MỤC BẢNG BIỂU

4

4


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1.Một số khái niệm cơ bản liên quan đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực
như: kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, thường xuyên được nhắc tới trong
sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông tin đại chúng
và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến có rất
nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành động
ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành
được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng
hay những thứ khác.
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng
(người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng
với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều

kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Theo Michael Porter: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh
là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong
ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”.
Tóm lại cạnh tranh của doanh nghiệp là cạnh tranh nhằm giành lấy thị phần.
Chính vì vậy để nâng cao sức cạnh tranh của mình, doanh nghiệp cần tận dụng những
lợi thế nhất định, đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp để có được thành công
và hiệu quả nhất. Một trong những chiến lược đó là nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm
của doanh nghiệp, đưa sản phẩm đến gần gũi hơn với người tiêu dùng, tạo được những
lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm đối với các sản phẩm của đối thủ.
1.1.2. Khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh: là khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng

5

5


nghiệp (Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội,
trang 349).
Khái niệm về sức cạnh tranh của quốc gia: Theo diễn đàn kinh tế thế giới 1997
(WEF), thì năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là “sức mạnh thể hiện trong hiệu
quả kinh tế vĩ mô, đó là năng lực của một nền kinh tế đạt được và duy trì mức tăng
trưởng bền vững, thu hút đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống
người dân trên cơ sở xác định các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc
trưng kinh tế khác”. Theo diễn đàn kinh tế thế giới WEF, năng lực cạnh tranh của quốc
gia được đo bằng tám chỉ tiêu: mức độ mở của nền kinh tế, vai trò của Nhà nước, vai
trò của thị trường tài chính, môi trường công nghệ, kết cấu hạ tầng, chất lượng quản trị

kinh doanh, hiệu quả và tính linh họat của thị trường lao động, môi trường pháp lý.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế
cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ
cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày
càng cao.( Nguồn: theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa
Hà Nội, trang 349)
“Sức cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có được nhằm
duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh” Theo tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của TS Nguyễn Văn Thanh:
Nhìn chung khi xác định sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải xem xét đến năng
lực và tiềm năng sản xuất, kinh doanh. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh
tranh khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá
thấp hơn sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về
chất lượng và dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.
1.2. Một số lý thuyết về nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Các yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo M.Porternăng lực cạnh tranh của một ngành, một doanh nghiệp được tạo
nên bởi 4 yếu tố. Porter đề cập về bốn thuộc tính này như là bốn yếu tố cấu tạo nên mô
hình kim cương. Ông lập luận rằng các công ty có khả năng thành công cao nhất trong
những ngành hoặc các phân ngành trong đó mô hình kim cương được thuận lợi nhất.
Ông cũng cho rằng mô hình kim cương là một hệ thống tương tác và củng cố lẫn nhau.
6

6


Tác động của một thuộc tính sẽ phụ thuộc vào tình trạng của các thuộc tính khác. Ví
dụ, theo Porter thì các điều kiện về cầu thuận lợi sẽ không mang lại lợi thế cạnh tranh

trừ khi tình hình cạnh tranh nội bộ ngành đủ để khiến công ty phải phản ứng lại các
điều kiện đó.

7

7


a, Các yếu tố bản thân doanh nghiệp
Điều kiện về các yếu tố sản xuất chính là trọng tâm của lý thuyết H-O. Khi mà
Porter không đề xuất bất cứ nội dung gì hoàn toàn mới, nhưng ông đã thực sự phân
tích kỹ các đặc tính của các yếu tố sản xuất. Ông thừa nhận sự phân cấp của các yếu tố
sản xuất, phân biệt giữa các yếu tố cơ bản (ví dụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí
hậu, vị trí địa lý và nhân khẩu học) và các yếu tố tiên tiến (ví dụ, hạ tầng truyền thông,
lao động có kỹ năng và trình độ cao, các thiết bị nghiên cứu, và bí quyết công nghệ).
Ông lập luận rằng các yếu tố tiên tiến đóng vai trò hết sức quan trọng trong lợi thế
cạnh tranh. Không giống như các yếu tố cơ bản được ưu đãi một cách tự nhiên,
các yếu tố tiên tiến lại là sản phẩm của sự đầu tư của các cá nhân, các công ty và của
chính phủ. Do vậy, các khoản đầu tư của chính phủ vào đào tạo cơ bản và nâng cao,
bằng cách cải thiện trình độ kiến thức và kỹ năng chung của dân chúng cũng như kích
thích nghiên cứu tiên tến tại các cơ sở giáo dụng cấp cao, có thể giúp nâng cấp các yếu
tố tiên tiến của một nước.
Mối quan hệ giữa các yếu tố tiên tiến và cơ bản là mối quan hệ phức hợp. Các
nhân tố cơ bản có thể cung cấp lợi thế ban đầu mà sau đó sẽ được củng cố và mở rộng
thông qua đầu tư vào các yếu tố tiên tiến. Ngược lại, bất lợi về các yếu tố cơ bản có thể
tạo ra những áp lực phải đầu tư vào các yếu tố tiên tiến. Một ví dụ rõ ràng nhất về hiện
tượng này là về Nhật Bản, một nước không có nhiều đất trồng trọt và các nguồn
khoáng sản, tuy nhiên thông qua đầu tư đã tạo lập được một sự dồi dào rất lớn các yếu
tố tiên tiến. Porter lưu ý rằng đội ngũ kỹ sư lành nghề đông đảo ở Nhật Bản (phản ánh
thông qua tỷ lệ số lượng người tốt nghiệp có bằng kỹ sư trên bình quân đầu người hơn

hẳn bất kỳ nước nào) là nhân tố chủ chốt dẫn tới sự thành công của Nhật Bản trong
nhiều ngành công nghiệp chế tạo.
b, Nhu cầu của khách hàng
Được thể hiện trực tiếp ở tiếm năng của thị trường. Thị trường là nơi quyết định
cao nhất năng lực cạnh tranh của một ngành, một doanh nghiệp. Thông thường, các
công ty thường tỏ ra nhạy cảm nhất với những nhu cầu của những khách hàng ở gần
với họ nhất. Do đó, những đặc điểm của nhu cầu thị trường trong nước đặc biệt quan
trọng trong việc định hình các thuộc tính của các sản phẩm được chế tạo trong nước và
trong việc tạo ra sức ép cho sự sáng tạo đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Thị
trường trong nước có những đòi hỏi cao về sản phẩm sẽ là động lực thúc đẩy các công
8

8


ty thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm nếu các công ty này muốn tồn tại. Cũng
tương tự như vậy, thị trường nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các sản
phẩm và dịch vụ đòi hỏi các công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài phải
có các chiến lược, cách ứng xử thỏa đáng. Đồng thời thị trường trong nước đang tiến
đến xu hướng quốc tế hóa nghĩa là không còn sự phân biệt giữa thị trường nước ngoài,
thị trường nội địa và nhu cầu nội địa. các sản phẩm sản xuất ra được tiêu chuẩn hóa
ngày càng cao và có tính chất quốc tế. Vì vậy, các yêu cầu đặt ra đối với thị trường nội
địa sẽ ngày càng cao gắn với nhu cầu của thị trường quốc tế.
c, Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Khả năng cạnh tranh của một ngành nói chung phụ thuộc rất lớn vào các ngành
công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan bởi vì các công ty nằm trong
ngành không thể tồn tại một cách tách biệt. các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là
các ngành cung cấp các đầu vào cho ngành có khả năng cạnh tranh. Theo sự phát triển
có tính chất tự nhiên, khi một ngành công nghiệp nổi lên với khả năng cạnh tranh hùng
mạnh thì sẽ làm xuất hiện một loạt các ngành hỗ trợ và các ngành có liên quan. Hệ

thống các ngành này có thể liên kết theo chiều dọc hoặc liên kết theo chiều ngang tạo
thành các cụm công nghiệp có mối liên hệ với nhau. Các mối liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa các ngành giúp cho các ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng khả
năng cạnh tranh của từng ngành, từng cụm công nghiệp đó. Cụ thể là các ngành công
nghiệp hỗ trợ có thể giúp các công ty nhận thức được các phương pháp mới và những
cơ hội mới để ứng dụng công nghệ mới.
Một trong những cụm như vậy mà Porter đã xác định được đó là ngành dệt may
của Đức. Ngành này bao gồm các ngành chế biến bông, len, sợi tổng hợp chất lượng
cao, máy khâu, và một loạt các máy móc liên quan tới ngành dệt. Những cụm ngành
như vậy là rất quan trọng bởi vì những kiến thức giá trị có thể lưu chuyển giữa các
công ty trong cùng một cụm về mặt địa lý, mang lại lợi ích cho tất cả các công ty khác
cùng nằm trong cụm đó. Các luồng kiến thức sẽ lưu chuyển khi nhân viên di chuyển
giữa các công ty trong phạm vi một khu vực địa lý và khi các hiệp hội ngành quốc gia
tập hợp nhân công từ các công ty khác nhau tại các cuộc hội thảo chuyên đề.
d, Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh
Chiến lược của công ty có ảnh hưởng lâu dài đến năng lực cạnh tranh của nó
trong tương lai bởi vì các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức các công ty trong
9

9


các ngành công nghiệp khác nhau rất lớn. Yếu tố này chi phối đến hoạt động đầu tư,
đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm và thị trường của từng
công ty và cả ngành. Bên cạnh đó, cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các công ty
trong một nước ngày càng gay gắt thì khả năng cạnh tranh quốc tế của công ty đó
ngày càng cao. Các đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với
việc giảm chi phí, cải thiện chất lượng, giá cả và sáng tạo ra các sản phẩm và các quá
trình mới. Điều này kích thích họat động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt hậu
trong quá trình vượt lên phía trước.

Đối thủ cạnh tranh tạo ra sức ép cho sự cải tiến, sáng tạo, nâng cao chất lượng,
giảm chi phí và đầu tư vào việc nâng cấp các yếu tố tiên tiến. Tất cả những điều này
giúp việc tạo ra các công ty có sức mạnh cạnh tranh. Porter trích dẫn trường hợp của
Nhật Bản: Không ở đâu vai trò của các đối thủ cạnh tranh trong nước lại rõ rệt như tại
Nhật Bản, nơi mà đó là một cuộc chiến tổng lực với nhiều công ty thất bại trong việc
tìm kiếm lợi nhuận. Với mục tiêu nhấn mạnh vào khía cạnh thị phần, các công ty Nhật
Bản liên tục nỗ lực không ngừng vượt hẳn lẫn nhau. Tỷ trọng thị phần biến động rất
lớn. Quá trình này được đề cập đến rất nhiều trên mạng lưới báo chí kinh doanh. Thứ
tự xếp hạng chi tiết đo lường xem những công ty nào quen thuộc nhất với các sinh
viên tốt nghiệp đại học. Tỷ lệ ra đời của các sản phẩm và sự phát triển quy trình mới
diễn ra không ngừng nghỉ.
Ngoài 4 nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của chính phủ cũng là những yếu tố
tạo nên năng lực cạnh tranh của một ngành, một doanh nghiệp. Các cơ hội thường tạo
ra những thay đổi đột ngột và làm thay đổi vị thế cạnh tranh. Các cơ hội có thể làm vô
hiệu hóa các lợi thế của các đối thủ cạnh tranh được hình thành trước đó và tạo ra tiếm
năng mà các công ty đạt được lợi thế cạnh tranh khi có các điều kiện mới.
1.2.2 Phân biệt sức cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Lợi thế cạnh thế cạnh tranh chính là kết quả từ sức cạnh tranh của công ty hay cụ
thể hơn là những lợi thế được doanh nghiệp tạo ra và sử dụng cho cạnh tranh thì được
gọi là lợi thế cạnh tranh. Sức cạnh tranh càng tốt, năng lực công ty càng cao thì việc
tạo ra các lợi thế về sản phẩm, lợi nhuận, giá cả chất lượng,...thì lợi thế cạnh tranh
càng cao

10

10


Lợi thế cạnh tranh còn được hiểu như là các đặc điểm hay các biến số của sản
phẩm hoặc nhãn hiệu, mà nhờ có chúng Doanh nghiệp tạo ra một số tính trội hơn, ưu

việt hơn so với những người cạnh tranh trực tiếp.
Lợi thế cạnh tranh được coi là bên ngoài khi chúng dựa trên chiến lược phân biệt
sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng cách giảm chi phí sử dụng,
hoặc bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho Doanh nghiệp "Quyền lực
thị trường".
Lợi thế cạnh tranh bên trong dựa trên tính ưu việt của Doanh nghiệp trong việc
làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người sản xuất bằng cách tạo ra cho
Doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với người cạnh tranh chủ yếu.
Sự giống nhau của lợi thế cạnh tranh và sức cạnh tranh:
- Đều hướng tới một mục địch về giá trị sản phẩm mang đến cho khách hàng là
khác biệt, vượt trội về giá cả dịch vụ mẫu mã
- Hướng tới lợi ích của doanh nghiệp là mang về tối đa thị phần với chi phí tối
thiểu và lợi nhuận tối đa
Điểm khác nhau của lợi thế cạnh tranh và sức cạnh tranh
- Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế về tỷ lệ lợi nhuận của nó cao hơn tỷ lệ bình
quân ngành trong khi sức cạnh tranh đang trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận này. Hay
nói chung là quá trình đạt đến sức cạnh trạnh tốt nhất của công ty thì cần phải đạt đến
những lợi thế cạnh tranh cao nhất
- Bốn nhân tố tạo nên lợi thế cạnh tranh chủ yếu từ chi phí doanh nghiệp là:
+Hiệu quả,
+ Chất lượng,
+ Sự cải tiến,
+Đáp ứng khách hàng.

11

11


Trong khi các nhân tố cấu thành nên sức canh tranh lại thuộc về yếu tố ngành bao

gồm cả doanh nghiệp từ
+ Các yếu tố bản thân doanh nghiệp
+ Nhu cầu của khách hàng
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
+ Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các nhân tố được thể hiện rõ qua mô hình Micheal Porter thuộc môi trường
ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia hoạt động sản
xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường cạnh tranh của doanh
nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận. Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ
bản là
a, Đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn
- Đối thủ cạnh tranh: Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt các đối thủ
cạnh tranh. Vấn đề quan trọng ở đây là không được coi thường bất kỳ đối thủ nào,
nhưng cũng không nên coi đối thủ là kẻ thù. Có thể nói rằng khi doanh nghiệp này với
các doanh nghiệp khác mới bắt đầu bước chân vào thị trường thì họ là những đồng
nghiệp, những đối tác để gây dựng thị trường, để hình thành nên một khu vực cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng. Nhưng khi đó người khách hàng đầu tiên
bước vào khu vực thị trường này, thì họ sẽ trở thành đối thủ của nhau, họ tìm cách để
lôi kéo khách hàng về phía mình.
Trong những thời điểm và những giai đoạn khác nhau thường có những đối thủ
cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để
chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến
lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung những đặc điểm
mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm của mình có những đặc
điểm khác biệt nổi trội hơn trên thị trường, doanh nghiệp nên đề phòng và lường trước
các đối tác làm ăn, các bạn hàng, bởi vì họ có thể trở thành những đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn.
12


12


Nếu ở trong một thị trường kinh doanh nhất định, doanh nghiệp vượt trội lên các
đối thủ về chất lượng sản phẩm, về giá cả và chất lượng phục vụ thì doanh nghiệp đó
có khả năng cạnh tranh và sẽ có điều kiện để tiến xa hơn so với các đối thủ.
- Đối thủ tiềm ẩn: là các doanh nghiệ hiện không có trong ngành nhưng sản xuất
cùng một loại sản phẩm có khả năng tham gia hoạt động kinh doanh trong ngành đó,
như các doanh nghiệp sản xuất bồn chứa công nghiệp. Khi có đối thủ mới tham gia
trong ngành có thể là yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm hiện đang
trong ngành từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ dựa vào khai thác các
năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một phần thị phần. Do đó, để bảo
vệ cho vị trí cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp thường quan tâm đến duy trì
hàng rào hợp pháp ngăn sự xâm nhập từ bên ngoài.
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do
mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là
kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn đạt được thành công các doanh nghiệp cần
phải chú ý và giành nguồn lực để phát triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến
lược của mình.
b, Nhu cầu của thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp.
Nhu cầu thị trường hay chính là khách hàng những người đang mua và sẽ mua
hàng của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết định
của khách hàng thể hiện ở các mặt sau:
Khách hàng quyết định hàng hóa của doanh nghiệp được bán theo giá nào;
phương thức bán hàng và phương thức phục vụ khách hàng do khách hàng lựa chọn, vì
trong nền kinh tế thị trường người mua có quyền lựa chọn theo ý thích của mình và
đồng quyết định phương thức phục vụ của người bán. Điều này cho thấy tính chất

quyết định của khách hàng làm cho thị trường chuyển từ thị trường người bán sang thị
trường người mua, khách hàng trở thành thượng đế. Do vậy doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi yếu tố khách hàng, khách hàng có thể ganh đua với doanh nghiệp
bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn, hoặc ép giảm giá xuống, mặt khác
khách hàng còn làm cho các đối thủ cạnh tranh chống chọi lại nhau và dẫn đến làm
tổn hao đến làm tổn hao đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhóm khách hàng thường
gây áp lực với doanh nghiệp là những nhóm khách hàng tập trung và mua với khối
lượng lớn.
Bên cạnh đó sự yêu cầu của khách hàng cũng sẽ gây áp lực làm tụt giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ nếu doanh nghiệp không
13

13


theo đuổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng thì họ sẽ có xu hướng
chuyển dịch sang những doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó có thể đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của họ. Hiện tượng này dẫn đến lượng khách hàng sẽ giảm đi và ngày một
thưa dần nếu doanh nghiệp không kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ. Và như vậy sức
cạnh tranh sẽ giảm sút. Điều đó chứng tỏ yếu tố khách hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp.
c, Nhà cung cấp nguồn hàng.
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bỏa cho
hoạt động kinh doanh của donah nghiệp được tiến hành ổn định theo kế hoạch đã định
trước. Vấn đề đặt ra là yêu cầu của việc cung cấp phải đầy đủ về số lượng, kịp thời về
thời gian, đảm bảo về chất lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự sai lệch trong quan hệ
với nhà cung cấp đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó
sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh nghiệp
phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với phương châm là

đa dạng hóa các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “không bỏ tiền vào một ống”.
Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên tìm cho mình một nhà cung cấp chính
có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc, cần phải xây dựng kế hoạch
cung ứng cho mình. Như vậy doanh nghiệp cần phải thiết lập mối quan hệ lâu dài với
các nhà cung cấp để họ cung cấp đầy đủ về số lượng.
d, Nguồn lực của doanh nghiệp.
* Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực được coi là vấn đề vô cùng quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và sản phẩm. Một nguồn nhân lực kém
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất
bại của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia thành hai cấp:
- Đội ngũ quản lý: gồm ban lãnh đạo và đội ngũ trực tiếp quản lý sản xuất, kinh
doanh sản phẩm. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh
và xu hướng phát triển sản phẩm trong tương lai. Nếu họ là những người có kinh
nghiệm, có khả năng nhìn xa trông rộng và đưa ra các quyết định đúng đắn thì doanh
nghiệp đó sẽ có những sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
- Đội ngũ trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh: đội ngũ này chi phối trực tiếp
đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua các yếu tố như: năng suất lao động,
trình độ tay nghề, kỉ luật lao động, ý thức trách nhiệm, sự sáng tạo của họ…. Các yếu
tố này kết hợp với yếu tố khoa học công nghệ sẽ ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng,
giá thành sản phẩm… góp phần quyết định nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

14

14


* Nguồn vốn: vốn là yếu tố có vai trò quan trọng đảm bảo cho việc duy trì, mở
rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp có
nguồn vốn ổn định, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có điều kiện
để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa đổi mới, nâng cao

chất lượng của sản phẩm; có khả năng thực hiện tốt công tác bán hàng và dịch vụ sau
bán… tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn cho sản phẩm.
*Khoa học công nghệ: đây là yếu tố đại diện cho sự sáng tạo, tiên tiến, cho sản
phẩm mới cũng như loại bỏ những sản phẩm cũ, lạc hậu; tạo cho doanh nghiệp chỗ
đứng vững chắc trên thị trường. Một sản phẩm mới ra đời không thể thiếu được sự
đóng góp của quá trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Công nghệ hiện đại sẽ giúp
doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng, giá thành hạ do năng suất lao động tăng, hao phí nhỏ…
*Cơ sở vật chất kỹ thuật: là yếu tố hỗ trợ quan trọng giúp tạo nên sức cạnh tranh
của sản phẩm cửa. Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại sẽ làm tăng năng suất lao động,
hiệu quả sản xuất cao hơn, hao phí nhỏ… dẫn tới số lượng sản phẩm tăng, chi phí cận
biên giảm và như vậy giá thành sản phẩm hạ nhờ đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm
so với đối thủ.
e, Môi trường ngành kinh doanh.
- Môi trường ngành: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là
nhân tố quan trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một ngành
kinh tế tăng trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên
đồng nghĩa với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc độ tích luỹ vốn
đầu tư trong nền kinh tế cũng tăng lên, mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng
lên cao, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là
cơ hội tố cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình,
không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối
với những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
- Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
+Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế thuộc môi trường vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu
nhập bình quân đầu người, lãi suất ngân hàng,….có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
cạnh tranh của sản phẩm.
Lãi suất ngân hàng: lãi suất ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh
của sản phẩm. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người sản xuất cũng như người tiêu

dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa của mình.
15

15


Đồng thời, lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đó quyết định mức đầu tư.
Nếu lãi suất ngân hàng cho vay cao sẽ dẫn đến chi phí đầu vào tăng lên, giá thành sản
phẩm cũng vì thế tăng lên. Do đó sức cạnh tranh của hàng hóa sẽ giảm đi nhất là khi
đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn. Và ngược lại, nếu lãi suất ngân hàng thấp
sẽ làm giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm hạ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất và cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị
trường bằng công cụ giá.
+ Các yếu tố về pháp luật.
Yếu tố pháp luật được thể hiện bởi việc ban hành các chính sách, hành lang pháp lý
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp. Đây là một trong
những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mở
rộng quan hệ với nhiều doanh nghiệp khác, tìm kiếm thị trường công nghệ mới, thu thập
thông tin, trao đổi học tập kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công ty
+Các yếu tố về văn hóa xã hội- dân số
Tất cả các doanh nghiệp đều phải phân tích các yếu tố xã hội, tốc độ tăng dân số
để nhận biết các nhu cầu cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra đối với sản phẩm của mình.
Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến các sản phẩm như trình
độ dân trí, tập quán thị hiếu của người tiêu dùng, truyền thống văn hóa dân tộc
+ Các yếu tố về khoa học công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trên thế giới đã có những ảnh hưởng lớn
tới nước ta. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng
công nghệ mới, tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình để nâng cao năng lực
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
1.2.4. Sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tồn tại như một quy luật kinh tế tất yếu
do vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh thị trường luôn được đặt ra đối với các
doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cần thiết vì:
- Một là, Trong điều kiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, để tồn tại và
đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp cần phải cạnh tranh gay gắt không chỉ với
các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài, với
tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và có sức mạnh thị trường đặc
biệt là các doanh nghiệp như Trung Quốc. Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
là việc làm cấp bách để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh một cách lành mạnh và hợp
16

16


pháp trên thương trường. Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh và những điều
kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, phù hợp với thị hiếu nhu cầu của người
tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh
nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Hai là, nâng cao sức cạnh tranh không chỉ nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho
doanh nghiệp, mà còn góp phần vào sự tăng trưởng của ngành và trách nhiệm với xã
hội. Không những thế, với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện hiện nay,
việc nâng cao sức cạnh tranh ở các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng, và
quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi lẽ, mục đích cuối cùng trong hoạt
động kinh doanh, của doanh nghiệp là mang lại càng nhiều lợi nhuận, ngoài ra giúp
doanh nghiệp học hỏi và phát triển nhiều hơn. Khi đó việc nâng cao sức cạnh tranh, tại
các doanh nghiệp được xem như là một chiến lược không thể thiếu, trong định hướng
phát triển và nó góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu doanh nghiệp. Bất kì một
doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều có những
mục tiêu nhất định. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp và thị

trường mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Để đạt được các
mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới
bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm
đạt chất lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Chỉ có
cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triền.
- Ba là, doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển. Ngày nay trong nền kinh
tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một yếu tố kích thích kinh doanh. Quy
luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, sản xuất hàng hóa ngày càng
phát triển thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Do vậy, muốn phát triển thì doanh
nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Muốn phát triển được thì doanh
nghiệp cần phải phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với
đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả năng phát triển và nâng cao vị thế
của mình trên thị trường.
1.3 Nội dung và nguyên lý nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1

Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Có rất nhiều các chỉ tiêu để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp cả về định
lượng lẫn định tính. Nhưng ta có thể kể tới một số chỉ tiêu quen thuộc như sau:
17

17


a, Sản lượng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sản lượng và giá bán sản phẩm qua các
năm. Thông qua chỉ tiêu doanh thu từng năm, ta có thể biết được kết quả kinh doanh là
tăng hay giảm, có chiều hướng tốt hay xấu. Nhưng để xét xem việc kinh doanh của
công ty đó có hiệu quả hay không thì cần phải xét đến chi phí để sản xuất ra các sản

phẩm, từ đó biết được lợi nhuận mà doanh nghiệp thu lại được. Doanh thu nhiều hơn
và có tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp ra
quyết định mở rộng đầu tư sản xuất sản phẩm đó. Một công ty duy trì được doanh thu
và lợi nhuận tăng cao thì đồng nghĩa với việc công ty đó có năng lực cạnh tranh cao và
ngược lại. Đây là một trong những chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá năng lực cạnh
tranh của công ty khi tham gia thị trường.
D=P*Q
Trong đó: D: doanh thu các sản phẩm của doanh nghiệp.
P: giá của sản phẩm
Q: lượng sản phẩm bán ra.
b, Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường qua từng năm
Thị phần thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp có thị phần lớn và tăng dần sẽ là một sản phẩm có uy tín với người tiêu dùng,
được nhiều người tiêu dùng lựa chọn.
Thị phần đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn thì
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Tuy nhiên với các công
ty mới xâm nhập thị trường thì không thể lấy chỉ tiêu này để đánh giá được mà phải
kết hợp thêm chỉ tiêu Tốc độ tăng trưởng của doanh thu hay thị phần.
Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh
cao và ngược lại.
Thị phần tuyệt đối: dựa trên số lượng sản phẩm bán ra hoặc doanh thu thu được
và được tính theo công thức:
Doanh thu các sản phẩm của công ty
* Thị phần tuyệt đối công ty =
Tổng doanh thu các sản phẩm cùng loại của
các hãng trên thị trường
*Thị phần tương đối: là tỷ lệ thị phần của công ty so với đối thủ cạnh tranh
Doanh thu sản phẩm của công ty
Thị phần tương đối của công ty =
c, Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

18

Doanh thu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
18


Mục tiêu cuối cùng của kinh doanh là lợi nhuận, nếu không thu được lợi nhuận
thì đó không phải là kinh doanh. Do vậy, để đánh giá được sức cạnh tranh của doanh
nghiệp thông qua hiệu quả kinh doanh, thì cần phải tính được lợi nhuận tuyệt đối từ
các sản phẩm cũng như tỷ suất lợi nhuận sản phẩm nhằm xác định được khả năng thu
được lợi nhuận của công ty. Ta có công thức sau:
Lợi nhuận của doanh nghiệp = Tổng doanh thu - Tổng chi phí kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận được xác định bằng tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ
với doanh thu bán hàng đạt được trong kỳ của doanh nghiệp.

1.3.1

: tỷ suất lợi nhuận
: tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ
: Doanh thu tiêu thụ đạt được trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận từ sản phẩm trên một đồng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này
càng cao thì lợi nhuận do sản phẩm mang lại cho doanh nghiệp càng cao.
Lợi nhuận sản phẩm là chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên,
lợi nhuận sản phẩm không phải là tất cả, sức cạnh tranh không chỉ có ý nghĩa là mức
lợi nhuận nhiều hay ít, mặc dù trong thực tế các doanh nghiệp chỉ tồn tại và phát triển
trên cơ sở của lợi nhuận, mà còn là vị thế của doanh nghiệp trên thị trường và các
chiến lược kinh doanh khác của doanh nghiệp…
d, Các chỉ tiêu khác
Các chỉ tiêu liên quan đến công nghệ sản xuất, liên quan đến chất lượng sản

phẩm dịch vụ bán hàng bảo hành hay nói chung là sức cạnh tranh của sản phẩm. Một
sản phẩm có tính cạnh tranh mạnh hay không sẽ phụ thuộc vào có độ bền cao không,
giá thành có đúng với chất lượng sản phẩm không, mẫu mã có đẹp và hợp với đa số
người tiêu dùng hay không và chất lượng chăm sóc khách hàng có nhiệt tình chu đáo
hay không đều có yếu tố giúp đẩy nhanh sức tiêu thụ sản phẩm tăng sức cạnh tranh của
một doanh nghiệp rất nhiều.
Các nguyên tắc, chính sách nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
a, Các nguyên tắc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Sáng tạo ra các các giá trị cao, độc lập.
Các doanh nghiệp với nguồn lực hạn hẹp, thường lo sợ lợi thế về quy mô và sức
mạnh tài chính của các doanh nghiệp lớn. Thực ra, ngay cả các doanh nghiệp lớn cũng
luôn tránh được cuộc cạnh tranh đối đầu về giá. Bản chất hoạt động kinh doanh là tạo
ra giá trị cho cộng đồng, cụ thể là cho khách hàng. Giá trị được tạo ra càng lớn thì
phần thưởng (lợi nhuận, uy tín, sự trung thành của khách hàng, nguồn lực...) mà công
ty nhận được từ khách hàng càng lớn. Vì thế, các doanh nghiệp cần tập trung tìm hiểu
19

19


nhu cầu của xã hội, khách hàng, phải có chiến lược kinh doanh riêng, bảo đảm tạo ra
những giá trị cao, độc đáo cho khách hàng.
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nổi lên trong việc tạo ra chỗ
đứng riêng như bưởi Năm Roi, tranh cát, hoa đất sét... Hiệu quả này xuất phát từ việc
nắm bắt những nhu cầu của khách hàng, từ đó tạo ra giá trị làm thỏa mãn những nhu
cầu cụ thể của khách hàng.
- Chú trọng hơn nữa đến yếu tố dịch vụ
Các nền kinh tế lớn hiện nay đều là nền kinh tế dịch vụ. Xu thế này cũng được
thể hiện rất rõ khi Việt Nam hội nhập. Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế ngày
càng gia tăng. Vì vậy, đây là lĩnh vực mà các doanh nghiệp có thể khai thác cho tương

lai lâu dài và bền vững của mình. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp biết khai thác tốt hơn
nữa các dịch vụ kèm theo sẽ mang lại hiệu quả nhân đôi, nhân ba.
Do gần gũi và hiểu rõ nhu cầu cụ thể của khách hàng, doanh nghiệp có lợi thế rất
lớn trong việc tạo ra các dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu đó. Khi đáp ứng dịch vụ
tốt, không ai có thể cạnh tranh được với họ.
- Có tầm nhìn dài hạn về sự phất triển.
Mỗi công ty trước ngày thành lập họ không chỉ với ý định hoạt động một vài năm
rồi rút khỏi thị trường, họ đều có tham vọng không chỉ trong nước mà ngày nào nó
mang sức mạnh của mình đi “ đánh xứ người” . Vì vậy, các doanh nghiệp họ đều có
định hướng và có tầm nhìn dài hạn của riêng mình để có động lực thúc đẩy sự phát
triển của riêng mình
Chẳng hạn như Henry Ford đã có một tầm nhìn "dân chủ hóa thị trường xe hơi".
Ông muốn mỗi người lao động bình thường với thu nhập trung bình, cũng có thể sở
hữu một chiếc xe hơi. Tầm nhìn này đã biến Ford Motor từ một công ty gia đình trở
thành Tập đoàn hùng mạnh như ngày nay. Hay chính Sơn Hà cũng vậy với mong
muốn không chỉ mong muốn các hộ gia đình ở thành thị được dùng nước sạch mà
ngay cả các hộ dân nông thôn và kể cả người miền núi dân tốc được sử dụng nguồn
nước sạch hàng ngày và các sản phẩm tiện ích để phục vụ cho đời sống khó khăn của
họ. Chính tầm nhìn ấy đã thúc đẩy doanh nghiệp phải phát triển nhanh hơn nữa để thực
hiện tham vọng của riêng mình
Tầm nhìn dài hạn sẽ giúp các doanh nghiệp hình thành được hệ thống sản xuất
kinh doanh phù hợp, từng bước chuyên nghiệp hóa trong sự phát triển. Từ đó, doanh
nghiệp mới có thể bảo đảm năng lực quản lý các hệ thống lớn trong tương lai không
xa. Thường xuyên học tập và phát triển năng lực, chuẩn bị cho tương lai tươi sáng hơn
là nhiệm vụ cáp bách của doanh nghiệp hiện nay.
- Tìm những thị trường phù hợp
20

20



Khi mà các phân khúc thị trường như thành thị có thu nhập cao và ổn định đến
một thời gian nào đó bị bão hòa thì các doanh nghiệp bắt đầu đi tìm thị trường mới
như nông thôn, khu vực dân trí thu nhập thấp, hay ra nước ngoài để tìm kiếm cơ hội
với thị trường đang chưa bão hòa để duy trì sản xuất, duy trì doanh thu
- Cạnh tranh dựa trên yếu tố tốc độ
Các doanh nghiệp lớn luôn có bộ máy cồng kênh, các quy trình và thủ tục phức
tạp nên thường gặp nhiều khó khăn và chậm chạp trong quá trình chuyển đổi sản phẩm
hoặc dịch vụ. Trong thời đại toàn cầu hóa và số hóa hiện nay, phần thắng luôn thuộc về
các công ty kịp thời thỏa mãn nhu cầu và yêu cầu của khách hàng. Ai gần với khách
hàng hơn, nắm bắt nhanh hơn, phản ứng tốt với sự thay đổi này và làm khách hàng
thỏa mãn sẽ được lựa chọn.
b, Các chính sách nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
 Cạnh tranh về giá cả đối với các sản phẩm cùng loại
Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp. Do
vậy, giá cả cũng đánh giá sản phẩm cửa của doanh nghiệp có sức cạnh tranh hay
không. Thông thường nếu giá cả của một loại sản phẩm nào đó thấp hơn, nó sẽ có sức
cạnh tranh hơn sản phẩm cùng loại kia. Đây là yếu tố quyết định sức mua sản phẩm
của người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng chưa đủ mà còn
phải phù hợp với “túi tiền” của họ. Điều quan trọng với doanh nghiệp là làm sao đáp
ứng đúng thị hiếu và túi tiền của người tiêu dùng.
Khi đánh giá sức cạnh tranh của công ty dựa trên chỉ tiêu giá cả người ta thường
chú ý đến giá thành sản xuất ra sản phẩm. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản
phẩm là chi phí sản xuất, nhu cầu về sản phẩm,...trong đó chi phí sản xuất là yếu tố
ảnh hưởng lớn nhất đến giá bán sản phẩm. Giá thành sản xuất ra một sản phẩm nào đó
càng thấp thì giá bán trên thị trường càng rẻ, do vậy sản phẩm cửa đó có sức cạnh
tranh về giá, có khả năng thâm nhập vào nhiều thị trường người tiêu dùng, đa dạng hóa
khách hàng
 Chính sách về khác biệt hóa sản phẩm
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội cũng

ngày càng được nâng cao về nhiều mặt. Trong cuộc sống ngày nay, nhu cầu của con
người không chỉ bó gọn ở mức độ thấp như có ăn, có mặc mà phải là ăn ngon mặc đẹp
ngoài ra còn có nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thẩm mĩ rất cao. Các sản phẩm
không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi chúng chỉ mang " ích lợi cốt lõi "
đơn thuần mà còn phải mang tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về chủng loại.
Đối với sản phẩm cửa thì việc mang lại những giá trị đích thực phù hợp với nhu cầu
ngày càng cao của con người là việc đáng quan tâm. Vì vậy, đa dạng hóa, khác biệt
21

21


hóa sản phẩm là một trong các công cụ cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp, tạo ra
nhiều mặt hàng mới phong phú với chất lượng cao tăng phương án sản phẩm để người
tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn. Khác biệt hóa sản phẩm là việc đưa ra một sản
phẩm khác hẳn sản phẩm của đối thủ sao cho khách hàng đánh giá cao sản phẩm của
mình, thông thường các doanh nghiệp thường “ tạo giá trị khách hàng”, “cung cấp giá
trị thấy được”, và “khó bắt chước”. Thực tế cho thấy hiện nay doanh nghiệp luôn cố
gắng làm mới và mở rộng danh mục sản phẩm của mình dựa trên sự hoàn thiện không
ngừng các sản phẩm hiện có song song với việc đưa vào sản xuất những mặt hàng mới
đón đầu nhu cầu thị trường, tạo thế chủ động của doanh nghiệp trên thương trường. Sự
phong phú và biến đổi không ngừng của thị trường đã đòi hỏi doanh nghiệp phải năng
động sáng tạo trong việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm " động " thông qua hoạt động đa
dạng hoá sản phẩm mới có thể tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt "
thương trường là chiến trường ".
 Cạnh tranh bằng dịch vụ phân phối sản phẩm của doanh nghiệp

Dịch vụ phân phối các sản phẩm công ty được tiến hành thông qua dịch vụ khách
hàng. Do vậy, công ty có sức cạnh tranh cao còn phải phụ thuộc vào hoạt động tổ chức
kênh phân phối của doanh nghiệp. Đó là toàn bộ quá trình nghiên cứu, thăm dò thị

trường và đánh giá thông tin để đưa ra những kết luận về thị trường tiêu thụ tiềm năng
của doanh nghiệp, nhu cầu sản phẩm sẽ tăng lên như thế nào trên thị trường này và từ
đó mở rộng kênh phân phối ra các thị trường đó bằng các hình thức như đại lý, cửa
hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm,... Sản phẩm có chất lượng tốt, kiểu dáng mẫu
mã sang trọng, bền đẹp thì sức cạnh tranh sẽ được tăng lên khi nó đến được tay người
tiêu dùng thời điểm và địa điểm.
 Chính sách tập trung vào một phân khúc thị trường nhất định

Doanh nghiệp có thể lựa chọn một khúc thị trường để phục vụ. Doanh nghiệp
nhìn vào tính hấp dẫn về lợi nhuận để lựa chọn khúc thị trường này. Ở đây,đoạn thị
trường được chọn có thể chưa có đối thủ cạnh tranh hoặc là thị trường duy nhất mà
doanh nghiệp chọn để chỉ bán những loại sản phẩm phù hợp với thị trường đó. tập
trung vào thị trường mà doanh nghiệp có ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ khác
(ưu thế chi phí thấp nhất hay khác biệt hoá sản phẩm). chính sách này giúp doanh
nghiệp có thể tập trung phát triển bất cứ năng lực đặc biệt nào mình có nhằm tạo ra lợi
thế cạnh tranh cho mình, hoặc là sự khác biệt hoặc là lợi thế về chi phí. Vì vậy, doanh
nghiệp có thể tìm kiếm lợi thế chi phí và tạo ra hiệu quả cao hơn trong sản xuất với chi
phí thấp trong một vùng. Hoặc doanh nghiệp có thể tạo ra những kỹ năng tốt hơn trong
22

22


việc đáp ứng yêu cấu khách hàng dựa vào khả năng của doanh nghiệp phục vụ nhu cầu
của khách hàng trong vùng theo những khách hàng mà doanh nghiệp theo chiến lược
khác biệt không thể làm được hoặc có làm cũng bị chi phí cao.

23

23



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
QUỐC TẾ SƠN HÀ TRÊN THỊ TRƯỜNG MIỀN TRUNG
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của
công ty cổ phần quốc tế Sơn Hà trên thị trường miền Trung
2.1.1. Tổng quan tình hình sức cạnh tranh của công ty
Công ty cổ phần quốc tế Sơn Hà được biết đến là đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực
cung cấp các sản phẩm về thép không gỉ và các sản phẩm dân dụng: Bồn chứa nước
Inox, bồn nhựa- chậu rửa Inox, ống Inox - Bình năng lượng mặt trời - Thiết bị nhà bếp.
Chính từ những thành công ban đầu về các sản phẩm Inox không gỉ đầy tiềm năng này,
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, càng ngày có nhiều doanh
nghiệp mới ra đời học hỏi công nghệ và hòa nhập vào thị trường nói trên mà giờ đầy
không chỉ Sơn Hà mà còn nhiều doanh nghiệp khác cũng đã bắt đầu có nhiều đối thủ
cạnh tranh trực tiếp với mình không nhiều thì ít các mặt hàng họ đã thành công sẵn
trên thị trường nhằm lấy đi một phần lợi nhuận và thị phần của nhau. Và diễn biến quá
trình cạnh tranh này càng trở nên khốc liệt hơn khi các doanh nghiệp cạnh tranh trực
tiếp với Sơn Hà như tập đoàn Tân Á Đại Thành, tập đoàn Tân Mỹ, hay một số công ty
nhỏ hơn như Toàn Thắng không chỉ cạnh tranh về nhiều loại mặt hàng từ bồn chứa
nước, các sản phẩm gia dụng Inox, bình nóng lạnh, thái dương năng mà cạnh về giá cả,
đối tượng khách hàng, chất lượng và cả thị trường điều đó được thể hiện rõ nhất qua
thị trường miền Bắc khi mà độ bão hòa về sản phẩm rất cao đặc biệt là Hà Nội.
Chính vì vậy để đạt được doanh thu lợi nhuận cao ở khu vực này là hết sức khó
khăn, và để đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng cao mà vẫn đảm bảo cho công ty
phát triển vững mạnh thì bước tiến dễ nhất là phải mở rộng thị trường và miền
Trung là một trong số đó . Nhưng với những yếu tố đang còn hạn chế sơ bộ như chi
phí đầu tư, nguồn nhân lực, công nghệ hay cơ cấu tổ chức của công ty thì việc mở
rộng thì trường còn khá hạn chế đặc biệt đáp ứng nhu cầu khách hàng thì cần thiết
phải mở một nhà máy mới cho khu vực này, chính vì vậy mà công ty đã có một
bước đi chậm hơn so với đối thủ đặc biệt là Tân Á Đại Thành đối thủ chính của

công ty ở hầu hết sản phẩm lẫn thị phần. Nhưng nhờ nỗ lực không ngừng thì công
ty đã phần nào lấy lại được một phần của thị trường tới thời điểm tháng 12/ 2016
thông qua các con số biết nói sau đây:
Sản phẩm bồn chứa nước Inox mang thương hiệu Sơn Hà hiện chiếm khoảng
35% thị phần bồn chứa nước tại miền Trung. Trong khi các đối thủ cạnh tranh trực tiếp
như Tân Á chiếm khoảng 47%, Tân Mỹ 10% và 8% cho các nhà sản xuất khác. Với
nhà máy sản xuất tại Nghệ An các sản phẩm bồn Inox cung cấp cho thị trường ngày
24

24


càng dồi dào đa dạng về kích thước phù hợp cho nhiều đối tượng tiêu dùng, phù hợp
cấu trúc mặt bằng thiết kế nhà ở, hay các sản phẩm bồn nhựa với thiết kế 3 lớp tiên
tiến chịu mọi loại thời tiết, mọi loại nước. Rõ các dòng sản phẩm bồn vẫn mang lại sức
cạnh tranh cho công ty là rất cao so với các đối thủ khi về mặt công nghệ vẫn có phần
nhỉnh hơn đôi chút, đó là điểm tựa rất lớn để Sơn Hà dần chiếm lấy thị phần.
Chậu rửa của Sơn Hà hiện khoảng 38% thị phần theo phân khúc thị trường sản
phẩm. Dòng sản phẩm này ngoài Tân Á, Tân Mỹ ra còn Picenza, kagaro... ở dòng sản
phẩm sức cạnh có nhỉnh hơn đôi chút so với các hãng, cùng với nguồn hàng được cung
cấp ở nhà máy Chu Lai- Quảng Nam với công nghệ cải tiến nhập khẩu từ Đức mang
lại chất lượng cao cho sản phẩm.
Sản phẩm Thái Dương Năng của công ty phù hợp với xu hướng tiết kiệm năng
lượng theo chương trình của Quốc gia nên đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiện thị
phần của sản phẩm này là khoảng 48% thị trường.
Sản phẩm mà công ty hiện nay cũng đang gấp rút đẩy nhanh tiêu thụ cho thị
trường miền Trung là bình nóng lạnh khi mới chỉ xâm nhập vào thị trường được 2 năm
trở lại đây nên hiện tại chỉ chiếm được 15% thị phần. Với thị phần được giữ ở mức
tương đối sức cạnh tranh của Sơn Hà ở khu vực này vẫn đang trên đà hoàn thiện, cùng
với công nghệ liên tục cập nhật và cải tiến với thương hiệu có sẵn từ nhiều năm nay từ

chất lượng đến uy tín Sơn Hà ngày càng tạo sự tin tưởng nơi người tiêu dùng miền
Trung và sẵn sang đánh bật các đối thủ của mình.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của công ty
Việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp có tốt hay không phụ thuộc rất
nhiều yếu tố, chính vì vậy họ phải nghiên cứ đánh giá sâu hơn vào các yếu tố này
nhằm khắc phục và phát huy các lợi thế sẵn có của mình để thu về lợi nhuận và thị
phần mục tiêu đề ra. Sau đây bao gồm 5 yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến sức cạnh trạnh
của công ty Sơn Hà.
a, Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
-Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp: Để đảm bảo cho hệ thống quản lý
một cách có hiệu quả và không bị thất thoát ảnh hưởng tới trình độ phát triển đồng đều
về kỹ thuật lẫn quản lý con người mà công ty Sơn Hà đã Nâng cấp hệ thống quản lý
chất lượng tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 - 2000 lên phiên bản mới ISO 9001 – 2008
cho toàn bộ hệ thống nhà máy kể cả miền Trung

- Nguồn nhân lực: nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo
nguồn sáng tạo trong mọi tổ chức trong mọi quá trình sản xuất lẫn kinh doanh.
Hiện tại cơ cấu lao động với đội ngũ hơn 600 công nhân viên được phân chia
theo trình độ độ tuổi giới tính tới năm 2016 như sau:
25

25


×