Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh của quân và dân nhà trần trong chiến thắng chống quân nguyên mông lần 3 năm 1288 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.47 KB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM VĂN SÁNG

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH”
CỦAQUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN TRONG
CHIẾN THẮNG NGUYÊN - MÔNG LẦN
3 NĂM 1288

KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI – 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

PHẠM VĂN SÁNG

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH”
CỦAQUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN TRONG
CHIẾN THẮNG NGUYÊN - MÔNG LẦN
3 NĂM 1288
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học:


Thượng tá. Phạm Văn Dư

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thượng tá. Thạc sĩ
Phạm Văn Dư đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn và động viên tôi trong quá trình
thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong trung tâm giáo dục
Quốc phòng Hà Nội 2, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ tôi
trưởng thành trong suốt thời gian học tập tại trung tâm, đã tạo điều kiện và
đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè tôi đã luôn
tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quãng thời gian học tập
và quá trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày tháng

năm 2017

Sinh viên

Phạm Văn Sáng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi.
Những kết quả thu được hoàn toàn chân thực và chưa có đề tài nào
nghiên cứu.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Phạm Văn Sáng


DANH MỤC VIẾT TẮT

CHỮ VIÊT ĐẦY ĐỦ

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Nghệ thuật quân sự

NTQS

Quốc phòng và an ninh

QP - AN

Quốc phòng toàn dân

QPTD

An ninh nhân dân

ANND



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT
ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG LỊCH SỬ ĐÁNH
GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC ............................................................. 5
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” ................................................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”........ 5
1.1.2. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử đánh
giặc của dân tộc ta ............................................................................................ 7
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của
quân và dân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm
1288..................... 8
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và truyền thống sử dụng nghệ thuật “lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của dân tộc ta.............................................. 8
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông năm
1288................................................................................................................... 9
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 16
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU, LẤY YẾU
CHỐNG MẠNH” CỦA QUÂN VÀ DÂN NHÀ TRẦN TRONG CHIẾN
THẮNG NGUYÊN - MÔNG LẦN 3 NĂM 1288 ....................................... 17
2.1. Đánh giá tình hình, xây dựng kế hoạch chiến đấu với kẻ thù.................. 17
2.1.1. Đặc điểm tình hình, bối cảnh trong nước ............................................. 17
2.1.2. Tình hình địch ....................................................................................... 19
2.1.3. Tình hình ta ........................................................................................... 20
2.2. Tổ chức xây dựng lực lượng của quân và dân nhà Trần.......................... 21
2.2.1. Chủ trương xây dựng lực lượng của quân nhà Trần ............................ 21
2.2.2. Bố trí lực lượng của nhà Trần .............................................................. 24



2.3. Xây dựng phương thức tác chiến chống kẻ thù xâm lược ....................... 25
2.3.1. Các phương thức tác chiến của quân và dân nhà Trần và diễn biến
chính các trận giao tranh................................................................................ 25
2.3.2. Trận đánh lớn của quân và dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng......... 27
2.4. Nét đặc sắc trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần 3 năm
1288................................................................................................................. 30
2.4.1. Đánh giá đúng kẻ thù, khai thác điểm yếu của địch ............................. 31
2.4.2. Tài thao lược của các tướng nhà Trần ................................................. 32
2.4.3. Nghệ thuật lợi dụng địa hình địa vật để đánh giặc............................... 33
2.5. Những bài học kinh nghiệm..................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 37
CHƯƠNG 3. VẬN DỤNG TRUYỀN THỐNG “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU,
LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC
......................................................................................................................... 38
3.1. Một số nội dung về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.......... 38
3.1.1. Đặc điểm, đối tượng của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới................................................................................................................... 38
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
......................................................................................................................... 40
3.2. Sự vận dụng truyền thống nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” của Đảng ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.................................... 44
3.2.1. Trong chống Pháp và chống Mỹ ........................................................... 44
3.2.2. Vận dụng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.............................. 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57




1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, với truyền thống đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, nhân
dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc. Qúa trình chống kẻ thù xâm lược, đều đã bảo vệ Tổ
quốc mỗi thời đại lịch sử có khác nhau, song dù dài, dù ngắn, nhân dân ta
đánh bại kẻ thù xâm lược, giải phóng được dân tộc. Trong suốt chiều dài phải
liên tục chống kẻ thù xâm lược, dân tộc ta luôn ở trong tình thế chiến đấu
không cân sức, nhất là ở thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So
với lực lượng đối kháng chúng ta còn thua kém trên nhiều phương diện, ngoại
trừ tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân.
Chính trong cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình
thành nên rất nhiều loại hình nghệ thuật đánh giặc đặc sắc như nghệ thuật
chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít
địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông.... Chính sự độc đáo đó
của nghệ thuật đánh giặc đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách
vang dội của lịch sử dân tộc, làm cho quân thù luôn bị động, bất ngờ từ mạnh
thành yếu và cuối cùng đi đến thất bại nặng nề.
Thế kỷ thứ XIII, trong vòng 30 năm (1258 - 1288), quân và dân ta dưới
sự lãnh đạo của vương triều Trần đã ba lần chiến thắng vẻ vang quân xâm
lược Nguyên - Mông. Đây là một trong những giai đoạn lịch sử hào hùng và
oanh liệt nhất của quá trình đấu tranh giữ nước và cứu nước của dân tộc ta. Từ
kinh nghiệm của dân tộc ta hơn một ngàn năm đấu tranh giữ nước đó, những
nhà lãnh đạo đất nước ta thời Trần đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, kiên
cường, bất khuất, ý chí cấu kết cộng đồng và trí thông minh sáng tạo trong


2


cách đánh giặc; biết đánh giá đúng địch, ta... từ đó có những quyết sách đúng
đắn trong phát huy thế mạnh của quân và ta; từng bước kìm hãm thế mạnh và
khai thác điểm yếu của kẻ thù để có thể giành thắng lợi trong các cuộc chiến.
Từ thực tiễn ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông cho thấy,
nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn cũng như thế mạnh của kẻ thù... quân và
dân nhà Trần đã biết kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống nghệ
thuật đánh giặc của dân tộc ta trong lịch sử; đồng thời, vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các nghệ thuật đó để hình thành nên nhiều nghệ thuật quân sự đặc
sắc đảm bảo phù hợp với tình hình đất nước, thực tiễn sức mạnh của quân và
dân ta, cũng như khắc chế được sức mạnh của kẻ thù.
Trong các loại hình nghệ thuật đánh giặc, nghệ thuật “Lấy ít địch nhiều,
lấy yếu chống mạnh” được coi là nghệ thuật tiêu biểu, được quân và dân nhà
Trần sử dụng nhiều nhất trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của triều đại; nó
được thể hiện rõ nét trong nhiều trận đánh khác nhau, mà nổi bật nhất là trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông năm 1288. Chính việc sử dụng
nghệ thuật đánh giặc này đã trực tiếp làm nên thắng lợi của quân và dân nhà
Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên -Mông lần 3, cũng góp phần to
lớn để dân tộc ta luôn giành chiến thắng trước các cuộc xâm lăng của quân
xâm lược để giữ vững nền độc lập nước nhà.
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trước thực tiễn, đặc điểm, tình hình của đất
nước... đã và đang đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu những giá trị của
nghệ thuật quân sự cha ông ta trong quá khứ nói chung, nghệ thuật quân sự
“lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của quân và dân nhà Trần năm 1288
nói riêng, từ đó tìm ra những kinh nghiệm hay, có giá trị sâu sắc để vận dụng
phù hợp trong bối cảnh mới để quân và dân ta có thể dành chiến thắng trước

mọi kẻ thù khi có chiến tranh xảy ra... Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã


chọn “Nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh của quân và dân nhà
Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu nghệ thuật đánh giặc “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
của dân quân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông năm lần 3 năm
1288, và những bài học kinh nghiệm mà Đảng ta đã vận dụng trong việc xây
dựng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Khát quát nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự “lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh” trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm 1288.
- Nghiên cứu sự vận dụng nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
của Đảng ta trong xây dựng nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghệ thuật đánh giặc “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” và dân và
quân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần 3 năm 1288 và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp :
+ Phương pháp logic lịch sử:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
6. Ý nghĩa và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa khoa học.



- Khẳng định truyền thống đánh giặc giữ nước độc đáo của dân tộc ta và ý chí
quật cường của dân tộc nhỏ bé đứng lên chống quân xâm lược lớn hơn nhiều
lần.
- Xây dựng niềm tin tuyệt đối vào Đảng vào nghệ thuật quân sự trong giai
đoạn phát triển hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc cần phải nghiên cứu, vận dụng những giá trị của nghệ thuật quân sự
“lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
- Góp phần xây dựng và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng, giáo dục và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc ta.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT “LẤY ÍT ĐỊCH
NHIỀU, LẤY YẾU CHỐNG MẠNH” TRONG LỊCH SỬ ĐÁNH GIẶC
GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh”
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
Nghệ thuật quân sự có vị trí hết sức quan trọng trong chỉ đạo chiến
tranh. Nó là một trong những nhân tố quyết định thành bại của chiến tranh.
Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: “Nghệ thuật quân sự là lý luận và
thực tiễn chuẩn bị, tổ chức và tiến hành đấu tranh vũ trang. Nó nghiên cứu các
quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang, xác định những nguyên tắc và
phương pháp tiến hành các hoạt động quân sự trong chiến tranh. Nghệ thuật
quân sự được hình thành từ ba bộ phận: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến
dịch và chiến thuật quân sự. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là một thể thống
nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lược quân sự đóng vai trò

chủ đạo”. [6]
Như vậy, nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” được coi
là một trong những loại hình, một bộ phận cấu thành nên nghệ thuật quân sự
Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, quân và dân
ta đã sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật quân sự khác nhau, trong đó nghệ
thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” là loại hình được sử dụng nhiều
nhất.
Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” là dựa trên mối
quan hệ giữa thế và lực, tạo thế có lợi, kết hợp “Mưu - Thời - Thế - Lực”. Đây
là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc
ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có quân số, vũ khí, trang bị lớn


hơn nhiều lần. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” chính là
sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh được,
yếu thua, nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã xác
định đúng đắn về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh tổng hợp của
nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí
của mỗi bên tham chiến.
Theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát huy truyền
thống của dân tộc ta: “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Biết đánh bằng
mọi lực lượng, mọi quy mô, bằng mọi vũ khí có trong tay. Theo Người, đó là
nghệ thuật tạo thời, lập thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch
bằng thế. Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đôi với lập
thế, bởi thế và lực có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực thôi thì chưa đủ,
mà còn phải có thế mới phát huy được tác dụng của lực. Trong chiến tranh
cũng vậy, chỉ có lực mà không có thế, thì cũng không thể đánh thắng được
quân địch. Thế trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận chiến
tranh, thế bố trí lực lượng gắn với địa hình và điều kiện địa lý nhất định. Như
vậy, muốn đánh thắng địch phải có thế và được thế tốt thì một lực lượng quân

sự dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và kém hiện đại nhưng vẫn có thể biến
thành nhiều, nhỏ biến thành lớn và nhất định thắng lợi.
Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định là: Nghệ thuật “lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chống mạnh” là một trong những hình thức cơ bản của Nghệ
thuật quân sự thể hiện sự thuần thục, mưu trí, sáng tạo trong tổ chức, sử dụng
lực lượng, vận dụng tốt thế và lực đã được tạo dựng từ trước để đánh địch
theo cách đánh của ta, giành thắng lợi.


1.1.2. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” trong lịch sử
đánh giặc của dân tộc ta
Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta,
khi dân tộc ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có quân số, vũ khí,
trang bị lớn hơn nhiều lần. Nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh” chính là sản phẩm của “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là
“mạnh được, yếu thua” nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha
ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh
tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh hơn kém về “vũ
khí, quân số” của mỗi bên tham chiến. Kết quả một số cuộc chiến tranh cho
thấy.
Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ
có 10 vạn quân, dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt quân và dân nhà Lý đã
tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố khác để tạo ra sức mạnh hơn địch
và đánh thắng địch.
Thời Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần
thứ 2 là 60 vạn, lần 3 khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã kết hợp giữa “Lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chống mạnh” và đã “lấy đoản binh để chế trường trận” hạn chế
sức mạnh của giặc để đánh thắng giặc.
Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn,
nhưng đã đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi và Nguyễn Trãi

đã vận dụng “tránh thế ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh
“vây thành diệt viện” kết hợp với nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh”.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây
Sơn có khoảng 10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và


quân bán nước Lê Chiêu Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo,
thần tốc, bất ngờ. [3. Tr 83]
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
của quân và dân nhà Trần trong chiến thắng Nguyên - Mông lần 3 năm
1288
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và truyền thống sử dụng nghệ thuật “lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của dân tộc ta
1.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Nước Đại Việt thời Trần là một quốc gia độc lập, tự chủ. So với thời
Lý, lãnh thổ Đại Việt không mấy thay đổi. Về đại thể, Đại Việt bao gồm vùng
lãnh thổ Bắc Bộ và một phần Trung Bộ ngày nay với trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa là kinh thành Thăng Long vốn đã nổi tiếng từ hai thế kỷ trước.
Phía bắc giáp với Trung Quốc ở vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và
Quảng Tây) bấy giờ thuộc nhà Tống và nhà Nguyên đồng thời giáp với vương
quốc Đại Lý (tức Nam Chiếu) ở vùng Vân Nam. Phía đông là biển rộng bao la
và các hải đảo. Phía tây giáp với lãnh thổ các bộ tộc Lão Qua (Lào). Phía nam
giáp với vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành). Như vậy, Đại Việt có vị trí địa
lý quan trọng, nằm trên đường giao lưu từ bắc xuống nam, từ đông sang tây,
từ đất liền sang biển cả...
Một đất nước giàu đẹp lại nằm ở vị trí địa lý quan trọng thì không thể
trách khỏi con mắt nhòm ngó đầy tham vọng của những thế lực bành trướng
xâm lược ở sát nách qua thế kỷ này đến thế kỷ khác.
1.2.1.2. Đặc điểm xã hội

Xã hội Đại Việt là một xã hội đã phân tầng đẳng cấp trên quy mô quốc
gia với 2 đẳng cấp chính: vua quan và thứ dân (bách tính) dưới thứ dân là tầng
lớp nô tỳ. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, giữa hai đẳng cấp này
vẫn có những mối quan hệ gần gũi. Cộng đồng làng xã còn tương đối thuần
nhất, lúc này sự phân loại các hạng dân chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng


nam, đại hoàng nam, lão, long lão). Tục trọng lão, trọng xỉ (thiên trước) còn
rất đậm trong làng xã.
Nhà Vua đứng đầu nhà nước và là biểu tượng của quốc gia, trên danh
nghĩa, có uy quyền tối thượng và toàn năng. Khi vua còn trẻ, quyền hành thực
tế nằm trong tay Thái Thượng Hoàng.
Quý tộc quan liêu là chỗ dựa của nhà vua và triều đình trong các cuộc
kháng chiến chống Nguyên - Mông cũng như trong công cuộc trị nước.
Tăng ni, tăng quan thời Trần đã giữ một vị trí quan trọng trong xã hội
(như các sư Pháp Loa Huyền Quang). Nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tỳ
riêng.
Đẳng cấp thứ dân bao gồm chủ yếu bộ phận nông dân tự do - tự canh
trong các làng xã, đa số cày ruộng công và một số ít có ruộng tư, có nghĩa vụ
nộp tô thuế, lao dịch và binh dịch cho Nhà Nước. Trong làng xã, có thể đã có
một số ít tá điền.
Nô tì (nô: nam, tì: nữ) tuy không hẳn là một đẳng cấp riêng biệt nhưng
là một tầng lớp xã hội ở thời Trần khá đông đảo. Nô tì có nhiều nguồn gốc có
thể là nông dân bị bần cùng hóa (năm 1290 đói kém, một người bán làm nô
giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ (như Hà Ô
Lôi, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc các phạm nhân mắc tội đồ tù binh
(ChamPa và Nguyên), người nước ngoài bị bắt cóc. Có nhiều loại nô: quan nô
(của Nhà Nước) làm việc trong các đồn điền, trại lính, gia nô (của các nhà
quyền quý) làm việc trong gia đình và điền trang, tam bảo nô phục vụ trong
các chùa chiền. Nô tỳ có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, nhưng một số sau

đó đã trở thành những người tự do có địa vị trong xã hội.
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông
năm 1288


1.2.2.1. Khái quát về quân Nguyên - Mông trong cuộc xâm lược nước ta lần 3
(1285 - 1288)
Bấy giờ là thế kỷ XIII, sau khi tiến hành các cuộc chiến tranh chinh
phục các bộ lạc trên lãnh địa Mông Cổ, Thiết Mộc Chân được tôn làm “hãn”
đứng đầu các bộ lạc. Năm 1206, Thiết Mộc Chân triệu tập đại hội quý tộc,
trước đại hội các lãnh chúa, thủ lĩnh bộ lạc để tổ chức chính quyền trên toàn
lãnh thổ đã chiếm đóng. Thiết Mộc Chân (44 tuổi) được suy tôn làm đại hãn
(tức là hãn lớn mạnh nhất, gọi là Thành Cát Tư Hãn). Từ đây một nhà nước
phong kiến quân sự độc tài tập quyền ra đời đặt tên là nước Mông Cổ.
Ngay từ đầu Nhà nước Mông Cổ đã là một nhà nước đế quốc, lấy quân
đội mạnh làm chỗ dựa và dùng xâm lược vũ trang làm cơ sở tồn tại và phát
triển. Quân đội của họ là quân đội phong kiến, trong đó gồm các quý tộc cao
cấp, các thủ lĩnh quân sự và các tướng lĩnh chỉ huy trung thành với đại hãn.
Quân đội Mông Cổ rất thiện chiến, thêm vào đó với năng lực về mặt quân sự
thiên tài, Thành Cát Tư Hãn đã sáng tạo ra cách dụng binh thích hợp với điều
kiện bản thân và hoàn cảnh khách quan trên chiến trường. Những tướng lĩnh
Mông Cổ cũng rất tài giỏi chỉ huy. Quân Mông Cổ đặc biệt biết lợi dụng điều
kiện hành động nhanh chóng mẫn tiệp của kỵ binh.
Từ những thảo nguyên mênh mông vùng Trung Á, từng đoàn kỵ binh
của đế quốc Mông Cổ cuốn theo cát bụi và máu lửa, ào ạt kéo sang phương
Tây, phương Đông rồi phương Nam, gieo chết chóc và tàn hại khắp Châu Á,
Châu Âu. Hàng trăm thành thị lớn và kinh đô của nhiều nước bị phá hủy,
hàng ngàn làng mạc bị đốt phá và san bằng, mấy triệu người bị giết hại. Trong
vòng mấy chục năm đầu thế kỷ XIII, vua chúa Mông Cổ đã thành lập một đế
quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương đến bờ Bắc Hải. Nửa thế giới kinh

hoàng, lo sợ ngập chìm trong đau thương. Vào giữa thế kỷ thứ XIII, quân


Mông Cổ đã dần dần đánh bại nhà Tống, chiếm được toàn bộ lãnh thổ Trung
Quốc, Hốt Tất Liệt lên làm vua đổi quốc hiệu là Nguyên.
Sự hợp nhất giữa thế lực người Thát Mông Cổ với thế lực Đại Hán ở
Trung Quốc đã biến triều Nguyên do người Mông Cổ lập ra thành một triều
đại chính thống ở Trung Quốc. Tình hình đó càng làm tăng thêm sức mạnh
của đế chế Nguyên: kết hợp hai tính cách tiêu biểu của hai thế lực, giữa tư
tưởng cuồng chiến xâm lược hết sức tàn bạo của người Mông Cổ với tư tưởng
Đại Hán bình thiên hạ ở Trung Hoa. Đó thực sự là một nguy cơ lớn đối với
các dân tộc láng giềng trước âm mưu bành trướng thiên hạ của đế chế
Nguyên.
Quân đội Nguyên - Mông là đội quân hùng mạnh với quân số đông,
thiện chiến, từng giành chiến thắng trong các cuộc xâm lược. Với thể chất
cường tráng, tinh thần chiến đấu cao, kĩ năng bắn cung và đánh trên ngựa giỏi
kết hợp với tiền đề về kinh tế, tiềm lực quân sự (vũ khí, phương tiện, lương
thực). Tất cả những yếu tố nêu trên đã hình thành nên điểm mạnh của quân
đội Nguyên - Mông.
Với tiền đề lớn mạnh như vậy nhưng đội quân Nguyên - Mông không
thể tránh được những điểm yếu mà từ đó quân và dân nhà Trần đã dựa vào để
đánh thắng quân xâm lược. Cuộc chiến tranh xâm lược của quân Nguyên Mông mang bản chất là một cuộc chiến tranh phi nghĩa gây ra đau thương tổn
thất, không mang lại lợi ích cho nhân dân, không được sự ủng hộ của lòng
dân. Việc đi xâm lược của quân đội Nguyên - Mông vấp phải sự phản đối
mạnh mẽ của nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới. Mặt khác đại đa số
quân lính là người Trung Hoa bị chinh phục, tinh thần chiến đấu không có,
gặp khó khăn là chán nản.
Khi sang xâm lược Đại Việt, quân đội Nguyên - Mông áp dụng kế sách
“đánh nhanh thắng nhanh” nhưng lại vấp phải vô vàn khó khăn trong quá



trình di chuyển. Đất nước ta có nhiều núi, rừng; nhiều sông, ngòi; nhiều ao,
hồ cản trở bước tiến của kỵ binh khiến cho sức khỏe giảm sút, nhuệ khí hao
hụt. Đặc biệt, đối với quân Nguyên - Mông lương thực là điểm yếu lớn nhất
của họ. Quân giặc chinh chiến xa, công tác bảo đảm hậu cần khó khăn, nếu
chiến tranh kéo dài thì địch càng khó khăn gấp bội, sức mạnh chiến đấu suy
giảm. Trong ba lần tiến đánh Đại Việt đội quân Nguyên - Mông đều bị Trần
Hưng Đạo đánh vào điểm yếu lương thực và cuối cùng phải chịu thất bại.
Nước ta trong mùa hè có khí hậu nóng ẩm, một loại khí hậu mà người
Mông Cổ không ưa. Vào những lúc giao mùa thời tiết thay đổi, quân Nguyên
- Mông không chịu nổi thời tiết này. Mặt khác, kị binh của quân Nguyên Mông có khả năng cơ động cao sức đột kích mạnh mẽ, quen tung hoành ào ạt
trên những chiến trường bằng phẳng nhanh chóng đè bẹp đối phương nhưng
gặp phải khó khăn với địa hình Đại Việt. Đất nước ta có nhiều núi rừng, sông
ngòi; nhiều ao hồ là khó khăn cản trở kị binh. Những đồng ruộng của ta cũng
không mấy tốt cho kị binh khi mùa mưa đến. Những rừng già um tùm, xen
trong các núi cao là các điểm cho quân ta dễ mai phục đánh bất ngờ. Với các
yếu tố về địa chất thì địa hình này không thuận lợi cho kị binh Mông Cổ.
Mặt khác, thủy chiến vốn là sở trường của dân quân Đại Việt, đồng thời
lại là chỗ yếu của quân Nguyên. Thủy binh giặc phần lớn là quân tân phụ
(quân miền Nam của nhà Nam Tống cũ) vùng Quảng Đông, Hải Nam, tinh
thần chiến đấu kém. Tuy được chuẩn bị công phu, thuyền vững chắc, vũ khí
đầy đủ song thủy binh địch đã chịu nhiều thất bại, lại không thiện chiến bằng
kỵ binh và bộ binh. Kỵ binh và bộ binh cưỡi ngựa - bắn cung đều tài giỏi
nhưng không quen tác chiến trên sông biển.
1.2.2.2. Khái quát về quân và dân nhà Trần trong cuộc chiến chống quân
Nguyên - Mông lần 3


Triều Trần là một triều đại lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thời
Trần được xem là một giai đoạn lịch sử oanh liệt nhất thời trung đại, giai đoạn

mà dân tộc ta đã vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, viết lên trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
Theo quy luật tất yếu của lịch sử, đầu thế kỷ XIII vương triều Lý suy
yếu, đất nước lâm vào cảnh hoạn lạc bởi những cuộc chiến tranh đẫm máu
giữa các phe phái phong kiến. Kinh thành Thăng Long nhiều lần chìm trong
biển lửa nội chiến và bị tàn phá nặng nề. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Trong số các phe phái phong kiến lúc bấy giờ, thế lực họ Trần ở Hải ấp dần
dần phát triển và trở thành lực lượng mạnh nhất mà người đại diện là Điện
tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ và Thái Uý Trần Tự Khánh đã khống chế được
chính quyền trung ương và chiến thắng các tập đoàn phong kiến khác, thống
nhất đất nước.
Đầu năm 1226, với sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần
Cảnh, triều Lý rời khỏi vũ đài chính trị; một vương triều mới thay thế - triều
Trần (1226 -1400). Với sự thiết lập của triều Trần, nước Đại Việt trải qua giai
đoạn phát triển mới. Về khách quan, điều đó phù hợp với nguyện vọng hòa
bình, thống nhất của nhân dân và yêu cầu phát triển của lịch sử. Triều Trần trẻ
trung thay thế triều Lý - một triều đại đã già cỗi đã mất hết sinh khí để lãnh
đạo đất nước trong một bối cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dưới sự lãnh
đạo của triều Trần, nước Đại Việt vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành
tựu đáng tự hào trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và trên cả lĩnh
vực quân sự.
Sự phát triển về mọi mặt của đất nước là nền tảng của quốc phòng, có
quan hệ lớn đối với các hoạt động quân sự cũng như thành quả của sự nghiệp
giữ nước chống giặc ngoại xâm lúc đó. Trong bối cảnh triều đình nhà Nguyên
đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược sau thất bại thảm hại


của cuộc xâm lược thứ 2 năm 1285, thì triều đình nhà Trần và quân dân nước
ta cũng đang nhộn nhịp chuẩn bị kháng chiến.
Sau chiến thắng oanh liệt năm 1285, quét sạch quân xâm lược ra khỏi

bờ cõi, triều Trần muốn tỏ thái độ nhân nhượng để cho nhà Nguyên đỡ mất
thể diện mong tránh được nội chiến báo thù. Nhưng bản chất xâm lược, thái
độ nước lớn của nhà Nguyên không thay đổi. Trước thái độ khiêu khích của
kẻ thù, triều đình nhà Trần cũng như quân đội và nhân dân cả nước hết sức
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Khi được tin vua Nguyên lại chuẩn bị xâm
lược thì cả nước chuyển sang trạng thái sẵn sàng đánh địch.
Việc chuẩn bị kháng chiến rất khẩn trương của toàn dân trên cơ sở lãnh
đạo của triều đình và truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và tinh thần
đoàn kết nhất trí đã được thử thách trong cuộc kháng chiến thứ hai. Với kinh
nghiệm phong phú của hai cuộc kháng chiến thắng lợi, triều đình và quân dân
ta bước vào cuộc kháng chiến thứ ba này với tư thế chủ động đàng hoàng và
lòng tin cao độ. Tháng 6 năm Trùng Hưng thứ hai (26/3 - 22/7/1286) Trần
Nhân Tông ra lệnh cho tất cả vương hầu, tôn thất mộ thêm binh lính, chấn
chỉnh lực lượng; quân dân gấp rút chế tạo tu sửa khí giới, chiến thuyền. Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lại được cử làm Quốc công tiết chế, đôn đốc
việc chuẩn bị kháng chiến của triều đình, vương hầu và chủ tướng. Các tướng
được phân công trấn giữ các hướng địch có thể tấn công.
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư được làm phó tướng đóng quân ở
Vân Đồn, trấn giữ vùng biển Đông Bắc. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
được điều lên vùng Bạch Hạc, chuẩn bị chặn đánh quân địch từ Vân Nam
xuống. Nhiều tướng khác được giao nhiệm vụ đem quân chặn đánh địch và
bám trụ hoạt động ở các vùng hiểm yếu trên các nẻo đường tiến quân của địch
từ Lạng Sơn về Thăng Long. Theo trinh thám biết quân Nguyên tăng cường


thủy binh, nhà Trần đã chú trọng tăng cường phòng thủ biển. Tất cả chuẩn bị
cho một cuộc đấu tranh đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
Khi quân Nguyên chuẩn bị tiến công, Trần Quốc Tuấn nhận định “năm
nay thế giặc dễ đánh”. Với tinh thần “Sát Thát”, có quyết tâm cao tiêu diệt
địch, quân sĩ ta đã ra sức luyện tập để có khả năng chiến đấu cao. Tinh

thần hết sức khẩn trương nhưng dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, quân dân ta bước vào cuộc kháng chiến thứ 3 với một khí thế đầy
quyết tâm, tn tưởng. Tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân
trong việc chuẩn bị chiến trường, bố trí trận địa và hợp đồng tác chiến.
Qua kinh nghiệm dày dặn, phong phú của 2 cuộc kháng chiến trước,
Trần Quốc Tuấn đã đề ra kế hoạch đánh giặc rất chủ động, tài giỏi. Theo tiếng
gọi của Trần Quốc Tuấn nhân dân các vùng sông Bạch Đằng phối hợp với
quân Trần khẩn trương đi vào một cuộc chiến đấu gian khổ và quyết liệt.
Thóc gạo được chuẩn bị, sẵn sàng cung cấp cho quân đội, vũ khí được chế tạo
thêm để trang bị cho dân binh, thuyền bè được tu sửa để sử dụng trên chiến
trường sông nước. Những đội dân chúng vũ trang ở vùng sông Bạch Đằng và
các nơi khác, giàu lòng yêu nước, sẵn sàng chiến đấu giữ nước, giữ làng.
Nhiều người có gia đình bị giặc tàn phá giết hại trong những cuộc càn quét
trước đó không lâu, nợ nước và thù nhà chồng chất càng làm tăng thêm
sức mạnh và quyết tâm của họ. Sự kết hợp chặt chẽ giữa quân đội và nhân
dân trong trận quyết chiến Bạch Đằng là sự thực hiện thành công phương
châm chỉ đạo chiến tranh của Trần Quốc Tuấn: “Cả nước chung sức”. Sự kết
hợp đó đã phát huy cao độ sức mạnh tnh thần và vật chất của quân và dân
ta, là hình ảnh tuyệt đẹp của chiến tranh nhân dân trong lịch sử đất nước.
Dựa vào những nguyên nhân và điều kiện đã nêu trên, có thể
khẳng định quân và dân nhà Trần sử dụng nghệ thuật “lấy ít địch nhiều,
lấy yếu chống mạnh” trong kháng chiến đấu chống quân Nguyên - Mông
xâm lược lần 3 năm 1288 là hoàn toàn đúng đắn mang tính tất yếu khách
quan lịch sử.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghệ thuật quân sự là nghệ thuật chỉ đạo vũ trang hay nghệ thuật tiến
hành chiến tranh, gồm 3 bộ phận là chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến
dịch và chiến thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự bao hàm cách đánh, hay nói

cách khác cách đánh là một bộ phận cơ bản của nghệ thuật quân sự. Nếu
nghệ thuật quân sự xem xét tổng thể việc tạo ra và sử dụng mưu trí, sáng tạo
giữa thế và lực nhằm đạt được mục tiêu của đấu tranh vũ trang, thì cách
đánh được hiểu là cách thức sử dụng và vận động các thế và lực đã được tạo
dựng hoặc có sẵn hoặc phát sinh trong từng chiến dịch, từng trận đánh với
không gian, thời gian cụ thể.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn phải
chống lại kẻ thù xâm lược mạnh hơn nhiều lần về kinh tế, quân sự. Song với
tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, với cách đánh mưu trí sáng tạo, ông cha
ta đã đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, viết nên những trang sử hào hùng
của dân tộc.
Dưới thời Trần, công cuộc xây dựng đất nước được đẩy mạnh trên quy
mô lớn. Kinh tế phát triển mạnh mẽ, quốc gia thống nhất, được củng cố, văn
hóa dân tộc bước vào một giai đoạn rực rỡ. Sự lớn mạnh về mọi mặt của
đất
nước cho phép nhà Trần đối phó với âm mưu xâm lược của Nguyên - Mông
một cách kiên quyết chủ động, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và ý chí tự
lập, tự cường mạnh mẽ của cả dân tộc. Trên cơ sở đó, những nghệ thuật
quân sự đặc sắc của cha ông ta đã được hình thành.
Chương 1 đã làm rõ cơ sở hình thành nghệ thuật “Lấy ít địch nhiều, lấy
yếu chống mạnh” của quân và dân Nhà Trần, biết vận dụng và phát huy
những kinh nghiệm và truyền thống quí báu của dân tộc trong việc chuẩn
bị và thực hành chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Đó là xuất phát điểm quan


×