Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA NHẬT BẠN CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 74 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học Khoa học x hội & Nhân Vănã
***** ***** ***** ***** *****
Khoa Đông Phơng học
Báo cáo khoa học
Đề tài
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Mông - Nguyên
và nghệ thuật quân sự của ngời Nhật Bản
1
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Về mục đích nghiên cứu
Nớc Nhật Bản thế kỷ XX đợc mọi ngời biết đến nh một quốc gia
phát triển mạnh mẽ, có nền kinh tế khổng lồ đứng hàng thứ hai trên thế giới.
Ngời ta cũng luôn nói rằng một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên
điều thần kỳ ấy chính là con ngời Nhật Bản - những con ngời cần cù, yêu lao
động và đặc biệt luôn mang trong mình tình yêu quê hơng, đất nớc nồng
nàn. Nếu nh trong Cách mạng Minh Trị (1868), bằng lòng tự hào dân tộc
mãnh liệt, ngời Nhật Bản đã quyết tâm canh tân đất nớc mình từ một nớc
nông nghiệp lạc hậu trở thành một quốc gia hùng cờng sánh vai cùng các c-
ờng quốc Tây phơng. Thì trong những năm tháng khổ cực sau đại chiến thế
giới thứ hai, cũng chính bằng tình yêu nớc thiết tha ấy, những con ngời xứ sở


Phù Tang lại làm việc quên mình với niềm tin sẽ khôi phục lại nớc Nhật đã
kiệt quệ sau chiến tranh. Chính những con ngời đó, với truyền thống và nghị
lực phi thờng đã tạo nên một nớc Nhật Bản thần kỳ khiến cả thế giới ngày
nay phải ngỡng mộ.
Tìm hiểu về truyền thống và con ngời Nhật Bản từ lâu đã là một
trong những hớng u tiên của các nhà xã hội học cũng nh các nhà sử học Việt
Nam và thế giới. Cá nhân tôi, với t cách là một sinh viên chuyên ngành Nhật
Bản học, tôi không có tham vọng trình bày tất cả truyền thống lâu đời của
dân tộc Nhật Bản, mà trong bản báo cáo khoa học này tôi chỉ cố gắng nêu ra
một vài suy nghĩ của mình về Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc
Mông -Nguyên và nghệ thuật quân sự của ngời Nhật Bản. Qua đó, tôi
cũng muốn phần nào giới thiệu với quý vị độc giả, nhất là với các bạn sinh
viên cùng trang lứa, ngời Nhật Bản họ đã yêu nớc nh thế nào, và tình yêu ấy
đã giúp gì cho họ trớc những thử thách ngặt nghèo của lịch sử.
2
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Về nguồn tài liệu
Trớc khi bắt tay vào thực hiện bản báo cáo này, quả thực tôi đã
không lờng trớc hết đợc những khó khăn sẽ gặp phải. Trớc hết là khó khăn
chồng chất trong việc su tầm tài liệu do khả năng ngoại ngữ còn hạn chế và
nguồn tài liệu tiếng Việt không nhiều. Thứ đến là do lần đầu làm một bản
báo cáo khoa học tôi gặp nhiều bỡ ngỡ và rất thiếu kinh nghiệm nghiên cứu.
Cuối cùng đó là sự khó khăn trong việc phân tích tài liệu do có quá nhiều
cách nhìn nhận khác nhau từ các phía ( Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,
Phơng Tây... ) về cuộc chiến tranh này. Tuy nhiên, tôi cũng gặp đợc nhiều
thuận lợi nh: do đã đợc học tiếng chuyên ngành Nhật Bản nên tôi có thể hiểu

đợc một số tài liệu đơn giản bằng tiếng bản ngữ, hoặc thông qua các bạn bè
ngời Nhật tôi có thêm đợc những tài liệu mới... Đặc biệt là nhờ sự hớng dẫn
tận tình của một tiến sĩ - ngời có chuyên môn nghiên cứu nhiều năm trong
lĩnh vực lịch sử Nhật Bản. Sau khi tìm hiểu các tài liệu có đợc, tôi nhận thấy
nguồn sử liệu tiếng Anh là phong phú hơn cả. Các học giả phơng Tây, đặc
biệt là hai nớc Anh, Mỹ đã viết rất nhiều sách nghiên cứu giá trị về lịch sử
Nhật Bản. Ngay các công trình nghiên cứu lớn của Nhật Bản, phần nhiều
cũng đợc dịch và xuất bản bằng tiếng Anh. Thêm vào đó, các độc giả Việt
Nam trong đó có cả tôi, xa nay vẫn chỉ quen tiếp xúc với các tài liệu tiếng
Việt và tiếng Anh. Vì lẽ ấy, trong báo cáo này tôi quyết định ghi chép các
tên ngời, địa danh... bằng phiên âm tiếng Anh, và một số, trong chừng mực
có thể tôi cũng cố gắng sử dụng tên phiên âm Hán-Việt để quen thuộc với
ngời Việt Nam chúng ta.
Với trình độ nhận thức của một sinh viên chắc chắn bài viết không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đợc sự góp ý quý báu của thầy
cô và các bạn độc giả.
những nội dung chính
3
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Chơng I : Tình hình lục địa á Châu thế kỷ XIII và âm mu bành trớng
của đế quốc Mông Cổ.
I. Đế quốc Mông Cổ con đờng hình thành và phát triển.
II. Lục địa á-Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ
Chơng II : Nhật Bản hai lần kháng chiến chống quân xâm lợc Mông
-Nguyên.
I. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản những năm trớc chiến tranh.

II. Hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Mông-Nguyên.
Chơng III : Nghệ thật quân sự của ngời Nhật Bản trong kháng chiến
chống Mông-Nguyên.
I. Chiến thật quân sự của ngời Mông Cổ.
II. Nghệ thuật quân sự của ngời Nhật Bản.
III. So sánh với các dân tộc khác cùng phải chống quân Mông Cổ
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
Chơng I
4
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Tình hình lục địa á-âu thế kỷ XIII và âm mu
bành trớng của đế quốc Mông-Nguyên
I. Đế quốc Mông Cổ con đờng hình thành và phát triển.
1. Dân tộc Mông Cổ nguồn gốc và những truyền thống cổ xa.
Vùng thảo nguyên rộng lớn phía Bắc Trung Hoa, từ xa xa đã là
địa bàn c trú của những bộ lạc du mục thuộc các tộc ngời Duy Ngô Nhĩ (
Uygur ), Khiết Đan, Nữ Chân hay Mông Cổ... Tới trớc thế kỷ XIII hầu hết
các bộ tộc này đều đã từ bỏ lối sống du mục, học theo các c dân phơng Nam
sống định c làm nông nghiệp. Và theo đó họ thành lập nên hàng loạt những
nhà nớc mới của dân tộc mình, nh nớc Liêu của ngời Khiết Đan, nớc Kim
của ngời Nữ Chân. Tuy nhiên trong số đó còn một dân tộc vẫn đang chìm
trong bóng đêm mông muội của xã hội thị tộc, đó chính là ngời Mông Cổ.
Tình hình ấy đợc ngời ta đem so sánh với hình ảnh một con mãnh hổ đang
ngủ quên, và khi nó thức dậy thì cả thế giới bị một phen kinh hoàng.
Nh chúng ta đã biết ở phơng Đông, vùng Đông Bắc nớc Trung

Quốc là một trong những cái nôi đầu tiên xuất hiện giống ngời hiện đại
Homosaphien. Giống ngời vợn Bắc Kinh đợc tìm thấy ở đây có niên đại gần
1,5 triệu năm, chắc hẳn các dân tộc Bắc á trong đó có ngời Mông Cổ chính
là hậu duệ của giống ngời này. Dân tộc Mông Cổ xuất hiện từ bao giờ không
có tài liệu nào ghi chép chính xác, nhng ngay từ thời Xuân Thu Chiến Quốc
ngời Trung Hoa đã phải xây Vạn Lý Trờng Thành vô cùng tốn kém để
phòng ngừa những đội kỵ binh của họ tới cớp phá. Cho tới tận thời trung đại,
trong khi những dân tộc láng giềng đã bớc vào thời phong kiến với tổ chức
xã hội tiến bộ thì ngời Mông Cổ còn đang sống du mục dới hình thức bộ lạc
5
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
hay liên minh các bộ lạc. Đến lúc này, họ vẫn chỉ là một dân tộc nhỏ bé cha
từng đợc lịch sử thế giới nhắc đến. Các bộ lạc du mục Mông Cổ sinh sống
trên vùng thảo nguyên Bắc á rộng mênh mông và hoang vắng, dân số của họ
cho tới giữa thế kỷ XIII vẫn chỉ khoảng 2,5 triệu ngời. Lãnh thổ bao gồm
phía Bắc tới tận hồ Baikal, thợng lu sông Yenisey và sông Irtysh, phía Nam
qua sa mạc Đại Qua Bích ( Gobi ) tới gần trờng thành. Họ có nhiều bộ tộc
nh Naimans ( Hung Nô ) ở phía Tây, Merkits ở phía Bắc ( Thổ hay Đột
Quyết )... đông nhất là tộc Tartar ( ngời Trung Quốc dịch âm là Thát Đát
) sinh sống bên bờ sông Onon ở phía Đông. Tài sản chủ yếu của họ là
các loài đại gia súc nh bò, dê, cừu, ngựa... thức ăn chính là thịt và sữa ngựa.
Ngựa đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống của ngời Mông Cổ, họ có tới
hàng triệu con, cứ mùa Đông cỏ chết, họ rời xuống phía Nam, tới mùa hạ
thời tiết ấm áp lại lùa gia súc về phơng Bắc, không ngoa mà có thể nói rằng
ngời Mông Cổ sinh gia và lớn lên trên lng ngựa. Ngày này qua ngày khác,
họ chăn thả gia súc, săn bắt và chiến đấu trên lng ngựa, đó vừa là sinh kế

cũng vừa nh là bản năng của họ. Cũng chính vì xã hội sống du mục nh vậy
ngời Mông Cổ rất trọng sức mạnh, họ coi việc cỡi ngựa bắn cung là bản
năng tự nhiên giống nh việc đứa trẻ tập đi, nếu không biết những thứ đó thì
không thể sinh tồn đợc.
Ngời Mông Cổ du mục theo hình thức Kuryel, có nghĩa là lều
trại. Theo nhà sử học Ba T Rasid ud-din ( 1247-1318 ), mỗi Kuryel có chừng
1000 lều, có thể đó là một bộ lạc hay một gia tộc. Khi bộ lạc di chuyển tới
đâu, Kuryel đợc đóng tại đó, lều của thủ lĩnh ở chính giữa, xung quanh là lều
của các thành viên trong thị tộc. Cùng với sự tan rã của chế độ công xã thị
tộc và tù binh từ các cuộc chiến tranh để tranh giành đồng cỏ, các gia đình
giàu có mở rộng phạm vi ảnh hởng, tầng lớp nô lệ bắt đầu xuất hiện. Nô lệ
6
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi từ phơng thức
Kuryel-du mục của công xã sang phơng thức Ayil-du mục của gia đình các
thể. Song, các bộ lạc Mông Cổ không trở thành một xã hội chiếm hữu nô lệ
mà tiến thẳng tới hình thái chế độ phong kiến. Điều đó hiển nhiên là do ảnh
hởng từ các dân tộc định c phong kiến láng giềng, đặc biệt là ngời Trung
Hoa. Dới chế độ công xã, bãi chăn nuôi và gia súc đều là tài sản chung của
bộc tộc. Khi chế độ thi tộc tan rã, gia súc biến thành tài sản riêng của gia
đình cá thể, nhng đồng cỏ vẫn là tài sản chung. Dần dần, các bãi chăn thả gia
súc bị tầng lớp quý tộc Mông Cổ ( Noyan ) chiếm dụng làm của riêng,
những ngời tự do Arat bị biến thành tầng lớp lệ thuộc, phải cung cấp củi đốt,
vắt sữa, chăn gia súc cho Noyan... Nh vậy, từ cuối thế kỷ XII mầm mống sở
hữu phong kiến đã dần hình thành trong xã hội Mông Cổ.
2. Đế quốc Mông Cổ và dã tâm nô dịch các dân tộc khác.

Thế kỷ XII, ngời Mông Cổ vẫn là bộ tộc lệ thuộc vào nớc Kim (
) của ngời Nữ Chân. Họ học đợc từ ngời Kim nhiều chiến thuật lợi hại.
Trong khi đó, bản thân ngời Kim lại bị Hán hoá nghiêm trọng, họ chuyển
sang sống định c, làm nghề nông và bắt đầu thích đọc sách, làm văn thơ
giống nh ngời Hán. Chẳng những cái hung bạo, thiện chiến đã mất đi mà họ
còn bị nhiễm nhiều thói xấu của chế độ tập quyền chuyên chế phơng Nam,
nội bộ mất đoàn kết, các tập đoàn phong kiến khuynh loát lẫn nhau làm v-
ơng triều của họ suy yếu trầm trọng. Suốt 120 năm làm chủ miền Bắc Trung
Hoa, ngời Kim liên tục phải chiến tranh, kình địch với Nam Tống, tuy dành
đợc thắng lợi nhng Kim cũng kiệt quệ lắm rồi. Có một sự trùng hợp ngẫu
nhiên của lịch sử, ngời Kim trớc kia lệ thuộc vào ngời Khiết Đan, vì vua
Liêu tàn ác, vô đạo khiến ngời Nữ Chân không chịu nổi ức hiếp mà vùng lên
khởi nghĩa cuối cùng diệt đợc nớc Liêu. Nay thì ngời Mông Cổ cũng bị nớc
7
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Kim đàn áp quá đáng mà qua thế kỷ XIII đã nổi loạn chống lại Kim. Vua
Kim bị thua nhiều trận, phải nộp vàng bạc, bò, dê, đậu, gạo... để xin nghị
hoà, còn phải cắt đất phong vơng cho Mông Cổ, nhng họ không thèm nhận,
tự xng là Đại Mông Cổ Quốc.
Qua thời Temujin ( Thiết Mộc Chân ), Mông Cổ lại cành mạnh,
đánh đâu thắng đó. Temujin là tộc trởng bộ lạc Kereyid sinh sống ở lu vực
sông Onon, cha là Yesugey Baartur. Năm 1200, sau một thời gian tập hợp
lực lợng, Temujin quyết định mở cuộc chiến tranh thống nhất các bộ lạc
Mông Cổ. Năm 1206, ông ta đã hàng phục
đợc hầu hết các bộ lạc chủ yếu ở Mông Cổ,
tại đại hội quý tộc Khuriltai tổ chức bên bờ

sông Onon, giai cấp quý tộc Noyan đã tôn
Thiết Mộc Chân lên làm Thành Cát T Hãn (
Genghis Khan ) nghĩa là Hãn
(vua Mông Cổ) mạnh nhất. Một nhà nớc
phong kiến tập quyền quân sự của ngời
Mông Cổ chính thức đợc ra đời. Quan
Tranh: Thành Cát T Hãn hệ phong kiến nảy sinh trong xã hội Mông Cổ từ
cuối thế kỷ XII, nay phát triển mạnh mẽ, hình thành nên một dân tộc Mông
Cổ thống nhất. Kinh tế, văn hoá có điều kiện rất thuận lợi để phát triển. Nh-
ng ngay sau đó, Thành Cát T Hãn và tập đoàn quý tộc phong kiến Noyan lại
đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông Cổ vừa hình thành lao vào cuộc chiến
tranh xâm lợc và nô dịch các dân tộc khác. Từng đoàn kỵ binh Mông Cổ ồ ạt
băng qua những miền thảo nguyên hoang vắng tiến về phơng Tây và phơng
Đông, gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng sự chết chóc. Lý do nào dẫn tới tham
vọng điên cuồng muốn trở thành bá chủ thế giới của ngời Mông Cổ cho tới
nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhng chắc chắn trong đó có vài nguyên nhân
8
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
sau. Thứ nhất, ngời Mông Cổ là dân tộc du mục, họ rất coi trọng các đồng cỏ
chăn thả gia súc, khi xã hội của mình phát triển mạnh mẽ nhu cầu về đất
chăn nuôi tăng cao làm họ nhĩ tới việc phải thôn tính những miền đất mới.
Thứ hai, ngời Mông Cổ bị ảnh hởng t tởng đại Hán từ ngời Trung Quốc họ
sớm cho mình là một dân tộc thợng đẳng và nuôi dã tâm nô dịch các dân tộc
xung quanh, đặc biệt là ngời Hán, ngời Kim - những dân tộc trớc kia từng
thống trị ngời Mông Cổ. Thứ ba, rõ ràng dân Mông Cổ bị hấp dẫn bởi thứ
văn hoá và lối sống mới lạ từ những quốc gia lân cận, lấy ví dụ nh Trung

Hoa chẳng hạn, họ vừa muốn học theo lại vừa muốn đè bẹp các quốc gia ấy
để chứng tỏ sức mạnh vợt trội của dân tộc mình. Cuối cùng, không thể
không nhắc đến đó là tham vọng bá chủ thiên hạ của các nhân Thành Cát T
Hãn và những ngời kế tục ông ta. Họ muốn để lại những chiến công, muốn
chiến thắng mọi sự kháng cự dù là nhỏ nhất chỉ để thoả mãn danh vọng bản
thân. Ngay các chiến binh Mông Cổ cũng say sa trong mỗi chiến thắng, ảo t-
ởng về một sức mạnh bất khả chiến bại. Những t tởng ấy ngày càng thôi thúc
tớng sỹ Mông Cổ lao vào cuộc chiến tranh xâm lợc phi nghĩa. Ngời Mông
Cổ thì ít, đế quốc của họ thì đã rộng lắm rồi mà các đoàn kỵ binh vẫn tiếp
tục hành quân mãi không thôi. Kết quả là Mông Cổ trở thành đế chế rộng
lớn và hùng mạnh nhất trong lịch sử cổ kim, với cơng thổ trải dài từ biển
Thái Bình Dơng tới tận bờ Địa Trung Hải.
II. Lục địa á-Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ
1. Những cuộc tiến công dới thời Thành Cát T Hãn
9
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Năm 1211, Thành Cát T Hãn tiến quân vào miền Bắc Trung Hoa
và chiếm đợc Đại Đô ( ngày nay là thành phố Bắc Kinh-Trung Quốc
) tức Tây Kinh của nhà Kim, cớp nhiều của cải và tù binh. Kim lại xin hoà,
nộp vàng, lụa, phụ nữ... và dâng một công chúa cho Thành Cát T Hãn làm
thiếp. Mông Cổ chuyển hớng tấn công sang phía Tây, chiếm vùng Tây Vực
của ngời Duy Ngô Nhĩ ( Uygur ) và thẳng tiến đến những miền đất phơng
Tây xa lạ.
Những con đờng Tây tiến của quân Mông Cổ.
Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm đợc phần phía Đông lãnh thổ
của ngời Tuốc ( Turk hay đày đủ là Turkestan ). Năm 1219, họ tiến quân

tới vơng quốc Khwarizm ( ngày nay thuộc lãnh thổ các nớc Turmenistan,
Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và một phần nớc Kazakhstan ), tới
tháng 2 năm 1220 thì chiếm đợc thành cổ Bukhara, dân chúng bị tàn sát rất
dã man, còn toà thành bị họ thiêu trụi. Quân Mông Cổ tiếp tục thẳng tiến về
10
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
hớng kinh đô Urgenc của vơng quốc Khwarizm, trên đờng đi họ tàn phá
không thơng tiếc Samarkhand-một thành phố lớn ở miền trung Uzbekistan.
Toà thành lộng lẫy với những ngôi đền Hồi giáo chỉ còn là một đống tro tàn
hoang phế. Nhân dân thành Urgenc chiến đấu rất ngoan cờng chống lại đội
quân Mông Cổ thiện chiến dới sự chỉ huy của các con trai Thành Cát T Hãn
đều là những dũng tớng, nh Ogodey ( Oa Khoát Đài ), Tragatai (
Sát Hợp Đài ), Jotri ( ). Tuy nhiên họ cũng chỉ cầm cự đợc
5 tháng, thành Urgenc thất thủ tháng 4 năm 1221. Sau khi tàn sát c dân và
trng tập thợ thủ công, bọn chiến thắng cuồng bạo đã phá đê sông Amu-daria
( dòng sông lớn nhất Trung á chảy từ Đông sang Tây đổ vào biển Aral )
cho nớc tràn vào nhấn chìm cả toà thành, không một ai sống sót sau thảm
hoạ đó. Cùng năm đó ngày 25 tháng 2, Tolui ( Đà Lôi ) con trai út của
Thành Cát T Hãn hạ thành Mecv của ngời Turk-một thành cổ giàu có nằm
trên con đờng tơ lụa nổi tiếng trong lịch sử. Nhân dân thành Mecv đã
chống trả quyết liệt nên toàn thành bị tàn sát trừ 400 thợ thủ công, sự kiện
này đợc lịch sử Turkmenistan ghi lại nh một trong những trang đen tối nhất
của toàn dân tộc. Ngời ta đã đếm đợc hơn 70 vạn xác chết quanh ngôi
thành. Vơng triều Samanids của nớc Khwarizm-nền văn minh cổ xa, rực rỡ
ở Trung á giờ chỉ còn lại một miền đất hoang vắng. Vua Khwarizm-
Mohammed chạy trốn, rồi chết trong tủi nhục tại một hòn đảo nhỏ trên biển

Caspian ( Lý Hải ). Nghệ thuật, những th viện phong phú, nền nông
nghiệp u việt, cung điện và giáo đờng... tất cả sạch không , Mác ( K.Mark
) đã viết nh vậy để nói về cuộc xâm lợc tàn bạo của ngời Mông Cổ ở Trung
á.
11
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Một đạo quân Mông Cổ khác do các tớng Subutai, Jebe chỉ huy
tiến công về hớng Azerbaijan và Georgia. Sau khi chiếm Semakha thuộc
Armenia, đội quân viễn chinh vợt dãy Caucasus ( Cáp-ca-dơ ) kéo lên ph-
ơng Bắc, và tràn vào vùng Kharza. Khu vực này và cả miền Đông Hắc Hải
đang ở trong tình trạng chiến loạn liên miên. Đế quốc Đông La Mã (
Byzantium ) đang vào hồi lụi tàn không đủ sức khống chế khu vực, thêm
vào đó các cuộc thập tự chinh ( Crusade ) chống lại ngời Hồi giáo ở Thổ
Nhĩ Kỳ ( Turkish ) và Ai Cập ( Egypt ) của ngời Tây Âu làm chiến tranh
xảy ra liên tục. Các nớc trong khu vực suy yếu trầm trọng, mỗi vùng đất nhỏ
cai quản bởi các lãnh chúa chứ không có một đế chế hùng mạnh thật sự, chỉ
có thế lực của ngời Mameluk ở Ai Cập là có khả năng ngăn chặn bớc tiến
công của quân xâm Mông Cổ. Năm 1223, lần đầu tiên ở chiến trờng phơng
Tây, quân đội Mông Cổ đụng độ với một lực lợng lớn do các công tớc Kiev
và Nga ( Vladimir, Smolen... ) chỉ huy tập hợp lại bởi lời kêu gọi của thân
vơng công quốc Kiev là Mstislav ( Mstislav III of Kiev ). Liên quân Nga-
Kiev gồm 80.000 ngời lập phòng tuyến chặn địch tại bờ sông Kalka ( nằm
trên lãnh thổ nớc Ucraina ngày nay ), nhng ngay trong lúc nguy cấp đó,
các công quốc vẫn bất hoà với nhau và kết quả họ đã phải chịu thất bại thảm
hại. Dòng sông Kalka hung dữ không ngăn nổi vó ngựa của đội quân xâm
lăng thiện chiến, chiến thuyền Nga bị thiêu trụi, binh sỹ chạy thoát không

quá một phần mời, tất cả 6 công tớc đều bị bắt trong đó có cả Mstislav.
Quân Mông Cổ không chỉ dừng lại ở miền Nam nớc Nga mà tiếp tục tiến
quân vào trung lu sông Volga, đây là vùng lãnh thổ các công quốc khá
mạnh của ngời Nga nh Muscovy, Pskov. Tại đây, họ gặp sức chiến đấu
mãnh liệt của những ngời Slav ( Xlavơ ) nh ngời Russian ( Nga ), Volga-
Bulgarian, Lituanian ( ngày nay thuộc lãnh thổ các nớc Belarus, Latvia,
12
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Litva ). Bị phục kích và do quá ít về số lợng, quân Mông Cổ thất bại không
thể tiếp tục tấn công và buộc phải quay về.
Mùa thu năm 1225, Thành Cát T Hãn trở về Mông Cổ, sang năm
sau ông ta kéo quân đánh nớc Tây Hạ ( Xi Xia ). Tây Hạ thất thủ
nhanh chóng, kinh đô Ninh Hạ ( Ning Xia ) bị cớp phá và thiêu huỷ. Nhng
đó cũng chính là chiến thắng cuối cùng của Thành Cát T Hãn, tháng 8 năm
1227, ông ta chết trên đờng viễn chinh ở huyện Thanh Thuỷ ( tỉnh Cam
Túc-Trung Quốc ). Cho tới lúc này lãnh thổ của Mông Cổ đã vô cùng rông
lớn, phía Đông giáp với bán đảo Triều Tiên, phía Tây trải dài tới tận dãy
Caucasus. Khi Thành Cát T Hãn chết, lãnh thổ của ông ta đợc chia cho các
con trai, những vùng đất ấy tiếng Mông Cổ gọi là Ulus nghĩa là đất
phong. Theo th tịch Trung Quốc Nguyên triều bí sử , Thành Cát T Hãn
đã chỉ định con trởng Oa Khoát Đài thừa kế ngôi vị đại Hãn nhng sau khi
ông ta qua đời, quyền lực thực tế rơi vào tay con út là Đà Lôi. Năm 1235,
thủ đô của đế quốc Đại Mông Cổ đợc xây dựng bên bờ sông Orkhon lấy tên
là Karakorum, kỷ nguyên mới của dân tộc Mông Cổ bắt đầu nh thế, thấm
đầy máu, nớc mắt và gió bụi chiến tranh.
2. Các Hãn quốc của ngời Mông Cổ đợc thành lập.

Sau khi Thành Cát T Hãn chết, các cuộc viễn chinh vẫn không
ngừng diễn ra. Nạn nhân đầu tiên là nớc Kim ở Bắc Trung Hoa, lần này ng-
ời Nữ Chân không thể dùng vàng bạc để đổi lấy hoà bình đợc nữa. Năm
1232, Oa Khoát Đài và Đà Lôi tấn công vào Hà Nam, liên minh với Nam
Tống đánh Kim. Năm 1234, Thái Châu-thành trì cuối cùng của ngời Kim
thất thủ, vua Kim Ai Tông tự sát ở U Lan Hiên, Kim vong. Đã có nhiều bài
học lịch sử cho ngời Trung Hoa về sự tráo trở của kẻ thù, trớc kia Tống giúp
13
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Kim diệt Liêu sau đó bị Kim bội ớc, nhmg họ vẫn không chịu tỉnh ngộ. Lần
này cũng thế, Tống giúp 20.000 quân và 300.000 thạch lơng cho Mông Cổ
vây thành Thái Châu mong đợc trả lại các vùng đất của mình nhng khi diệt
Kim xong rồi, quân Thát Đát quay sang diệt Tống. Năm 1236, Oa Khoát
Đài xua quân đánh Tống, cuộc chiến tranh 40 năm xâm lợc Nam Tống
chính thức mở màn. Năm 1260, Hốt Tất Liệt- cháu nội Thành Cát T Hãn lên
ngôi đại Hãn tức vua Nguyên Thế Tổ trong lịch sử Trung Hoa. Năm 1264,
ông ta cho rời đô từ Karakorum về Tây Kinh ( sau đổi tên là Đại Đô ,
ngày nay là thành phố Bắc Kinh ). Năm 1268, quân Mông Cổ vây thành T-
ơng Dơng, Tơng Dơng cố thủ đợc 5 năm thì mất ( 1273 ), thế Tống lúc này
rất nguy. Hai năm sau, Mông Cổ dẫn quân theo đờng Giang Đông tiến
xuống miền Nam, thừa tớng Giả Tự Đạo đốc suất 130.000 binh mã và 2500
chiến thuyền cự địch, nhng Tống đã suy lắm rồi cha xáp chiến quân đội đã
tan vỡ. Quân Mông Thát khí thế nh cuồng phong chiếm hết thành này sang
thành khác, cuối cùng kinh đô Lâm An bị uy hiếp. Hai dũng tớng Văn
Thiên Tờng và Trơng Thế Kiệt chiêu mộ nghĩa binh chống giặc, nhng vận
nhà Tống đã đến lúc diệt vong không gì có thể thay đổi đợc. Năm 1276,

Lâm An thất thủ, vua Tống là Cung Đế bị bắt. Tể tớng Lục Tú Phu tôn
Đoan Tông rồi Quảng Vơng lên làm vua, chạy ra đảo Nhai Sơn ( Quảng
Đông ). Năm 1279, Văn Thiên Tờng bị bắt, quân Mông Cổ tiến đánh Nhai
Sơn, Lục Tú Phu biết không thể chống cự đợc nữa bèn cõng vua Tống nhảy
xuống biển tự sát. Sử sách chép lại rằng năm ấy có tới 100.000 ngời Trung
Hoa noi gơng đó cũng tự trầm chứ không chịu hàng giặc, đó có lẽ là cuộc tự
sát tập thể lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy vua quan nhà Tống nhu nh-
ợc, yếu hèn lúc nào cũng chỉ muốn cầu hoà, nhng nhân dân lại anh dũng
chiến đấu tới cùng. Suốt từ Đông sang Tây, không có dân tộc nào chống
quân Mông Cổ kiên cờng và quả cảm nh ngời Trung Hoa, vậy nên Tống mất
14
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
vào tay quân Thát Đát không phải là một điều đáng hổ thẹn. Will Durant-
một sử gia ngời Pháp kể rằng, ở thành Juning fu , ngời Hán đã cố gắng
cầm cự với quân Mông Cổ tới khi tất cả ngời già cả, tàn tật... bị ngời trong
thành ăn thịt hết, còn ngời khoẻ mạnh thì chết sạch vì chiến tranh, họ tự nổi
lửa đốt thành, thà chết thiêu trong biển lửa chứ nhất định không chịu rơi vào
tay giặc. Những Lục Tú Phu, Văn Thiên Tờng cùng hàng trăm vạn ngời Hán
quả cảm khác đã viết nên trang sử cuối cùng thật bi thảm mà cũng thật vẻ
vang của nhà Tống. Có những vị nh thế Tống cũng bớt tủi. Vị anh hùng của
nhân dân Trung Hoa, Văn Thiên Tờng khi bị bắt vẫn hiên ngang khẳng khái
đón nhận cái chết, tinh thần xả thân cho tổ quốc của ông đợc cô đọng trong
bài thơ Chính khí ca , tráng liệt nh cầu vồng vắt ngang bầu trời:
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lu hình
Hạ tắc vi hà nhạc

Thợng tắc vi nhật tinh
( Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dới đất là sông núi
Trên trời là nhật tinh )
ảnh: Tợng Alexander Nevsky tại
thành phố St.Peterburg-Nga.
15
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Về phía Tây, quân Mông Cổ cũng thu đợc những thắng lợi vang dội trên
khắp các chiến trờng. Một trong những trọng điểm tấn công của họ là vùng
thảo nguyên sông Volga rộng lớn, mà trong đợt viễn chinh năm 1223 Thành
Cát T Hãn còn cha chiếm đợc. Mùa xuân năm 1236, một đạo kỵ binh
150.000 ngời ồ ạt kéo về phía Tây. Chỉ huy đạo quân là thống soái Batu (
Bạt Đô ) con trởng của Jotri, cháu Thành Cát T Hãn, viên lão tớng
Subutai làm tiên phong. Tháng 12 năm 1237, Batu tấn công công quốc
Ryazan, đại công tớc Yury Igorevic bị giết. Năm sau, quân Mông Cổ chiếm
đợc hai công quốc Vladimir, Muscoy, đại công tớc Yury II bị hạ sát, các
thành phố Moscow ( Mát-xcơ-va ) Suzdal và Kolomna bị thiêu trụi. Tiếp sau
đó một loạt 14 thị trấn Nga nh Rostov, Yaroslav, Dmiterov... bị quân Tartar (
Tartar hay Tác-ta là tên gọi một bộ lạc Mông Cổ nhng sử sách phơng Tây
dùng từ này để chỉ tất cả những ngời Mông Cổ nói chung ) giày xéo. Tháng
3 năm 1238, Bạt Đô định tiến quân về hớng Nogvorod-công quốc mạnh nhất
của ngời Nga dới sự trị vì của Đại Thân Vơng Alexander Nevsky ( 1219-
1263 ), nhng họ đã gặp phải sự chiến đấu ngoan cờng của ngời Nga nên
buộc phải rút lui.

Năm 1239, Bạt Đô đổi hớng tấn công xuống phía Tây Nam vào
Crimea và Mordovia. Các thành phố Pereyaslav rồi Chernigov lần lợt bị tàn
phá. Năm 1240, quân Mông Cổ tấn công thành Kiev, cha bao giờ ngời Châu
Âu phải đơng đầu với một đội quân khổng lồ nh thế, thân vơng Mikhain sợ
hãi bỏ trốn sang Hungary, bá tớc Dmitri giữ thành. Sử sách Nga chép lại
rằng: quân Mông Cổ bao vây dày đặc xung quanh thành Kiev, tiếng các
16
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
cỗ xe, tiếng bò rống, ngựa kêu, tiếng những ngời dã man gào thét... lớn tới
mức trong thành ngời ta không nghe đợc gì lời nói chuyện của nhau ngoài
những tiếng ầm ầm khủng khiếp . Ngày 6-12-1240, thành phố Kiev bị
chiếm, vô số binh sỹ và thờng dân bị tàn sát, hàng nghìn ngời bị bắt làm nô
lệ. Một cánh quân Mông Cổ khác do Baidar chỉ huy tiến vào Balan, họ đánh
tan 30.000 liên quân Đức-Balan do Đại công tớc Henrich II chỉ huy ở
Wahlsalt-Balan ngày 9-4-1241. Sau đó, cánh quân này hợp với đại quân của
Bạt Đô tiến đánh Hungary. Tháng 7 năm đó thủ đô Budapest của Hungary
thất thủ, bọn xâm lợc tàn bạo chặt đầu phụ nữ và nớng ngời trên lửa để tra
khảo tìm chỗ giấu của cải. Biên niên sử châu Âu ghi lại rằng, sau 1 năm
quân Tartar ở Hungary dân số nớc này chỉ còn lại hơn một nửa, các thành thị
gần nh bị xoá sổ, đây đó chỉ lác đác những làng mạc nghèo khổ, đói rách.
Quân Mông Cổ truy kích ông vua mới 6 tuổi của Hungary là Béla IV (
1235-1270 ) tới tận bờ biển Serbia, cả châu Âu chấn động, Giáo Hoàng
Gregoa IX kêu gọi các đoàn Thập Tự Chinh chống lại quân Mông Cổ, các
bài cầu kinh xin cứu vớt khỏi quân Tartar xuất hiện. Tuy nhiên sức chiến đấu
của nhân dân các nớc Nga, Balan, Hungary, Tiệp Khắc... đã làm quân Mông
Cổ suy yếu đi nhiều không thể tiếp tục tấn công đợc nữa. Thậm chí mùa

xuân năm 1242, Bạt Đô đã phải rút khỏi lãnh thổ Balan và Hungary, tuy
nhiên với công quốc Kiev, vùng thảo nguyên sông Volga và đất Kharza (
miền cực Nam của nớc Nga ngày nay nằm ở bờ Đông Bắc biển Đen ) mới
chiếm đợc, đất phong Ulus của gia tộc Jotri đã trở nên vô cùng rộng lớn lập
thành một Hãn quốc mới gọi là Hãn Kim Trớng ( phơng Tây gọi là Golden
Horde ) hoặc còn có tên gọi khác là Khâm Sát Hãn Quốc
( Kipchak Khan Ulus ). Hãn quốc mới đóng đô ở thành Surai bên bờ sông
17
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Volga, gần địa điểm thành phố Volgograd ngày nay. Thực tế Khâm Sát Hãn
Quốc này đã tồn tại độc lập so với Đại Hãn ở Mông Cổ.
Năm 1241, Oa Khoát Đài và Sát Hợp Thai cùng qua đời, tình hình
Mông Cổ trở nên phức tạp, ngôi vị Đại Hãn bỏ trống trong 5 năm, vợ của Oa
Khoát Đài là Toregene phải nhiếp chính. Đại hội Kuriltai 1246 cử Quý Do
( Guyuk ) lên ngôi đại Hãn nhng Bạt Đô ra mặt chống đối không chịu
tuyên thệ trung thành. Năm 1248, trong khi cha kịp đem quân hỏi tội Bạt
Đô, Quý Do đột nhiên lâm trọng bệnh bệnh qua đời. Gia tộc Jotri và gia tộc
Tolui liên kết cử Mông Kha ( Mongke ) con trởng của Đà Lôi lên làm
đại Hãn. Mông Kha đem quân đánh dẹp lãnh địa của gia tộc Oa Khoát Đài
và Sát Hợp Thai-những kẻ đã chống đối mình khiến cho hai vơng thất này
suy yếu, lãnh địa Ulus ở Trung á không còn rộng lớn nh trớc nữa. Trên vùng
lãnh thổ cũ của vơng quốc Khwarizm và miền cao nguyên Tây Tạng họ
thành lập thêm một Hãn quốc nhỏ gọi là Sát Hợp Đài Hãn Quốc
( Tragatai Khan Ulus ).
Mông Kha đã giành ngôi đại Hãn và cai quản một vùng rộng lớp
nhng ông ta vẫn cha thoả mãn. Các kế hoạch xâm lợc mới lại tiếp tục đợc

vạch ra. Mục tiêu tiếp theo là miền cao nguyên Iran. Năm 1253, Mông Kha
cử em là Húc Liệt Ngột ( Hulegu hay Hulagu ) tấn công Ba T. Miền
đất Iran trớc đây cũng đã bị các tớng Mông Cổ Baiju, Eljigidai xâm lợc
nhiều lần từ đợt viễn chinh năm 1231. Ngày 2-1-1256, Hulegu vợt sông
Amu-daria , tấn công Ixmail-miền đất cuối cùng của ngời Ba T còn độc lập.
Sau khi tiêu diệt Ixmail, Hulegu dẫn đại quân tiến về vùng Lỡng Hà lúc đó
thuộc lãnh thổ của Khalipha ( vua Hồi giáo ) al-Mustasim. Nhng bản thân
18
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
ông ta và cận thần đều là những kẻ bất tài hèn nhát khiến Hulegu dễ dàng
chiếm đợc kinh đô Baghdad. Ngày 15-2-1258, quân Mông Cổ tiến vào thành
Baghdad nổi tiếng, cớp bóc của cải, đốt phá cung điện, đền thờ và tàn sát c
dân. Hulegu ra lệnh bỏ al-Mustasim vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết.
Thế tấn công vũ bão của Hulegu cuối cùng bị chặn lại ở Syria, thủ lĩnh ngời
Mameluk ở Ai Cập là Saif ad-Din Khutuz ( có sách ghi là Qutuz ) đã đánh
bại quân Mông Cổ dới sự chỉ huy của mãnh tớng Kitbukha trong trận Ain-
jalut lịch sử.
Lợc đồ lãnh thổ Y Lợi Hãn Quốc năm 1294 ( Il Khan Empire )
Nếu nh vì không thể thôn tính Đại Việt, Hốt Tất Liệt đành từ bỏ
dã tâm xâm lợc vùng Đông Nam á thì chiến thắng này của ngời Ai Cập
cũng đã làm Hulegu không thể tiếp tục xâm chiếm các quốc gia Hồi giáo ở
Bắc Phi. Hulegu quay về Iran, sát nhập thêm các nớc ở miền Caucasus nh
Azerbaijan, Goregia, Armenia vào bản đồ quốc gia của mình, cùng với miền
19
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
Lỡng Hà trù phú hợp thành một Hãn quốc mới có tên là Y Lợi Hãn Quốc
( Il Khan Ulus ). Hãn quốc này cũng đã thoát ly khỏi chính quy
ền trung ơng của Đại Hãn Mông Cổ.
20
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
4 Hãn quốc và những con đờng xâm lợc của ngời Mông Cổ
Cho tới giữa thế kỷ XIII, hầu hết lục địa Châu á rộng lớn và một
phần Đông Âu đã trở thành thuộc địa của ngời Mông Cổ, bờ cõi của đế quốc
trải dài từ miền viễn Đông xa xôi tới tận bờ Địa Trung Hải. Lịch sử loài ngời
cha từng chứng kiến một đế quốc hùng mạnh và hung bạo đến thế. Sử sách
cũng nói rằng, ngời Mông Cổ là một dân tộc dã man sống bên cạnh những
dân tộc văn minh. Ngời dã man trọng võ bị nên thôn tính đợc những quốc
gia văn minh bằng bạo lực, nhng trong thời bình họ lại bị thứ văn hoá đặc
sắc, sống động của những dân tộc ấy chinh phục lại. Ngời Mông Cổ xây
dựng đế quốc của mình khi trong đầu chẳng có gì ngoài những chiến thuật
quân sự. Họ không biết gì về tổ chức nhà nớc, nhà Nguyên của Đại Hãn cái
gì cũng phải học của Trung Hoa. Từ chế độ chính trị, tổ chức chính quyền...
tới thuế khoá, từ lễ nghi triều đình, tên hiệu của vua... tới việc cúng tế trời
đất, thờ cúng tổ tiên, nhất nhất họ đều học theo Nho giáo của ngời Trung
Hoa. ấy thế nhng Hốt Tất Liệt lại luôn miệt thị Nho học, xếp nhà nho vào
hạng cùng đinh chỉ đứng trên ăn mày. Xem ra Hốt Tất Liệt quả thật chẳng
có chủ trơng gì cả, sự thật trong mắt ông ta dân Trung Hoa chỉ là một bầy nô
lệ để bóc lột chứ thâm tâm ông ta cũng chẳng muốn cai trị gì họ. ở các Hãn

quốc khác, tình trạng có đỡ bi đát hơn vì quân Mông Cổ chỉ kỳ thị mỗi ngời
Trung Hoa mà thôi nhng cũng không khá hơn là mấy. Ngời Mông Cổ buộc
phải sử dụng ngời nớc ngoài để làm việc trong bộ máy chính quyền, tạo nên
tình trạng cai trị siêu quốc giới, tới Marco Polo một ngời Italia cũng làm
quan cho nhà Nguyên đợc, nh thế có lợi cho sự thống trị của quân Mông Cổ
nhng lại có hại cho dân bị trị tức là cho đế quốc của ngời Thát Đát. Sự lúng
túng trong quản lý nhà nớc, bất công, tàn ác trong cai trị làm nhân dân thuộc
địa nổi dậy khắp nơi, các Hãn quốc lúc nào cũng ở trong tình trạng hỗn loạn.
Ngời Mông Cổ cũng không có văn tự, chiếm đợc Tây Tạng, họ mợn chữ của
21
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
ngời Duy Ngô Nhĩ, chiếm đợc Trung Hoa, họ học chữ Hán, qua Tây á lại
dùng chữ ả rập, nhà s Lạt Ma Tây Tạng là Bát Tu Ba cố sáng tác cho họ một
loại chữ riêng nhng thất bại. Tóm lại ngời Mông Cổ vẫn chẳng có văn tự
thống nhất, mỗi nơi, mỗi lúc một loại, sắc lệnh nhà nớc ban ra, điều luật,
thuế khoá... không biết phải làm thế nào, tất cả đều truyền khẩu, mỗi ngời
hiểu một kiểu. Hiển nhiên nh vậy thì việc cai trị trở nên vô cùng khó khăn,
quốc gia vô cùng rối loạn. Lại nữa, ngời Mông Cổ, cũng chẳng có tín ngỡng,
họ chẳng biết lấy cái gì để đoàn kết các dân tộc bị mình thống trị. Họ học
theo tất cả tôn giáo của các dân tộc xung quanh, nhiều nhất là theo Phật giáo
Lạt Ma, thứ đến là Hồi giáo, cũng có ngời theo Kitô giáo nhng tuyệt nhiên
họ chừa lại Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa, có lẽ thứ đó cao siêu quá đối với
họ. Chính vì thế, cho dù ngời Mông Cổ ở đâu họ cũng bị đồng hoá với c dân
nơi ấy. Ví dụ nh ngời Mông Cổ ở Trung á tất cả đều bị Tuốc hoá và cải theo
đạo Hồi, đến nỗi ngời ta chẳng thể phân biệt nổi đâu là ngời Tuốc, đâu là ng-
ời Tartar. Hốt Tất Liệt cũng nhìn trớc đợc điều này, ông cấm ngời Mông Cổ

không đợc Hán hóa, nhng cấm sao đợc. Thứ văn hoá của những kẻ bị nô
dịch rực rỡ và hấp dẫn quá, dân Mông Cổ làm sao mà không thích cho đợc.
Thế hệ đầu, họ còn giữ đợc bản chất vũ dũng chứ sang những đời sau, sinh
trởng ở Trung Hoa, thích ở lâu đài hơn lều trại, thích ăn nem, ăn chả hơn
uống sữa dê... thành ra họ trở nên yếu đuối nhu nhợc, sợ khó, sợ khổ. Vì vậy
nhà Nguyên làm chủ Trung Hoa cha đầy 90 năm đã bị đuổi về đồng cỏ. Các
Hãn quốc kia cũng chẳng hơn gì, chỉ giữ đợc thuộc địa chừng 100 năm. Chỉ
có Khâm Sát hãn Quốc ở miền thảo nguyên hoang vu mới giữ đợc quốc gia
trong hơn hai thế kỷ rồi mới bị ngời Nga diệt. Nói thế không phải là đế quốc
Mông Cổ chẳng đóng góp đợc gì cho lịch sử nhân loại. Dù là vô tình nhng
chính nhờ Mông Cổ mở rộng cơng thổ mà văn hoá Đông-Tây đợc dịp giao lu
dễ dàng. Cha bao giờ việc đi lại từ Trung Quốc tới châu Âu lại yên ổn nh
22
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
vậy, con đờng tơ lụa cũng không còn bị ngời ả Rập chặn cớp nữa, vì thế th-
ơng nhân hai bên thông thơng buôn bán qua lại rất tấp nập. Ai cũng thừa
nhận trong thời kỳ này ngời châu Âu đã học đợc nhiều cái lợi từ phơng
Đông. Đó là cách chế tạo hoả dợc, la bàn, là nghề in, cách dùng giấy bạc,
những phát minh y học... trớ trêu thay chính những thứ đó lại giúp đỡ đắc lực
cho ngời phơng Tây trong công cuộc chinh phục phơng Đông thời kỳ thực
dân sau này. Nhng nói đi cũng phải nói lại, ngời Trung Hoa không chỉ
truyền bá văn hoá của mình mà họ cũng thu về đợc nhiều cái lợi nhờ giao lu
với các quốc gia bên ngoài. Họ đã học đợc cách làm đồ sứ Thất Bảo, cách
nấu rợu, cách dệt thảm... từ ngời ả Rập, các môn vẽ bản đồ, thiên văn học...
từ ngời phơng Tây. Thế nên sử gia Pháp Lombard gọi Trung Hoa thời
Nguyên là cái lò văn hóa ( crenset culturel ), còn ngời đồng hơng của

ông Simon Leys thì cho rằng nếu hai triều đại Minh, Thanh tiếp theo biết
noi gơng khai quan mở cửa nh thời nhà Nguyên thì Trung Quốc hẳn đã
tiến bộ chẳng thua gì phơng Tây.
Ngời Mông Cổ vốn rất ít, hầu hết họ lại sống ở miền đồng cỏ quê
hơng, ngay ở lãnh thổ nhà Nguyên, ngời Mông Cổ tính luôn cả các tộc du
mục phơng Bắc nh Khiết Đan, Nữ Chân, Duy Ngô Nhĩ... cũng cha tới 1
triệu, thực tế họ cũng chẳng cần xâm chiếm đất khác vì nhu cầu mu sinh.
Vậy mà Hốt Tất Liệt vẫn cha thoả mãn, ông ta lại tiếp tục vạch ra các kế
hoạch viễn chinh mới ở những miền rừng núi và hải đảo xa xôi. Thật trớ trêu
cho những tham vọng đó, khi các đế chế hùng mạnh từ Đông sang Tây, đều
lần lợt khuất phục dới vó ngựa xâm lăng của những đoàn kỵ binh Mông Cổ,
thì vài dân tộc nhỏ bé miền viễn Đông nh Đại Việt, Champa hay đảo quốc
Nhật Bản lại hiên ngang chống chọi tới cùng và chiến thắng lũ cớp nớc hung
bạo.
23
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
24
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
B¶n ®å ®Þa lý NhËt B¶n
25

×