Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Một số dẫn liệu về côn trùng nước tại suối tây thiên độ cao từ 28 90m thuộc xã đại đình, huyện tam đảo, tỉnh vĩnh phúc (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

=====
=

NGUYỄN THÙY LINH

MỘT SỐ DẪN LIỆU VỀ CÔN TRÙNG NƯỚC
TẠI SUỐI TÂY THIÊN ĐỘ CAO TỪ 28 - 90M
THUỘC XÃ ĐẠI ĐÌNH, HUYỆN TAM ĐẢO,
TỈNH VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học

HÀ NỘI, 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

=====
=

NGUYỄN THÙY LINH

MỘT SỐ DẪN LIỆU VỀ CÔN TRÙNG NƯỚC
TẠI SUỐI TÂY THIÊN ĐỘ CAO TỪ 28 - 90M
THUỘC XÃ ĐẠI ĐÌNH, HUYỆN TAM ĐẢO,
TỈNH VĨNH PHÚC



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN HIẾU

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Hiếu, cán bộ giảng
dạy tổ Động vật, Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư Phạm Hà
Nội 2, đã tận tình hướng dẫn và đưa ra những ý kiến quý báu trong suốt thời gian tôi
thực hiện đề tài này.
Đồng thời qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm
Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, thầy cô những
người đã luôn động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
khoa học.


X
i
n
c
h

â
n
t
h
à
n
h
c

m


Nội,
ngà
y 15
thán
g4
năm
201
7
S
i
n
h
v
i
ê
n

ơ

n
!

N
g
u
y

n
T
h
ù
y
L
i
n
h


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Hiếu.
Các số liệu, những nghiên cứu được trình bày trong khóa luận này trung thực
và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của
mình. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thùy Linh



MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lído chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ...................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3
1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới.................
3
1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam .................
9
1.3. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã Đại Đình, huyện Tam
Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc..................................................................................... 12
1.3.1. Khái quát điều kiện tự nhiên........................................................... 12
1.3.2. Khái quát kinh tế xã hội .................................................................. 14
Chương 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU................................................................................................ 16
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 16
2.2. Thời gian nghiên cứu ........................................................................... 16
2.3. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 16
2.4. Nội dung nghiên cứu............................................................................. 19
2.5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 19
2.5.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên ....................................... 19

2.5.2. Phương pháp phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm: .................. 20


2.5.3. Một số chỉ số đa dạng sinh học ...................................................... 21
2.5.4. Phương pháp xử lý số liệu .............................................................. 22
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................ 23
3.1. Thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ..................... 23
3.1.1. Thành phần loài Phùdu (Ephemeroptera)..................................... 28
3.1.2. Thành phần loài Chuồn chuồn (Odonata)...................................... 28
3.1.3. Thành phần loài Cánh úp (Plecoptera) .......................................... 29
3.1.4. Thành phần loài Cánh nửa (Hemiptera) ........................................ 29
3.1.5. Thành phần loài Cánh cứng (Coleoptera)...................................... 29
3.1.6. Thành phần loài Cánh rộng(Megaloptera) .................................... 29
3.1.7. Thành phần loài Hai cánh (Diptera) ............................................. 30
3.1.8. Thành phần loài Cánh lông (Trichoptera) ..................................... 30
3.2. So sánh số lượng và mức độ tương đồng thành phần loài giữa các điểm
nghiên cứu.................................................................................................... 30
3.2.1. So sánh số lượng loài giữa các điểm nghiên cứu ........................... 30
3.2.2. Mức độ tương đồng về thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu32
3.3. Một số đặc điểm quần xã côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu....... 34
3.3.1. Mật độ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu.............................. 34
3.3.2. Loài ưu thế và một số chỉ số đa dạng. ............................................ 36
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................................. 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 41
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT1 : Điểm thu mẫu 1
TT2 : Điểm thu mẫu 2

TT3 : Điểm thu mẫu 3
TT4 : Điểm thu mẫu 4
TT5 : Điểm thu mẫu 5


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Một số đặc điểm sinh cảnh tại các điểm thu mẫu ở suối Tây
Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc ............ 18
Bảng 3.1. Số lượng các taxon thuộc các bậc phân loại của côn trùng
nước tại khu vực nghiên cứu............................................................. 23
Bảng 3.2. Thành phần loài côn trùng nước thu được ở các điểm nghiên
cứu..................................................................................................... 25
Bảng 3.3 . Số loài thu được của các bộ côn trùng nước ở các điểm khảo
sát ...................................................................................................... 31
Bảng 3.4. Chỉ số Jacca - Sorensen giữa các điểm nghiên cứu........................ 33
Bảng 3.5. Số lượng cá thể của các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên
2

cứu (trên đơn vị diện tích 2,5m ) ...................................................... 35
Bảng 3.6. Loài ưu thế, chỉ số loài ưu thế (DI) và chỉ số đa dạng sinh học
Shannon - Weiner (H’)...................................................................... 37


DANH LỤC CÁC
HÌNH

Hình 2.1. Sơ đồ vị trícác điểm thu mẫu tại suối Tây Thiên ...........................
17
Hình 3.1. Tỷ lệ % số loài theo bộ tại khu vực nghiên cứu..............................

24
Hình 3.2. Số loài thu được của mỗi bộ côn trùng nước ở các điểm khảo sát . 31
Hình 3.3. Sơ đồ tương đồng thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu........ 33
Hình 3.4. Sơ đồ MDS về mức độ tương đồng thành phần loài tại khu vực
nghiên cứu....................................................................................... 34
Hình 3.5 Số cá thể của mỗi bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu........
36


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Côn trùng nước là một trong những sinh vật quan trọng trong hệ sinh thái các
thủy vực cả nước đứng cũng như nước chảy, có mặt hầu hết trong các thủy vực nội
địa, đặc biệt rất phổ biến ở các hệ thống sông suối thuộc vùng trung du núi cao. Mỗi
một môi trường thủy vực, nhóm sinh vật này đều có những đặc tính thích nghi phù
hợp. So với nhiều nhóm sinh vật khác, côn trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội
như số lượng loài, số lượng cá thể lớn… đặc biệt chúng là những mắt xích không
thể thiếu trong chuỗi và lưới thức ăn. Các loài côn trùng nước là những sinh vật tiêu
thụ bậc 1, bậc 2 đồng thời lại là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương
sống. Nhiều loài côn trùng nước có quan hệ mật thiết đối với con người. Một số loài
côn trùng nước gây hại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh, tác nhân phá
hoại sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp… Đáng chú ý trong nhóm này là những
loài giữ vai trò quan trọng trong dịch tễ học như các loài thuộc giống Anopheles,
Aedes thuộc bộ Hai cánh (Diptera)… Giai đoạn trưởng thành của các loài côn trùng
này là những vector truyền bệnh sốt rét, sốt vàng da cho người. Khác với nhóm côn
trùng trên cạn, phần lớn các loài thuộc côn trùng nước tồn tại cả trong môi trường
nước và trong môi trường cạn. Do vậy, chúng là đối tượng lý tưởng dùng trong các
nghiên cứu về sinh thái học và sinh học tiến hóa. Trong giai đoạn hiện nay, hướng
nghiên cứu về nhóm côn trùng nước là dùng đối tượng này để chỉ thị chất lượng

môi trường do có nhiều loài rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường nước.
Trên thế giới đã có rất nhiều thành tựu to lớn khi nghiên cứu trên đối tượng côn
trùng nước, từ việc phân loại cho đến những nghiên cứu về tập tính, sinh thái, sinh
sản, di truyền, tiến hóa….Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước
cũng đã được quan tâm nghiên cứu. Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
nơi có hệ thống sông, suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn trùng nước, tuy
nhiên việc nghiên cứu về nhóm sinh vật này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu.
Để góp phần tìm hiểu nhóm sinh vật có ý nghĩa này, tôi tiến hành thực hiện đề tài

1


“Một số dẫn liệu về côn trùng nước tại suối Tây Thiên độ cao từ 28 - 90m
thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định thành phần loài côn trùng nước tại suối Tây Thiên độ cao từ 28 90m thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu một số đặc điểm của quần xã côn trùng nước tại khu vực nghiên
cứu như: mật độ, phân bố, các chỉ số đa dạng.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp những dẫn liệu khoa học đa dạng sinh học về loài thuộc nhóm
côn trùng nước và sự phân bố của côn trùng nước theo tính chất của thủy vực ở độ
cao 28 - 90m thuộc địa phận xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài góp phần cung cấp những tư liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu về côn trùng nước sau này tại địa phận xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh
phúc nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn, xây
dựng quy hoạch, khai thác hợp lý, sử dụng bền vững tài nguyên côn trùng tại
khu vực nghiên cứu.


2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế
giới
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt
ở những nước phát triển. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến từng
bộ của nhóm côn trùng này, từ những nghiên cứu về phân loại học (Eaton, 1871,
1883 - 1888; Lepneva, 1970, 1971; McCafferty, 1973, 1975; Kawai, 1961, 1963),
sinh thái học (Brittain, 1982), tiến hoá (Edmunds, 1972; McCafferty, 1991) đến
những nghiên cứu về ứng dụng (Morse, 1984) [16]. Đặc biệt đã có nhiều nghiên cứu
về các nhóm côn trùng nước gắn bó chặt chẽ với đời sống con người mà đa phần là
tác nhân gây bệnh hoặc tác nhân truyền bệnh cho người và động vật như: ruồi,
muỗi,… Điển hình là các nghiên cứu của Resh và Rosenberg, 1979; Merritt và
Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978; Kim và Merritt, 1987 [16].
Việc nghiên cứu sử dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị chất lượng nước
đã được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX qua các công trình nghiên cứu của
Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và Dorris (1968). Sang những
năm 1970, 1980 côn trùng nước trở thành vấn đề trung tâm trong các nghiên cứu về
sinh thái học ở các thủy vực nước ngọt (Barnes và Minshall, 1983) [16]. Đã từ lâu,
các nhà khoa học sớm nhận ra vai trò quan trọng của côn trùng nước trong các hệ
sinh thái, do đó phạm vi nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được mở rộng, các
hướng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu vào các
cơ chế bên trong như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ dinh dưỡng,
đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984; Cummins, 1994) [16].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng

loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty W.P., 1983;
Kawai T., 1985; John C.M., Yang Lianfang và Tian Lixin, 1994; Yoon, I.B., 1995;
Merritt R. W. và Cummins K. W., 1996;… Các nghiên cứu này đã bổ sung và cung
cấp nhiều kiến thức về côn trùng nước bao gồm cả phân loại học, sinh thái học, tiến
hóa, ứng dụng...

3


Qua các công trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc nhóm Côn
trùng ở nước: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata), Cánh lông
(Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy (Lepidoptera).
* Nghiên cứu về Phùdu (Ephemeroptera)
Bộ Phù du là côn trùng có cánh cổ sinh tương đối nguyên thủy, thậm chí còn
được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng
hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ
Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm [11]. Các loài thuộc bộ
Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù
du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm
thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [19].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình là
các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920,
1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935) [6].
Cho đến nay trên toàn thế giới đã có hơn 3000 loài được mô tả thuộc 42 họ và
hơn 400 giống của bộ Phù du. Các nghiên cứu về Phù du, đặc biệt là phân loại học
vẫn đang phát triển, vẫn còn nhiều loài chưa được mô tả, nhất là ở các khu vực nhiệt
đới [11].
Đối với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du được thực hiện
bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestage (1921,

1924) [21].
Gần đây, các công trình nghiên cứu đề cập đến khả năng sử dụng Phù du là
sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước vì nhiều loài thuộc bộ Phù du rất nhạy
cảm với sự biến đổi của môi trường như một số công trình của Landa và Soldan
(1991), Bufagni (1997) [21].
* Nghiên cứu về Chuồn chuồn (Odonata)
Chuồn chuồn thuộc nhóm côn trùng ăn thịt ngay từ giai đoạn thiếu trùng sống
trong nước cho đến giai đoạn trưởng thành. Vòng đời của chúng trải qua 3 giai

4


đoạn: trứng, thiếu trùng, con trưởng thành. Thiếu trùng thường sống trong nước,
chủ yếu ở vùng nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ấm, con trưởng thành sống trên cạn. Bộ
Chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ là: phân bộ Anisozygoptera, phân bộ
Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ
Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số loài chỉ phân bố
ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao
Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại
phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài vô cùng
phong phú [17].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về Sinh học, Sinh thái học và Tập tính sinh học của Corbet (1999),
Silsby (2001) [4]. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng
thành. Đối với giai đoạn thiếu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định
loại có kèm theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á [2].
* Nghiên cứu về Cánh úp (Plecoptera)
Hiện nay, trên thế giới bộ Cánh úp được biết khoảng 2.000 loài và là một trong
những nhóm côn trùng có các đặc điểm nguyên thủy với nhóm có cánh hiện nay.
Hóa thạch của chúng được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi, nó có những đặc điểm

khác biệt với Cánh úp hiện đại về số đốt bàn và cánh ở phần ngực (Hynes, 1976)
[13].
Để nhận dạng bộ Cánh úp, người ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có 3 đốt
bàn nhưng chân sau không biến đổi để thích hợp theo kiểu nhảy như một số loài
thuộc bộ Cánh thẳng (như dế và châu chấu). Chúng có ăng ten dài dạng chỉ, tơ đuôi
khá dài đặc biệt là các thiếu trùng ở nước. Hầu hết, cánh của các loài thuộc bộ Cánh
úp rất phát triển nhưng đôi khi lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng để phân biệt chúng
với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh úp trải qua thời gian dài sống ở nước. Các
thiếu trùng Cánh úp giống con trưởng thành ở nhiều đặc điểm. Thiếu trùng luôn có
tơ đuôi dài và không bao giờ có tơ đuôi ở giữa. Mang nếu có, chỉ tìm thấy ở phần
ngực và phần bụng được tạo thành giữa các tơ đuôi. Thiếu trùng sống chủ yếu ở
nước, có một vài loài sống trong đất ẩm (Harpers và Stewart, 1996) [13].

5


Morse J. C., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins (1996)
khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây dựng
khóa định loại tới giống thiếu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại các
loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [17].
* Nghiên cứu về Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên
cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [15].
Bộ Cánh lông được nghiên cứu ở Đông Nam Á từ rất sớm bởi Ulmer (1911,
1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932), đặc biệt
là Ulmer khi nghiên cứu khu hệ động vật ở Indonesia (1951, 1955, 1957). Ông đã
cung cấp những thông tin cơ bản về Cánh lông ở khu vực nghiên cứu này. Cánh
lông ở Borneo đã được nghiên cứu khá tỷ mỉ lần đầu bởi Kimmins (1955). Ở
Philippin, Banks (1937) là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ Cánh lông ở khu vực

này. Tiếp đến là Ulmer (1955, 1957) nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng. Trong
khi đó các hướng nghiên cứu khác lại dựa vào giai đoạn trưởng thành. Đặc biệt
trong giai đoạn gần đây việc nghiên cứu dựa vào giai đoạn trưởng thành lại càng
được quan tâm như: Kimmis (1953), Banard (1980, 1984), Oláh (1987-1989),
Chantaramongkol (1986, 1989, 1995), Malicky (1970, 1979, 1987, 1989, 1992 1998, 2002-2004), Malicky và Chantaramongkol (1989, 1991 - 1994, 1996 - 2000),
Mey (1989, 1990, 1995 - 1999, 2001 - 2003), Weavers (1985, 1987, 1989, 1992,
1994), Ismail (1993, 1996), Scheffer (2001), Armitage và Arefina (2003), Klaithong
(2003) [15]. Ismail (1993, 1996, 1997) cũng tiến hành nghiên cứu trên ấu trùng
Cánh lông tại một số nước ở khu vực Đông Nam Á [17].
Ngoài các công trình nghiên cứu ở các nước Đông Nam Á, khu hệ Cánh lông
cũng được quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác như: Ấn Độ, Srilanka được
nghiên cứu bởi Martynov (1935, 1936), Trung Quốc (Martynov, 1931; Wang,
1963), Nhật Bản (Iwata, 1927; Tanida, 1987). Trong giai đoạn hiện nay, hướng
nghiên cứu đánh giá chất lượng nước dựa trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn

6


trùng này được nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Do đó, các công trình liên
quan đến giai đoạn ấu trùng xuất hiện ngày càng đồ sộ như nghiên cứu của Wiggins
(1996) [15]. Ở khu vực Bắc Mỹ, Merritt R. W. & Cummins K. W. (1996), đã xây
dựng khóa định loại tới giống của bộ Cánh lông ở cả giai đoạn ấu trùng và trưởng
thành [16].
* Nghiên cứu về Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn trùng
biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết trên thế
giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng thành ở cạn
và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại sống
dưới nước và ăn thịt các loài động vật [17].
Số lượng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nước ngọt như:

sông, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5
lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi
các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng. Các loài thuộc họ này lại phân bố rất hẹp. Ở
châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một
số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [17].
* Nghiên cứu về Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ
côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và khoảng 10.000 thuộc nhóm
côn trùng nước [17]. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dưới nước được xem
là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các công trình nghiên cứu
về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa như: các
nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969),
Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji
(1995, 1998, 2003) [18] đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học
của bộ Cánh cứng ở châu Á.
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài

7


và White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh
cứng [17].
* Nghiên cứu về Hai cánh (Diptera)
Các nghiên cứu về bộ Hai cánh đã được rất nhiều các nhà khoa học công bố,
đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich
& Hortle (1989) . Đối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975, 1977)
đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở miền Ấn
Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện theo khóa
định loại được xây dựng bởi Harris (1990) [17].

* Nghiên cứu về Cánh nửa (Hemiptera)
Hiện nay, trên thế giới đã xác định được trên 4.000 loài thuộc bộ Cánh nửa
sống ở nước (Dudgeon, 1999). Trong đó, khu vực châu Á có số lượng loài chiếm ưu
thế, đặc biệt có rất nhiều giống đặc hữu, thậm chí có cả những phân họ đặc hữu ở
khu vực này (Andersen, 1982; Spence & Andersen, 1994) [18].
Các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á được bắt đầu khá sớm
bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,
1973) [17]. Các họ trong bộ này cũng được nghiên cứu khá tỷ mỷ như: Nepidae
được nghiên cứu bởi Keffer (1990), Naucoridae là họ rất đa dạng ở vùng nhiệt đới
châu Á đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như Nieser & Chen (1991,
1992), Sites và cộng sự (1997) [18]. Merritt & Cummins (1996), Morse & cộng sự
(1994) đã xây dựng khóa định loại tới giống của các họ thuộc bộ Cánh nửa ở khu
vực Bắc Mỹ và Trung Quốc [16] [17].
Bộ Cánh nửa bao gồm 3 phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và
Leptopodomorpha. Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng sống
trên bề mặt của nước. Trong phân bộ này, có hai họ lớn là Velliidae (trên thế giới có
khoảng 850 loài) và họ Gerridae (khoảng 700 loài) (Chen và cộng sự, 2005). Theo
Bendell (1988), Damgaard & Andersen (1996) các loài trong họ Gerridae được xem
như những sinh vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước [27].

8


* Nghiên cứu về Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và
Crambidae sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về
phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis
(1994) và Munroe (1995) [16]. Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành
lập khóa định loại cụ thể tới loài.
1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam

* Nghiên cứu về Phùdu (Ephemeroptera)
Ở Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ 20, các mô tả về Ephemeroptera
cũng được đề cập và quan tâm nghiên cứu. Mở đầu cho những nghiên cứu về
Ephemeroptera ở Việt Nam, nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924), đã mô tả một
loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở bảo tàng Paris.
Ông đặt tên loài là Ephemeraduporti, do các loài thuộc giống Ephemera có kích
thước lớn, phân bố khá rộng và dễ thu thập nên nó được tiếp tục nghiên cứu ở giai
đoạn này. Sau đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài Ephemera longiventris và
Ephemera innotata, cũng dựa trên các mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam. Cho
đến nay, hai loài này cũng chưa tìm thấy ở các khu vực phân bố khác, nên có thể
xem chúng như là loài đặc hữu cho khu hệ Ephemeroptera ở Việt Nam.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du [5].
Nguyen Van Vinh and Yeon Jae Bae (2001, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007,
2008) ở một số Vườn Quốc gia của Việt Nam. Những nghiên cứu này, đã công bố
hàng loạt các kết quả về các loài Ephemeroptera ở Việt Nam, và đã bổ sung danh
sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng như xây dựng các khóa định loại tới
loài [19] [20] [22] [23] [24] [25] [26].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14 họ
Phù du ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại và
mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam, nghiên

9


cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở
nước ta [20].
Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Tam
Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu

tiên ghi nhận cho Vườn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi
Muller - Liebenau, 1980; Baetiellatrispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella
albostriata Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon, 2000;
Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871; Choroterpes
trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer, 1939; Caenis cornigera
Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer, 1912 [7]. Ngoài việc phân loại
các loài thuộc bộ côn trùng này, tác giả còn nhận xét về sự phân bố của chúng theo
độ cao của suối Thác Bạc.
Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Ba Vì,
Hà Tây đã thu được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ. Trong đó có một loài ghi nhận
lần đầu tiên cho khu vực là Teloganodes tristis (Hagen, 1858) [8]. Trong khoảng
thời gian này, tác giả cũng tiến hành điều tra thành phần loài Phù du ở một số Vườn
Quốc gia khác ở Việt Nam [9] [10].
* Nghiên cứu về Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và
chưa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trưởng thành.
Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp:
Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae,
Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống
mới là Merogomphus [2].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [5].

10


Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng nước

ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ Chuồn
chuồn ở khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu trùng
chuồn chuồn ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân loại
đến bậc giống [3].
* Nghiên cứu về Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã được quan tâm nghiên cứu
trong thơi gian gần đây. Một vài loài đã được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick
(1988), Stark và cộng sự (1999) [13], nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn
trưởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác định lại và mô tả một số
loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trước đó và những điều tra về
sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng được thu thập ở Việt Nam. Thêm vào
đó là việc xác định khóa định loại tới loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim
Thu (2002), đã xây dựng khóa định loại tới loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta [13].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm côn trùng nước
ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết quả cho
thấy số loài Cánh úp ở Vườn Quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [7].
* Nghiên cứu về Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu
như: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu
tiên của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis,
ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo,
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các
tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) [12] nghiên
cứu về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 - 1989)
mô tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [15].


11


Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng khóa
định loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp ở nước ta. Hoàng Đức Huy (2005) mô
tả đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngoài của các loài Cánh lông ở Việt Nam dựa vào
giai đoạn ấu trùng [5].
* Nghiên cứu về Cánh cứng, Hai cánh, Cánh nửa, Cánh vảy và Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai cánh
(Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản mạn.
Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng với
các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn Văn
Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo [19]; Cao Thị Kim Thu,
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã
[14], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định loại các nhóm động vật
không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam [5].
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt đầu vào
những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera) được
mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam. Tiếp
theo, khu hệ Gerridae ở Việt Nam tiếp tục được mô tả bởi Andersen (1975, 1980,
1993); Andersen & Cheng (2004); Polhemus (2001); Chen & Zettel (1999),
Polhemus & Andersen (1994); Polhemus & Karunaratne (1993) [27].
Trần Anh Đức (2008), mô tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của các
loài thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ
Cánh nửa ở nước ta [27].
1.3. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã Đại Đình, huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc
1.3.1. Khái quát điều kiện tự nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lí
Vị trí: Khu vực nghiên cứu chính thuộc địa bàn xã Đại Đình, là xã miền núi

nằm ở phía Bắc của huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Đông Bắc Đại Đình là
dãy núi Tam Đảo hùng vĩ nằm án ngữ tạo nên gianh giới tự nhiên giữa tỉnh Vĩnh

12


Phúc và tỉnh Thái Nguyên, phía Tây Đại Đình giáp huyện Lập Thạch, phía
Nam giáp các xã Đồng Tĩnh, Hoàng Hoa, Tam quan. Xã có tuyến đường tỉnh lộ 302
chạy qua, tạo thuận lợi cho Đại Đình trong quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa – xã
hội. Nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 65 km về phía Tây Bắc. Tổng diện tích tự
nhiên toàn xã là 3452 ha, Trong đó diện tích trồng trọt là 512 ha, còn lại là đất đồi
rừng, thổ cư và ao hồ.
1.3.1.2. Đặc điểm khíhậu.
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng khíhậu nhiệt đới mưa mùa (mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), chịu ảnh hưởng
của hai loại gió chính là gió mùa Đông - Bắc và gió Đông - Nam.
0

Nhiệt độ không khí trung bình năm là 22 - 23 C. Độ ẩm tương đối khoảng 80 0

86 C. Lượng mưa trung bình quân năm 2570 mm, phân bố không đều trong năm.
Tam Đảo nằm trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc nên chịu ảnh
hưởng của nhiệt đới gió mùa ẩm. Mưa bão có sự tác động tiêu cực đến sản xuất
và đời sống. Chế độ gió theo mùa, mùa hè chủ đạo là gió Đông Nam, mùa đông
chủ đạo là gió mùa Đông Bắc.
1.3.1.3. Mạng lưới thủy văn
Đại Đình có hai hệ thống sông chính là sông Phó Đáy ở phía Tây (Tuyên
Quang, Vĩnh Phúc) và sông Công ở phía Đông (Thái Nguyên). Đường phân thủy rõ
rệt nhất của hai hệ thống sông này là các đường dông nối các đỉnh núi suốt từ Mỹ
Khê ở cực Nam đến Đèo Khế ở điểm cực Bắc.

2

Mật độ sông suối khá dày (trên 2 km/km ), các suối có thung lũng hẹp, đáy
nhiều ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém. Do đặc điểm khíhậu
mưa lớn, mùa mưa kéo dài, lượng bốc hơi ít nên cán cân nước dư thừa. Đó là
nguyên nhân làm các dòng chảy từ đỉnh Tây Thiên xuống có nước quanh năm.
Chế độ thủy văn được chia thành 2 mùa khá rõ rệt: mùa lũ và mùa khô. Mùa lũ
trùng với mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau. Lũ lớn thường xảy ra vào tháng 8, lũ tập trung nhanh và rút cũng nhanh.

13


Dòng chảy trong mùa khô do không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho
sông chủ yếu là do nước ngầm (phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng
mưa phùn mùa đông). Do đó, cả hai sông: Phó Đáy và sông Công đều có dòng chảy
rất nhỏ. Như vậy, khả năng cung cấp nước cho mùa đông là rất hạn chế. Trong vùng
cũng có những hồ chứa cỡ lớn như: hồ Núi Cốc, hồ Đại Lải; các hồ cỡ trung bình
hoặc nhỏ như: hồ Xạ Hương, Khôi Kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai…Đó là nguồn dự trữ
nước khá phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất của nhân dân trong vùng.
Hệ thống suối chính ở Tây Thiên là suối Tây Thiên. Suối có nhiệt độ nước tương
đối thấp, ít khi tăng cao và có xu hướng ổn định. Do đặc điểm địa hình chảy từ độ
dốc trên 35m nên có tốc độ nước chảy mạnh, cuốn theo các chất mùn bã. Vìvậy
suối ở đây khá trong, hầu như không có hiện tượng lắng đọng. Nền đáy suối chủ
yếu là đá tảng, ít chất mùn. Vào mùa mưa lưu lượng dòng nước khá lớn thường
cuốn theo mùn bã thực vật, xác động vật, lá khô… Do đó mùa này, nước suối
thường vẩn đục. Trong khi đó vào mùa khô dòng nước chảy từ các mạch nước
ngầm với tốc độ chậm hơn nhiều.
1.3.2. Khái quát kinh tế xã hội
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 14 – 15%/năm, lương thực bình quân

đầu người đạt 350 kg/người/năm, thu nhập bình quân đầu người 11,2 triệu
đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến rõ rệt, nhờ có tiềm năng, lợi thế
về du lịch tâm linh, tín ngưỡng, sinh thái mà ngành dịch vụ - du lịch ngày càng
chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu ngành kinh tế. Năm 2011, du lịch – dịch vụ chiếm
34%, nông lâm thủy sản chiếm 42% và công nghiệp – xây dựng chiếm 24%. Giá trị
sản xuất nông nghiệp 5 năm qua của xã đạt 70,7 tỷ đồng, giá trị sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải đạt 40,657 tỷ đồng. Tổng thu nhập từ hoạt
động du lịch năm năm trở lại đây đạt 60 tỷ đồng.
An ninh, trật tự an toàn xã hội luôn đảm bảo. Hàng năm xã thực hiện tốt công
tác dân vận, hoàn thành tốt việc quyển chọn và gọi công dân nhập ngũ và công tác
huấn luyện dân quân tự vệ, nhiều năm ban Chỉ Huy Quân Sự xã được cấp trên khen
thưởng và tặng nhiều bằng khen.

14


Xã Đại Đình được tỉnh, huyện đầu tư nhiều công trình trọng điểm như: Khu
trung tâm Văn hóa lễ hội Tây Thiên, Bảo Tháp, chùa Thiên Ân, làng văn hóa du
lịch cộng đồng (thôn Đồng Thỏng), quy hoạch, trùng tu tôn tạo lại các nhà
đền thuộc Khu danh thắng Tây Thiên… Hiện nay, các hạng mục công trình đang
được triển khai xây dựng và hoàn thiện. Khi đi vào hoạt động đây sẽ là những
điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng thăm quan thắng cảnh lý tưởng thu hút du
khách thập phương trong và ngoài nước. Dự kiến trước năm 2020 Tây Thiên sẽ
trở thành thị trấn và là Trung tâm lễ hội của tỉnh Vĩnh Phúc.

15


×