Bài tiểu luận cuối môn Ngân háng TW và Chính sách tiền tệ _ Khóa 18604
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA FINTECH
TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF FINTECH
IN THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Nguyễn Xuân Hoàng1, Nguyễn Trịnh Ngọc Hồng2 Nguyễn Bá Duy Khánh3, Lê Anh Khải4
1
3
MSHV: C18604046, Email:
MSHV: C18604047, Email:
2
MSHV: C18604040, Email:
4
MSHV: C18604048, Email:
TÓM TẮT: Vài năm qua Fintech đã không ngừng phát triển trên toàn thế giới và đặc biệt là
trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đánh giá về cơ hội và thách thức
trong việc áp dụng Fintech cho các tổ chức tài chính tại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải
pháp hiệu quả và hành động thiết thực để cải thiện các chính sách phù hợp cho các bên liên
quan để thúc đẩy ứng dụng Fintech trong hoạt động của các tổ chức tài chính từ kết quả
cải thiện môi trường hoạt động tài chính ở Việt Nam.
TỪ KHÓA: Cơ hội, thách thức, công nghệ tài chính, Fintech, cách mạng công nghiệp 4.0.
ABSTRACTS: The past few years Fintech has been constantly evolving around the world and
especially in the context of the 4.0 industrial revolution. Evaluate the opportunities and
challenges in applying Fintech to financial institutions in Vietnam, thereby proposing
practical and effective solutions to improve appropriate policies for stakeholders to promote
Fintech application in the operation of financial institutions from the results of improving
financial operating environment in Vietnam.
KEYWORDS: Opportunities, challenges, financial technology, Fintech, The industrial
revolution 4.0.
1
1. GIỚI THIỆU
Năm 2018 là một năm tuyệt vời của công nghệ tài chính (hay còn gọi là Fintech) với giá
trị giao dịch gần 40 tỷ đô la. Fintech đang phát triển trên quy mô toàn cầu với các giao dịch
bên ngoài các thị trường cốt lõi (Mỹ, Anh và Trung Quốc) chiếm 39% các giao dịch. Hoa Kỳ
vẫn là thị trường hàng đầu cho các giao dịch với 659 khoản đầu tư trị giá 11,89 tỷ đô la, cả
hai đều là mức cao hàng năm mới. Hiện có 39 “con kỳ lân Fintech” – những công ty Fintech
mới gia nhập – được các nguồn đầu tư mạo hiểm hậu thuẫn với tổng trị giá lên đến 147,37
tỷ đô.
Những thống kê từ năm 2018 cho thấy Fintech sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Với
nhiều khu vực hoàn thiện chuỗi giá trị của Fintech, nhiều công nghệ mới nổi lên và nhiều
trung tâm giao dịch Fintech được thực hiện trên toàn thế giới, năm 2019 có thể là một năm
thú vị theo dõi sự bùng nổ của các công nghệ tài chính vì đây là một năm phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0).
Fintech là một trong những lĩnh vực còn khá mới tại Việt Nam với những hình thức khá
đơn giản và tập trung chủ yếu ở những mảng về thanh toán điện tử, các ứng dụng công
nghệ số vào lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy việc làm rõ cơ hội và thách thức cho sự phát triển
của Fintech là một trong những vấn đề lớn đặt ra trong bài báo. Từ đó đưa ra những khuyến
nghị cụ thể chi tiết giúp cho doanh nghiệp và các nhà quản lý tài chính có cái nhìn tổng quan
nhất và hỗ trợ cho sự phát triển của Fintech tại Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Công nghệ tài chính FINTECH
Kinh tế số theo nghĩa hẹp có thể hiểu là nền tảng ICT (Công nghệ thông tin và truyền
thông) và hoạt động dựa trên nền tảng đó. Những lĩnh vực liên quan bao gồm viễn thông,
dịch vụ thông tin, sản xuất phần cứng và cơ sở hạ tầng Kinh tế số theo nghĩa rộng là tất cả
các hoạt động sử dụng dữ liệu số hóa chính là một phần của kinh tế số trong nền kinh tế
hiện đại. Những lĩnh vực liên quan như kỹ thuật số hóa, nền kinh tế chia sẻ trên nền tảng
kỹ thuật số, cách mạng công nghiệp 4.0, nông nghiệp thông minh, và chính phủ điện tử…
(Brynjolfsson, E., & Kahin, B. (Eds.). (2002))
Sự phát triển của hệ sinh thái số đã hình thành nên Fintech. Với nền tảng công nghệ
thông tin truyền thông mới đã làm thay đổi cách sống, làm việc, tiêu thụ và sản xuất hàng
hóa dịch vụ của người dân. Góp phần giảm chi phí, gia tăng sức mạnh về tính toán, loại bỏ
các trung gian thanh toán, quy trình kinh doanh hợp lý và gia tăng tính hiệu quả bằng việc
tiếp cức trên thời gian thực. Từ đó dẫn đến sự ra đời của các dịch vụ tài chính dựa trên các
công nghệ tài chính (Fintech) cải thiện hiệu quả của hệ thống tài chính và đặt sở thích và
trải nghiệm của khách là lên đầu là một trong những yếu tố quan trọng khiến cho công
nghệ tài chính được tiếp nhận nhanh và phát triển rộng khắp.
Trong giai đoạn đầu phát triển, Fintech, một thuật ngữ được đặt ra từ hai thuật ngữ
riêng biệt: “Financial” và “Technology”, thường được sử dụng để mô tả quá trình áp dụng
các công nghệ mới để tự động hóa nguồn ứng dụng và sử dụng các dịch vụ tài chính. Sau
đó, các tổ chức tài chính áp dụng công nghệ thông tin, tạo ra phần mềm chuyên dụng để
nâng cao hiệu quả của các giao dịch tài chính. Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ
mới dưới tác động của CMCN 4.0, hàm ý của thuật ngữ Fintech đã được mở rộng để tiếp
cận nhiều khách hàng hơn. Cụ thể, đó là việc áp dụng các phát minh công nghệ mới để tăng
số lượng khách hàng có thể truy cập các dịch vụ tài chính như; Gọi điện trực tuyến, cho
vay ngang hàng, thanh toán và chuyển khoản tự động, quản lý tài chính cá nhân, quản lý đầu
tư, bảo hiểm, quản lý rủi ro, ... (Gregor Dorfleitner and colleagues, 2017)
2.2. Cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ thế
kỷ XVIII đến XIX ở châu Âu và Mỹ. Đó là thời kỳ mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông
thôn đã trở thành công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt và dệt, cùng với sự phát
triển của động cơ hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 2: Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ năm 1870
đến năm 1914, ngay trước Thế chiến I. Đó là giai đoạn tăng trưởng của các ngành công
nghiệp đã có từ trước và mở rộng các ngành mới, như thép, dầu, điện, và sử dụng điện để
sản xuất hàng loạt. Các tiến bộ kỹ thuật chủ yếu trong giai đoạn này bao gồm điện thoại,
bóng đèn, đĩa hát và động cơ đốt trong,...
Cách mạng công nghiệp lần thứ 3: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, tạm được xem
là cuộc cách mạng kỹ thuật số, đề cập đến sự tiến bộ của công nghệ từ các thiết bị cơ
điện tử tương tự sang công nghệ số ngày nay. Kỷ nguyên bắt đầu vào những năm 1980 và
vẫn đang diễn ra. Những tiến bộ trong Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm
máy tính cá nhân, internet và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).Tiến bộ trong Cách
mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm các máy tính cá nhân, internet, công nghệ thông tin
và mạng xã hội. (Schwab, K. (2017))
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xây dựng dựa
trên những Kỹ thuật số, cuộc cách Mạng, đại diện cho những cách mới công nghệ trở nên
nhúng trong xã hội và ngay cả cơ thể con người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được
đánh dấu bởi công nghệ mới đột phá trong một số trường, bao gồm cả robotics, trí thông
minh nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet vạn vật, in 3D, và xe tự lái.
Khái niệm công nghiệp 4.0 xuất hiện đầu tiên trong một bài báo được xuất bản bởi chính
phủ Đức vào tháng 11 năm 2011, như là một chiến lược công nghệ cao cho năm 2020. Sau
khi cơ giới hóa, điện khí hóa và thông tin, giai đoạn thứ tư của công nghiệp hóa được đặt
tên là Công nghiệp 4.0. Vào tháng 4 năm 2013, thuật ngữ Công nghiệp 4.0 xuất hiện trở lại
tại một hội chợ công nghiệp ở Đức, và nhanh chóng trở thành chiến lược quốc gia của
Đức. Trong những năm gần đây, Công nghiệp 4.0 đã được thảo luận rộng rãi và trở thành
điểm nóng cho hầu hết các ngành công nghiệp toàn cầu và ngành công nghiệp thông tin.
Công nghiệp 4.0 sẽ là một cuộc cách mạng công nghiệp mới, sẽ có ảnh hưởng lớn đến
công nghiệp quốc tế. (Sommer, L. (2015). Industrial revolutionindustry 4.0)
Do ngành sản xuất của Việt Nam hiện đang trong tình trạng chuyển đổi và nâng cấp công
nghiệp, Công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội hơn và thách thức hơn nếu
tập trung khai thác ở lĩnh vực này và đặc biệt hơn là trong lĩnh vực tài chính tiêu biểu nhất
là công nghệ tài chính (Fintech)
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu sử dụng là định tính. Nghiên cứu các báo cáo trước và những
nghiên cứu thực nghiệm, tài liệu văn bản cũng như những thông kê từ những tổ chức uy tín
trong nước và thế giới. Đa số các nghiên cứu về Fintech đều sử dụng phương pháp nghiên
cứu định tính do còn rất mới mẻ và sơ khai, tại Việt Nam có rất ít công trình nghiên cứu
Fintech sử dụng phương pháp định lượng. Ví dụ: Công trình nghiên cứu về Tác động của
công nghệ đến đa dạng hóa thu nhập ngân hàng theo cách tiếp cận phương pháp của De
Young & Rice (2004) của PGD.TS Trầm Thị Xuân Hương
Ưu điểm: giúp bài nguyên cứu có được những ý kiến và quan điểm của các chuyên giao,
Có thể tiếp cận những thông tin mới nhất và những số liệu được công bố trên toàn cầu, Dữ
liệu chuyên ngành đã được các tác giả chọn lọc cũng như là nguồn dữ liệu uy tín.
Nhược điểm: Có những thông tin được bảo vệ, không có sẵn để truy cập công khai hay
riêng tư, những báo cáo nước ngoài phải qua chuyển ngữ có thể làm sai lệch về từ chuyên
môn, các báo cáo có thể không được cập nhật mới hay không chính xác.
4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
4.1. Thực trạng của Fintech tại Việt Nam
4.1.1. Hiện trạng chính sách về phát triên tài chính và liên quan đên
̉
́ ứng dụng Fintech ở
Việt Nam.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự phát triển của điện thoại thông
minh các sản phẩm, dịch vụ tài chính đổi mới, sáng tạo trên cơ sở ứng dụng công nghệ
đang dần ngày càng phát triển gần gũi với người dân. Trong bối cảnh đó, xây dựng hành
lang pháp lý cho hoạt động thanh toán gắn với các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới nói
riêng và hoạt động tài chính nói chung cũng được Chính phủ, ngân hàng nhà nước(NHNN),
cơ quan quản lý hữu quan quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhiều đề án,
văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động thanh toán và tài chính đã được xây
dựng, ban hành.
4.1.2. Đánh giá thực trạng cơ chê chính sách v
́
ề ứng dụng Fintech trong lĩnh vực thanh
toán đối vơi các t
́
ổ chức tài chính tại Việt Nam
Trong thời gian qua, trong bối cảnh Fintech phát triển mạnh và xu hướng thúc đẩy phổ
cập tài chính tại Việt Nam, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước mà trước hết là
NHNN đã rất nỗ lực và đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập một hệ sinh thái
Fintech với khuôn khổ pháp lý phù hợp, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính từng bước
hội nhập vào hệ thống ngân hàng tài chính trong thời đại CMCN 4.0.
Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa bắt kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu khách hàng
khu vực tài chính ở Việt Nam hiện nay cũng như những tiềm năng của khu vực này trong
việc ứng dụng Fintech để mở rộng tập khách hàng góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội.
Việt Nam mới chỉ dừng ở giai đoạn đầu là tập trung phát triển lĩnh vực tài chính nói
chung và ngân hàng nói riêng. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài chính ứng dụng Fintech
về cơ bản mới chỉ áp dụng trong hoạt động thanh toán.
Fintech là sự thiết yếu của lĩnh vực tài chính trong tương lai. Giúp phương thức thanh
toán trở nên an toàn hơn, tiện lợi và giảm thiểu chi phí. Tận dụng đổi mới, sáng tạo công
nghệ từ Fintech giúp nền tài chính nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu, kỳ
vọng khách hàng.
Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội để phát triển thanh toán di động dựa trên lợi thế
so sánh về quy mô dân số, tốc độ phát triển Internet, ty l
̉ ệ người dân sử dụng điện thoại di
động cao, người dân ưa thích sử dụng ứng dụng công nghệ trong thanh toán, đặc biệt thị
trường bán lẻ. Các hình thức thanh toán qua di động với nhiều tiện ích trên cơ sở ứng dụng
các công nghệ mới như mã phản hồi nhanh QR Code, giao tiếp trường gần NFC hay
mPOS... đã được người tiêu dùng đón nhận và có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ.
Tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường, thúc đẩy cạnh tranh, đổi mớisáng tạo.
Nhờ ưu thế của công nghệ thông tin/mạng di động so với mạng lưới chi nhánh vật lý
truyền thống và sự phổ biến của điện thoại di động. Đây là một trong những giải pháp đột
phá, giúp đẩy mạnh phổ cập tài chính, đưa dịch vụ ngân hàngtài chính đến số đông người
dân.
4.2. Cơ hội của Fintech trong CMCN 4.0
4.2.1 Tiềm năng phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính ứng dụng Fintech đối với các
TCTCVM Việt Nam
Với sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, số người tiếp cận Internet ngày càng nhiều và
dân số gần 100 triệu dân – trong đó số người trẻ và am hiểu công nghệ chiếm tỷ lệ cao –
Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển ngành công nghệ tài chính (Fintech). Tuy nhiên,
đến nay vẫn tồn tại lực cản trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân ở khu vực
nông thôn khi mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng, tổ chức tài chính tại
các khu vực này vẫn còn rất ít và xa nơi sinh sống của họ. Ngược lại, các tổ chức tài chính
cũng gặp thách thức lớn trong việc mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động khi phải cân
bằng giữa hiệu quả với chi phí đầu tư vào khu vực này.
Tỷ lệ tiếp cập điện thoại di động, Internet của người dân khu vực nông thôn Việt Nam
ngày càng tăng cao, vấn đề trở ngại do khoảng cách địa lý trong tiếp cận dịch vụ tài chính
của nhóm dân cư này có thể được loại bỏ và không còn trở thành quá khó khăn. Tuy nhiên,
để có thể cung ứng được dịch vụ đòi hỏi các tổ chức tài chính cần phải đầu tư, phát triển
các kênh cung ứng dịch vụ hiệu quả hơn thông qua các giải pháp công nghệ thay vì đầu tư
và sử dụng các hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch cũng như đội ngũ cán bộ truyền thống
như hiện nay.
Vì thế trong thời điểm cách mạng công nghệ số như hiện nay thì những điểm trên lại là
một tiềm năng lớn cho Fintech có thể phát triển vì công nghệ tài chính khi được phổ biến
rộng rãi đến những vùng nông thôn sẽ lấy được thị phần rất lớn mà những tổ chức tài chính
lớn như Ngân hàng không thể phủ khắp các tỉnh vùng miền và tận những nơi hẻo lánh. Vì
không tốn các chi phí xây dựng hệ thống các cơ sở vật lý, phòng giao dịch cũng như thuê
nhân viên mà chỉ cần xây dựng hệ thống ứng dụng thuận tiện và có các tính năng vượt trội
đã là tiềm năng rất lớn để phát triển Fintech đến người dân.
4.2.2. Thuận lợi của Fintech tại Việt Nam có thể tăng cường bởi sự phát triển công nghệ
thông tin (CNTT)
Với những bước tiến khá nhanh về phát triển trong thời gian qua từ lúc bắt đầu cuộc
CMCN 4.0, đến thời điểm hiện tại lĩnh vực CNTT của Việt Nam có sự phát triển vượt trội
và thiết lập được một cơ sở hạ tầng cơ bản cho sự phát triển của các lĩnh vực khác trong
nền kinh tế.
Thị trường dịch vụ viễn thông, Internet cạnh tranh với chất lượng ngày càng tăng, toàn
thị trường có 74 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cố định mặt đất, 5 doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ di động mặt đất và 51 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet.
Đối với các tổ chức tài chính nói chung và Fintech nói riêng thì sự phát triển của lĩnh vực
CNTT và di động tại Việt Nam trong thời gian qua và trong thời gian tới sẽ mang lại những
cơ hội rất lớn khi vấn đề về khoảng cách địa lý là trở ngại lớn nhất trong quá trình cung
ứng dịch vụ của các tổ chức tài chính tới khách hàng sẽ có cơ hội bị xóa nhòa nhờ CNTT và
Internet với chi phí thấp.
Công nghệ điện thoại di động và Internet sẽ tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng, tổ chức tài
chính mở rộng mạng lưới tiếp cận tới khách hàng, cho phép cung ứng dịch vụ đến những
nơi mà mạng lưới ngân hàng chưa bao phủ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, những nơi
không có các điểm giao dịch ngân hàng và những đối tượng không được tiếp cận hoặc ít có
điều kiện tiếp xúc các dịch vụ tài chính truyền thống. Nếu như việc xây dựng một mạng
lưới điểm giao dịch ngân hàng truyền thống rất tốn kém và không mang lại lợi nhuận cho
các ngân hàng khi chi phí quá cao và doanh thu không thể bù đắp thì các dịch vụ tài chính di
động được xây dựng dựa trên giải pháp Fintech sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành
mạng lưới giao dịch nhanh chóng và rẻ hơn cho các ngân hàng cũng như các tổ chức tài
chính.
4.2.3. Công nghệ thay đổi, xu hướng người dùng thay đổi
Thoi quen tiêu dùng, thanh toán và s
́
ử dụng dịch vụ tài chính cơ bản. Tại thị trường hiện
nay, phần lớn người dân chủ yếu gắn bó với các loại hình chợ truyền thống. Do đó, mọi
nhu cầu thanh toán hàng ngày vẫn diễn ra thông qua sử dụng tiền mặt là chính. Đối với lĩnh
vực tín dụng, tâm lý chung của người dân Việt Nam là không muốn vay do tâm lý ngại vay
mượn và ngại hoàn thiện các quy trình thủ tục vốn chặt chẽ và khó hiểu so với trình độ và
nhận thức của người dân theo yêu cầu của các tổ chức chính tài chính. Hay như đối với lĩnh
vực bảo hiểm, do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên nói chung bản thân người dân vẫn
chưa hiểu, chưa mặn mà và không quan tâm tới các dịch vụ bảo hiểm, tâm lí chung của
người dân là không sẵn sàng bỏ tiền ra để trả phí bảo hiểm cho một sự thiệt hại không
chắc chắn. Như vậy, bản thân thói quen, tâm lý của người dân cũng chính là những rào lớn
lớn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ tài chính của các tổ chức tài chính tại Việt
Nam. Văn hóa làng xã Việt Nam đã phát triển hàng trăm năm, gắn kết người dân với nhau
trong một tổng thể vững chắc, vì vậy, việc thay đổi thói quen của người dân nông thôn
trong việc sử dụng các dịch vụ thanh toán, tín dụng hay bảo hiểm hiện đại là cả một quá
trình khó khăn và lâu dài.
Tuy nhiên sự xuất hiện của các ứng dụng nền tảng số như Grab, Uber, AbnB, Go Viet...
đã thay đổi cách mua sắm, di chuyển và sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng. Điều này đã
kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech. Trên toàn thế giới hiện có 16 tỷ thẻ
khác nhau, các công nghệ như AI (trí tuệ nhận tạo), IoT (internet vạn vật), machine learning
khiến thế giới có 20 tỷ phương tiện thanh toán khác nhau. Sự phát triển của công nghệ ứng
dụng mới đã khiến hành vi sử dụng của khách hàng thay đổi và tác động mạnh đến thanh
toán điện tử.
Thị trường Fintech tại Đông Nam Á đang ở giai đoạn đột phá và phát triển mạnh mẽ liên
quan đến tiếp cận tài chính và cho vay người dùng, Việt Nam đang có môi trường thuận lợi
để phát triển. Chính phủ tại các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam rất cởi mở chào đón
nhà đầu tư và đây là thời điểm hoàn hảo để khởi nghiệp lĩnh vực Fintech. Việt Nam có
tiềm năng Fintech vì có dân số trẻ hơn so với các quốc gia khác, trình độ dân trí cao và khả
năng sử dụng cũng như ứng dụng công nghệ tốt. Sự phát triển của các siêu ứng dụng như
Grab, Go Pay, xu hướng tiêu dùng đã có sự thay đổi mối quan hệ giữa bên cho vay (ngân
hàng và các thể chế tài chính) và khách hàng, bên được lời đương nhiên là người tiêu dùng.
Trong quá khứ tiếp cận tài chính rất khó khăn tại Đông Nam Á. Một con số thống kê cho
thấy có 3 tỷ người trên toàn thế giới chưa được đáp ứng nguồn vốn để làm kinh tế, trong
đó có 2 tỷ người có khả năng cho vay nhưng họ không tiếp cận được với ngân hàng và với
xu hướng số hóa các ngân hàng hay doanh nghiệp Fintech có thể biết được nhiều thông tin
về khách hàng. Họ có thể giải được bài toán nhu cầu khách hàng trước đây không có lịch sử
tín dụng tốt hay chưa có lịch sử vay thế chấp và bị liệt vào hạng rủi ro bằng cách xây dựng
cơ sở dữ liệu đánh giá rủi ro để các ngân hàng cho vay đối tượng khách hàng này.
4.3. Thách thức của Fintech trong cuộc CMCN 4.0
Tuy nhiên, đi cùng với những cơ hội phát triển Fintech vẫn còn không ít thách thức:
Thứ nhất, hành lang pháp lý một số quốc gia chưa thực sự đầy đủ, chính xác nhất là đối
với những công nghệ mới. Thời gian cập nhật, sửa đổi, bổ sung pháp lý, văn bản quy phạm
pháp luật, các quy định chuyên ngành còn chậm so với tốc độ phát triển nhanh chóng mặt
của lĩnh vực công nghệ nói chung, hay Fintech nói riêng. Sự yếu kém về hành lang pháp lý
này dẫn đến việc lỏng lẻo trong việc tiếp cận tài chính và khuyến khích các hành vi rủi ro
làm tăng dư nợ xấu ở các công ty tài chính. Hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm tăng
cường năng lực quản trị và hoạt động của các tổ chức có hoạt động tổ chức tài chính nhất
là quy định hành lang pháp lý về Fintech tại Việt Nam để các tổ chức tổ chức tài chính có
thể ứng dụng được Fintech không chỉ trong nghiệp vụ mà cả trong lĩnh vực quản lý để từ
đó cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng công nghệ của một số quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ bảo mật dữ liệu, bảo mật thông tin người
tiêu dùng. Việc chuyển đổi mô hình hoạt động từ mô hình truyền thống sử dụng con người
là chính sang mô hình hoạt động dựa trên công nghệ hay mạng Internet sẽ khiến các tổ chức
tài chính gặp phải không ít thách thức trong vấn đề quản lý hoạt động, đặc biệt là sự không
sẵn sàng của đội ngũ cán bộ vốn có trình độ công nghệ thấp và những rủi ro khi đối mặt
với các vấn đề về đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật thông tin khách hàng qua hệ thống
mạng.
Thứ ba, các DN Fintech thường gặp khó khăn về mô hình kinh doanh, mô hình quản trị
cũng như đường hướng phát triển lâu dài, điều này khiến cho DN khó có thể phát triển lớn
mạnh.
Thứ tư, ý thức của người tiêu dùng sản phẩm Fintech còn hạn chế, đôi khi tạo ra những
“lỗ hổng bảo mật”. Người dân còn chưa có ý thức trong việc bảo mật những thông tin cá
nhân như họ và tên, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, số tài
khoản… Điều này làm gia tăng mạnh nguy cơ ảnh hưởng đến tài khoản của chính người
tiêu dùng cũng như các tổ chức tài chính.
4.4. Những chính sách thúc đẩy sự phát triển Fintech tại Việt Nam
Việt Nam đã và đang xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán gắn với các
sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới nói riêng và hoạt động Fintech nói chung cũng được
Chính phủ, NHNN, cơ quan quản lý hữu quan quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Trong thời
gian qua, nhiều đề án, văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động thanh toán và
Fintech đã được xây dựng, ban hành, cụ thể:
Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô Việt Nam đến năm 2020 (Quyết
định số 2195/QĐTTg ngày 06/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ). Mục tiêu của Đề án là
xây dựng và phát triển hệ thống TCTCVM an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu phục vụ
người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, góp
phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội và giảm
nghèo bền vững. Đề án đưa ra 3 giải pháp để thực hiện những mục tiêu trên, đó là: (i) Xây
dựng môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động TCVM; (ii) Nâng cao
năng lực hoạch định chính sách và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước; (iii) Nâng cao
năng lực của các TCTCVM. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phát triển TCVM Việt Nam
trong thời gian qua và trong những năm tới. • Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ
ngân hàng cho nền kinh tế (Quyết định 1726/QĐTTg ngày 5/9/2016 của Thủ tướng Chính
phủ). Đề án đề cập đến 3 vấn đề xuyên suốt từ mục tiêu đến các giải pháp cần đạt được
là: (i) gia tăng kênh cung ứng dịch vụ ngân hàng; (ii) gia tăng số lượng và chất lượng sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, thiết kế đơn giản, dễ tiếp cận đối với người dân, doanh nghiệp,
nhất là người dân vùng sâu, vùng xa, người nghèo; (iii) gia tăng mức độ sử dụng dịch vụ
ngân hàng. Đề án cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát, 8 mục tiêu cụ thể cần đạt được đến
năm 2020 bao gồm: 70% dân số trưởng thành có tài khoản tại các ngân hàng; có ít nhất 20
chi nhánh, phòng giao dịch/100.000 dân số trưởng thành; Khoảng 30.000 máy ATM (40
máy/100.000 dân số trưởng thành); 300.000 POS (400 POS/100.000 dân số trưởng thành); có
khoảng 15% số chi nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng thương mại mở tại địa bàn
nông thôn; khoảng 35 40% người trưởng thành ở nông thôn có tiết kiệm tổ chức tín dụng;
khoảng 50 60% DN nhỏ và vừa đang hoạt động tiếp cận tín dụng; tăng gấp 2 lần ty tr
̉ ọng
thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 202045
(Quyết định số 2545/QĐTTg ngày 30/12/2016), với một số mục tiêu, giải pháp liên quan
đến việc ứng dụng Fintech nhằm khuyến khích, thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng
tiền mặt, trong đó có các dịch vụ thanh toán qua Internet, điện thoại di động, thẻ ngân hàng,
trung gian thanh toán... và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán nói riêng, dịch vụ
ngân hàng nói chung, thúc đẩy phổ cập tài chính.
Đề án thí điểm phát triển một số hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực
nông thôn tại Việt Nam. Đề án đưa ra giải pháp thí điểm cho một số NHTM trên cơ sở ứng
dụng khoa học công nghệ và tận dụng mạng lưới có sẵn của các tổ chức khác như hệ
thống bán lẻ xăng dầu, các điểm cung ứng dịch vụ viễn thông, hệ thống bưu cục… để thực
hiện một số nghiệp vụ trong quy trình cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng (chủ
yếu là chuyển tiền, nộp/rút tiền từ tài khoản của khách hàng tại ngân hàng) nhằm cung ứng
dịch vụ thanh toán cho các khách hàng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo, nơi không có sự phục vụ của ngân hàng và cho những đối tượng chưa có tài khoản
ngân hàng.
Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”
(Quyết định số 844/QĐTTg ngày 18/5/2016) với các mục tiêu: (i) Tạo lập môi trường thuận
lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả
năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh
mới và (ii) Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Đề án nhằm
tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình phát triển hoàn thiện hệ sinh
thái, cơ chế quản lý phù hợp và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp Fintech ở Việt Nam phát triển; đồng thời, xây dựng chiến lược và kế hoạch phát
triển lĩnh vực Fintech tại Việt Nam phù hợp với chủ trương, định hướng của Chính phủ.
Bên cạnh các Đề án nói trên, có thể kể đến một số quy định của luật, Nghị định của
Chính phủ, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước có liên quan như:
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã khẳng định tổ chức tài chính là một loại hình tổ
chức tín dụng trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam, chịu sự quản lý của
NHNN. Đây là một bước tiến dài đối với lĩnh vực Fintech. Các tổ chức cung cấp Fintech
như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Hợp tác xã, Quỹ tín dụng nhân dân, các tổ
chức tài chính cung cấp dịch vụ tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác và
các dịch vụ phi tài chính khác đã mở ra cánh cửa thoát nghèo cho người dân và được người
nghèo đánh giá cao.
Nghị định số 52/2013/NĐCP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử; Nghị định số
35/2007/NĐCP ngày 8/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Các Nghị
định này đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho thương mại điện tử, khuyến khích người
dân tiếp cận, thực hiện các dịch vụ điện tử, là tiền đề để người dân thực hiện các dịch vụ
áp dụng công nghệ hiện đại.
Nghị định số 101/2012/NĐCP ngày 22/11/2012 quy định về thanh toán không dùng tiền
mặt (sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 80/2016/ NĐCP) đã tạo hành lang pháp lý
quan trọng về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán, góp
phần thúc đẩy mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử tại Việt Nam
và cho phép các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, tiện ích đi vào cuộc sống.
NHNN đã ban hành một số Thông tư hướng dẫn, liên quan đến lĩnh vực thanh toán ứng
dụng Fintech với đối tượng điều chỉnh là các NHTM, TCTCVM, cụ thể:
Thông tư 23/2014/TTNHNN ngày 19/8/2014 của NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng
tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và Thông tư 32/2016/TT
NHNN sửa đổi Thông tư 23/2014/TTNHNN quy định người đủ điều kiện mở tài khoản
thanh toán bao gồm, người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy
định của pháp luật Việt Nam; Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người chưa đủ 15 tuổi, người hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam mở tài
khoản thanh toán thông qua người đại diện theo pháp luật. Quy định này đã mở rộng đối
tượng được mở tài khoản tại ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán và để
giữ tiền. Đây cũng là tiền đề để người dân có thể tiếp cận đến những sản phẩm và dịch vụ
tài chính khác như tín dụng, bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư.
Thông tư số 39/2014/TTNHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh
toán. Thông tư 39 ra đời tạo khuôn khổ pháp lý cho các công ty thực hiện hoạt động trung
gian thanh toán, tạo thêm kênh thanh toán mới, tiện ích, thúc đẩy phổ cập tài chính tại Việt
Nam. Đến nay, sau khi thiết lập khuôn khổ pháp lý, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép hoạt
động cho 25 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng. Các tổ
chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cùng với hệ thống ngân hàng thương mại đã
cung ứng những giải pháp thanh toán mới, đáp ứng nhu cầu thị trường, đặt biệt là những
khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi mạng lưới ngân hàng khó vươn tới.
5. ĐỀ XUẤT KHUYẾN NGHỊ
Để vượt qua được những thách thức, tận dụng tốt những ưu việt của Fintech
mang lại trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, các
quốc gia cần quan tâm đến một số nội dung sau:
Một là, các quốc gia cần nhanh chóng hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp lý về
Fintech. Theo đó, cần thiết lập các quy tắc và quy định cho hệ sinh thái Fintech; Tập trung
xây dựng hành lang pháp lý về hoạt động cung cấp dịch vụ/sản phẩm Fintech; Nhanh chóng
xây dựng quy định pháp lý về tiền ảo, tiền điện tử, công nhận nó như một loại “tài sản
ảo”; Quy định các tiêu chuẩn của danh mục sản phẩm và dịch vụ để các công ty Fintech
hoạt động một cách minh bạch, bao gồm các hoạt động tín dụng; tiết kiệm; các dịch vụ
thanh toán, chuyển tiền trực tuyến; đầu tư, bảo hiểm, tư vấn tài chính; phân tích dữ liệu…
Đồng thời, quy định rõ mô hình kinh doanh của các công ty cung cấp Fintech… Ngân hàng
Nhà nước nên xác định nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là xây dựng khung pháp lý cho
lĩnh vực Fintech, trong đó trước mắt tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực, công nghệ mới
có tiềm năng ứng dụng cao như: công nghệ blockchain/sổ cái phân tán (DLT); kết nối, chia
sẻ dữ liệu qua giao diện chương trình ứng dụng mở (Open API); định danh và nhận biết
khách hàng điện tử (eID/eKYC)...đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp lý về
hoạt động trung gian thanh toán cho phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường Việt
Nam. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính cần quan tâm xây dựng hành lang
pháp lý cho hoạt động ngân hàng số, bảo hiểm số hướng tới các giao dịch đơn giảnthuận
tiện, phi giấy tờ, giảm thiểu chi phí và quy trình xử lý tối ưu nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức thu nạp khách hàng, cung ứng hoặc hợp tác cung ứng các sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng tài chính phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh khách hàng trên nền tảng số theo
hướng: (i) Phát huy các nguồn vốn ngoài ngân sách, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, thu
hút các nguồn vốn cho vay với lãi suất ưu đãi; (ii) Khuyến khích sự tham gia của các tổ
chức tài chính vào thị trường liên ngân hàng, thị trường trái phiếu; (iii) Xây dựng môi trường
pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính về sản phẩm và dịch vụ.
Hai là, xây dựng chính sách phát triển Fintech gắn với phát triển hệ thống tài chính
ngân hàng và nền kinh tế. Coi sự phát triển của Fintech gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng
khoa học công nghệ vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, là một bộ phận của ngành tài chính
ngân hàng, chịu sự quản lý của ngành nghề đặc thù. Các ngân hàng và công ty Fintech tiếp
tục bắt tay hợp tác để cung ứng một hoặc một số dịch vụ tiện ích, làm phong phú thêm các
sản phẩm, dịch vụ để phục vụ khách hàng, cũng như giải được bài toán đầu tư quá lớn và
rủi ro vào công nghệ của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng và doanh nghiệp Fintech nên thay
đổi tư duy, cởi mở và hướng tới sự hợp tác cùng có lợi, tạo sức mạnh tổng hợp cho thị
trường dịch vụ ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, các quốc gia cũng cần có các chính sách miễn, giảm thuế; chính sách hỗ
trợ tiếp cận các nguồn vốn; tạo môi trường cho đầu tư Fintech, hợp tác với các tổ chức tài
chính ngân hàng truyền thống.
Ba là, thúc đẩy quá trình học tập, nghiên cứu và ứng dụng những lợi ích của công nghệ.
Blockchain, công nghệ sổ cái phân tán... để áp dụng nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng và các lĩnh vực khác do những lợi ích từ công nghệ này là rất lớn. Việc chú trọng
nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho ứng dụng và quản lý Fintech cũng là một vấn đề đáng
quan tâm. Có cơ chế khuyến khích đào tạo nhân lực va thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao cho phát triển Fintech. Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của các tổ
chức quốc tế như ADB, WBG... và hợp tác song phương với các cơ quan quản lý các nước
để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm hữu ích trong quản lý các DN Fintech. Song song với đó,
cần lồng ghép giáo dục kỹ năng quản lý tài chính hộ gia đình với nhiều chương trình phát
triển khác nhau; thông qua tổ tiết kiệm, vay vốn và các tổ chức đoàn thể địa phương để
giáo dục nâng cao kỹ năng tài chính, đào tạo cho người nghèo, người thu nhập thấp về các
công cụ quản trị rủi ro, về các dịch vụ bảo hiểm, cho thuê tài chính, các dịch vụ tài chính
công nghệ…
Bốn là, khuyến khích tạo điều kiện tăng cường hợp tác giữa các bên trong việc cung
ứng sản phẩm Fintech. Trong khi thế mạnh của các doanh nghiệp Fintech là công nghệ thì
thế mạnh của ngân hàng chính là uy tín và data khách hàng lớn. Tăng cường hợp tác giữa
các DN Fintech với các tổ chức tài chính ngân hàng truyền thống, cũng như các DN cung
cấp internet, thông tin… đảm bảo cho các bên phát huy được lợi thế của mình, tạo điều
kiện cho phát triển Fintech ở các nước trong thời gian tới. Bên cạnh đó, cũng khong nên bỏ
qua việc tạo lập nên Big Data, hay tạo sự kết nối sâu rộng giữa các bên, vừa đảm bảo
thông tin cân đối, vừa đảm bảo tính bảo mật của khách hàng, tạo lòng tin đối với khách
hàng.
Năm là, đa dạng hóa sản phẩm và phổ cập kiến thức về Fintech đến người tiêu dùng.
Trên cơ sở phát triển những sản phẩm Fintech chủ yếu là thanh toán và chuyển tiền, cần
mở rộng các sản phẩm tiềm năng khác như quản lý tài chính, cho vay, tiết kiệm… nhằm
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các doanh nghiệp Fintech ở các nước đang phát
triển chủ yếu cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán (cung cấp cho khách hàng và các nhà
bán lẻ các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số). Một số
ít đang hoạt động ở trong lĩnh vực gọi vốn, chuyển tiền, quản lý tài chính cá nhân, quản lý
dữ liệu, cho vay. Đây là một thị trường không thiếu nhu cầu nhưng đang chưa được quan
tâm đúng đắn, một phần do số lượng các công ty Fintech ở các quốc gia này chưa nhiều,
nên vẫn còn đang đánh mạnh vào thị trường trung gian thanh toán chưa bão hòa. Các tổ chức
tài chính cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, cải tiến và áp dụng sản phẩm dịch
vụ mới gắn với ứng dụng Fintech như: phương thức huy động tiết kiệm để có thể đáp ứng
nhiều nhu cầu khác nhau; áp dụng thí điểm một số dịch vụ đại lý như dịch vụ đại lý bảo
hiểm vi mô, đại lý thu chi hộ… nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của hộ nghèo và
hộ có thu nhập thấp. Ngoài số lượng dịch vụ, cần chú trọng nhiều hơn tới chất lượng dịch
vụ, sự đa dạng của dịch vụ cung cấp, mức độ sẵn có và dễ dàng tiếp cận của dịch vụ.
Việc triển khai tài chính kỹ thuật số phải trải qua từng bước để hình thành thói quen của
khách hàng. Khách hàng cần tiếp nhận từng bước để hình thành thói quen. Trước tiên là
việc sử dụng điện thoại thông minh để biết tin tức, thời tiết và nhận tin nhắn đối chiếu nợ,
lãi, tiết kiệm … Sau đó sẽ sử dụng phần mềm kết nối với tài khoản ngân hàng để kiểm tra
số dư và có thể nhận hoặc chuyển một vài món chuyển tiền nhỏ như mua thẻ điện thoại.
Qua từng bước như vậy khách hàng sẽ dần dần tăng tần suất sử dụng và khi h.nh thành thói
quen và hiểu biết sẽ sử dụng thường xuyên và chuyển sang sử dụng nhiều dịch vụ khác
như gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm, chuyển tiền, thanh toán…
Bên cạnh đó, cần hơn nữa việc tích cực quảng bá, phổ cập kiến thức về Fintech, cũng
như thông tin nhằm đảm bảo hạn chế rủi ro trong giao dịch Fintech, từ đó giúp nhận biết
những lợi ích từ ứng dụng công nghệ mà Fintech đem lại.
Sáu là, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về doanh nghiệp, về khách hàng,…
tạo nền tảng số hóa, phục vụ cho phát triển mô hình kinh tế chia sẻ. Hoàn thiện hành lang
pháp lý trong việc chia sẻ thông tin giữa các bộ ngành, giữa cơ quan quản lý với doanh
nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhau…
Bảy là, dành nguồn lực ưu tiên cho phát triển hạ tầng về thông tin mạng và bảo đảm về
anh ninh, an toàn cho mọi giao dịch của nền kinh tế trong môi trường mạng. Sự phát triển
quá nhanh của công nghệ tài chính cũng mang lại những thách thức không nhỏ đối với các
cơ quan quản lý về vấn đề an toàn bảo mật, an ninh mạng, tội phạm công nghệ cao, cơ
chế hợp tác trong chia sẻ thông tin giữa các nước...
Tám là, từ phía ngân hàng, cần quy định về các loại dữ liệu cung cấp cho các doanh
nghiệp Fintech. Khi đưa sản phẩm vào ứng dụng, ngân hàng cũng cần giám sát các dữ liệu
có được sử dụng đúng mục đích, đồng thời phải có chính sách bảo mật thông tin khách
hàng. Với các doanh nghiệp Fintech, cần quan tâm đến khía cạnh bảo mật ngay từ khi đưa
ra ý tưởng, thực hiện song song giữa sáng tạo và tăng cường bảo mật cho giao dịch của
khách hàng.
Chín là, tăng cường hợp tác và đầu tư từ nước ngoài. Đặc biệt từ các nước dẫn đầu về
thị trường tài chính quốc tế để nhận chuyển giao và cập nhật công nghệ mới, nhất là
những công nghệ tạo ra sản phẩm bậc cao như tư vấn tự động, nhận diện kỹ thuật số… từ
xu thế phát triển của Fintech toàn cầu.
Các thị trường mới nổi mang đến cơ hội tuyệt vời nhất cho các công ty Fintech. Trong
đó, Đông Nam Á có sức hấp dẫn đặc biệt bởi có dân số sành về công nghệ và các chính
phủ cũng chào đón các công nghệ mới. Một trong những nguyên nhân chính tạo sức bật cho
tốc độ tăng trưởng ở Đông Nam Á là mức độ tiếp cận tài chính thấp tại khu vực. Điều đó
đã mở ra cơ hội cho các công ty Fintech trong việc triển khai các dịch vụ và mở rộng bành
trướng. Trên khắp Đông Nam Á, chưa tới 30% dân số có tài khoản ngân hàng. Tại các quốc
gia ít phát triển hơn như Campuchia, con số này chỉ 5%.
Các giải pháp Fintech vừa vặn có thể lấp vào khoảng cách lớn giữa số dân chưa có tài
khoản ngân hàng và khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính. Bởi vậy, nhu cầu cao đối với
thanh toán số, ví điện tử và các giải pháp tài chính thay thế lại ngày càng tăng cao hơn. Với
việc đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cụ thể, thiết thực như trên, nhóm nghiên cứu hy
vọng tạo được “cú huých” nhằm thúc đẩy khả năng ứng dụng Fintech đối với các tổ chức
tài chính phục vụ phổ cập tại Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Anh
[1] Brynjolfsson, E., & Kahin, B. (Eds.). (2002). Understanding the digital economy: data,
tools, and research. MIT press.
[2] DeYoung, R. & Hunter, W.C. 2003, Deregulation, the Internet, and the competitive
viability of large banks and community banks, in The Future of Banking, ed. B. Gup (Quorom
Books, Westport, CT).
[3] De Young, R & Rice, T. 2004, Noninterest income and Financial performance
at U.S commercial banks. The Financial Review, 101 – 127.
[4] Gregor Dorfleitner và colleagues (2017), Definition of FinTech and
Description of the FinTech Industry, Springer.
[5] Schwab, K. (2017). The fourth industrial revolution. Currency.
[6] Sommer, L. (2015). Industrial revolutionindustry 4.0: Are German
manufacturing SMEs the first victims of this revolution?. Journal of Industrial
Engineering and Management, 8(5), 15121532.
Danh mục tài liệu tiếng Việt
[1] Hương, Trầm; Như, Nguyễn (2018). "Tác động của công nghệ đến đa dạng
hóa thu nhập ngân hànggợi ý xu hướng phát triển."
Link tham khảo:
/> /> />2019Trends.pdf
tnambriefing.com/news/growingmarketpotentialoffintechinvietnam.html/
/> />8billionby2020/#72a7e726456f