Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Cơ hội và thách thức của Fintech trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525 KB, 13 trang )

Bài tiểu luận cuối môn Ngân háng TW và Chính sách tiền tệ _ Khóa 18604

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA FINTECH
TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF FINTECH
IN THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
 
Nguyễn Xuân Hoàng1, Nguyễn Trịnh Ngọc Hồng2 Nguyễn Bá Duy Khánh3, Lê Anh Khải4
1  

3

MSHV: C18604046, Email: 

 MSHV: C18604047, Email: 

2

 MSHV: C18604040, Email: 
4
 MSHV: C18604048, Email: 

TÓM TẮT: Vài năm qua Fintech đã không ngừng phát triển trên toàn thế giới và đặc biệt là  
trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đánh giá về  cơ  hội và thách thức 
trong việc áp dụng Fintech cho các tổ  chức tài chính tại Việt Nam, từ đó đề  xuất các giải  
pháp hiệu quả và hành động thiết thực để cải thiện các chính sách phù hợp cho các bên liên 
quan để  thúc đẩy  ứng dụng Fintech trong hoạt động của các tổ  chức tài chính từ  kết quả 
cải thiện môi trường hoạt động tài chính ở Việt Nam.
TỪ KHÓA: Cơ hội, thách thức, công nghệ tài chính, Fintech, cách mạng công nghiệp 4.0.
ABSTRACTS: The past few years Fintech has been constantly evolving around the world and  
especially   in   the   context   of   the   4.0   industrial   revolution.   Evaluate   the   opportunities   and  


challenges   in   applying   Fintech   to   financial   institutions   in   Vietnam,   thereby   proposing  
practical and effective solutions to improve appropriate policies for stakeholders to promote  
Fintech application in the operation of financial institutions from the results of improving  
financial operating environment in Vietnam.
KEYWORDS:   Opportunities,   challenges,   financial   technology,   Fintech,   The   industrial  
revolution 4.0.

1


1. GIỚI THIỆU
Năm 2018 là một năm tuyệt vời của công nghệ tài chính (hay còn gọi là Fintech) với giá 
trị giao dịch gần 40 tỷ đô la. Fintech đang phát triển trên quy mô toàn cầu với các giao dịch 
bên ngoài các thị trường cốt lõi (Mỹ, Anh và Trung Quốc) chiếm 39% các giao dịch. Hoa Kỳ 
vẫn là thị trường hàng đầu cho các giao dịch với 659 khoản đầu tư trị giá 11,89 tỷ đô la, cả 
hai đều là mức cao hàng năm mới. Hiện có 39 “con kỳ lân Fintech” – những công ty Fintech 
mới gia nhập – được các nguồn đầu tư mạo hiểm hậu thuẫn với tổng trị giá lên đến 147,37  
tỷ đô.
Những thống kê từ  năm 2018 cho thấy Fintech sẽ  tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Với 
nhiều khu vực hoàn thiện chuỗi giá trị  của Fintech, nhiều công nghệ mới nổi lên và nhiều  
trung tâm giao dịch Fintech được thực hiện trên toàn thế giới, năm 2019 có thể là một năm 
thú vị  theo dõi sự bùng nổ  của các công nghệ  tài chính vì đây là một năm phát triển mạnh  
mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0).
Fintech là một trong những lĩnh vực còn khá mới tại Việt Nam với những hình thức khá 
đơn giản và tập trung chủ  yếu  ở  những mảng về  thanh toán điện tử, các  ứng dụng công  
nghệ số vào lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy việc làm rõ cơ  hội và thách thức cho sự phát triển 
của Fintech là một trong những vấn đề lớn đặt ra trong bài báo. Từ đó đưa ra những khuyến 
nghị cụ thể chi tiết giúp cho doanh nghiệp và các nhà quản lý tài chính có cái nhìn tổng quan  
nhất và hỗ trợ cho sự phát triển của Fintech tại Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Công nghệ tài chính ­ FINTECH
Kinh tế số  theo nghĩa hẹp có thể  hiểu là nền tảng ICT (Công nghệ  thông tin và truyền  
thông) và hoạt động dựa trên nền tảng đó. Những lĩnh vực liên quan bao gồm viễn thông,  
dịch vụ thông tin, sản xuất phần cứng và cơ sở hạ tầng Kinh tế số theo nghĩa rộng là tất cả 
các hoạt động sử dụng dữ liệu số hóa chính là một phần của kinh tế số trong nền kinh tế 
hiện đại. Những lĩnh vực liên quan như kỹ thuật số hóa, nền kinh tế chia sẻ trên nền tảng  
kỹ  thuật số, cách mạng công nghiệp 4.0, nông nghiệp thông minh, và chính phủ  điện tử…
(Brynjolfsson, E., & Kahin, B. (Eds.). (2002))
Sự  phát triển của hệ  sinh thái số  đã hình thành nên Fintech. Với nền tảng công nghệ 
thông tin truyền thông mới đã làm thay đổi cách sống, làm việc, tiêu thụ  và sản xuất hàng  
hóa dịch vụ của người dân. Góp phần giảm chi phí, gia tăng sức mạnh về tính toán, loại bỏ 
các trung gian thanh toán, quy trình kinh doanh hợp lý và gia tăng tính hiệu quả  bằng việc 
tiếp cức trên thời gian thực. Từ đó dẫn đến sự ra đời của các dịch vụ tài chính dựa trên các  
công nghệ tài chính (Fintech) cải thiện hiệu quả của hệ thống tài chính và đặt sở  thích và  
trải nghiệm của khách là lên đầu là một trong những yếu tố  quan trọng khiến cho công 
nghệ tài chính được tiếp nhận nhanh và phát triển rộng khắp.
Trong giai đoạn đầu phát triển, Fintech, một thuật ngữ  được đặt ra từ  hai thuật ngữ 
riêng biệt: “Financial” và “Technology”, thường được sử dụng để  mô tả  quá trình áp dụng 
các công nghệ mới để  tự động hóa nguồn ứng dụng và sử  dụng các dịch vụ tài chính. Sau  
đó, các tổ  chức tài chính áp dụng công nghệ  thông tin, tạo ra phần mềm chuyên dụng để 
nâng cao hiệu quả  của các giao dịch tài chính.  Ngày nay, với sự  bùng nổ  của công nghệ 
mới dưới tác động của CMCN 4.0, hàm ý của thuật ngữ Fintech đã được mở  rộng để  tiếp 
cận nhiều khách hàng hơn. Cụ thể, đó là việc áp dụng các phát minh công nghệ mới để tăng 


số  lượng khách hàng có thể  truy cập các dịch vụ  tài chính như; Gọi điện trực tuyến, cho  
vay ngang hàng, thanh toán và chuyển khoản tự động, quản lý tài chính cá nhân, quản lý đầu  
tư, bảo hiểm, quản lý rủi ro, ... (Gregor Dorfleitner and colleagues, 2017)
2.2. Cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ thế 

kỷ  XVIII đến XIX  ở  châu Âu và Mỹ. Đó là thời kỳ  mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông  
thôn đã trở  thành công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt và dệt, cùng với sự  phát 
triển của động cơ hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 2: Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ năm 1870  
đến năm 1914, ngay trước Thế  chiến I. Đó là giai đoạn tăng trưởng của các ngành công 
nghiệp đã có từ trước và mở rộng các ngành mới, như thép, dầu, điện, và sử dụng điện để 
sản xuất hàng loạt. Các tiến bộ kỹ thuật chủ yếu trong giai đoạn này bao gồm điện thoại,  
bóng đèn, đĩa hát và động cơ đốt trong,...
Cách mạng công nghiệp lần thứ 3: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, tạm được xem  
là cuộc cách mạng kỹ  thuật số, đề  cập đến sự  tiến bộ  của công nghệ  từ  các thiết bị  cơ 
điện tử tương tự sang công nghệ số ngày nay. Kỷ nguyên bắt đầu vào những năm 1980 và  
vẫn đang diễn ra. Những tiến bộ trong Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm  
máy tính cá nhân, internet và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).Tiến bộ trong Cách  
mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm các máy tính cá nhân, internet, công nghệ  thông tin 
và mạng xã hội. (Schwab, K. (2017))
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xây dựng dựa  
trên những Kỹ thuật số, cuộc cách Mạng, đại diện cho những cách mới công nghệ trở  nên  
nhúng trong xã hội và ngay cả cơ thể con người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được 
đánh dấu bởi công nghệ  mới đột phá trong một số  trường, bao gồm cả  robotics, trí thông  
minh nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet vạn vật, in 3D, và xe tự lái.
Khái niệm công nghiệp 4.0 xuất hiện đầu tiên trong một bài báo được xuất bản bởi chính 
phủ Đức vào tháng 11 năm 2011, như là một chiến lược công nghệ cao cho năm 2020. Sau  
khi cơ  giới hóa, điện khí hóa và thông tin, giai đoạn thứ  tư  của công nghiệp hóa được đặt 
tên là Công nghiệp 4.0. Vào tháng 4 năm 2013, thuật ngữ Công nghiệp 4.0 xuất hiện trở lại  
tại một hội chợ  công nghiệp  ở  Đức, và nhanh chóng trở  thành chiến lược quốc gia của  
Đức. Trong những năm gần đây, Công nghiệp 4.0 đã được thảo luận rộng rãi và trở  thành 
điểm nóng cho hầu hết các ngành công nghiệp toàn cầu và ngành công nghiệp thông tin.  
Công nghiệp 4.0 sẽ  là một cuộc cách mạng công nghiệp mới, sẽ  có  ảnh hưởng lớn đến 
công nghiệp quốc tế. (Sommer, L. (2015). Industrial revolution­industry 4.0)
Do ngành sản xuất của Việt Nam hiện đang trong tình trạng chuyển đổi và nâng cấp công 

nghiệp, Công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội hơn và  thách thức hơn nếu 
tập trung khai thác ở lĩnh vực này và đặc biệt hơn là trong lĩnh vực tài chính tiêu biểu nhất  
là công nghệ tài chính (Fintech)
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu sử  dụng là định tính. Nghiên cứu các báo cáo trước và những  
nghiên cứu thực nghiệm, tài liệu văn bản cũng như những thông kê từ những tổ chức uy tín  
trong nước và thế giới. Đa số các nghiên cứu về Fintech đều sử dụng phương pháp nghiên  
cứu định tính do còn rất mới mẻ  và sơ  khai, tại Việt Nam có rất ít công trình nghiên cứu  


Fintech sử  dụng phương pháp định lượng. Ví dụ: Công trình nghiên cứu về  Tác động của 
công nghệ  đến đa dạng hóa thu nhập ngân hàng theo cách tiếp cận phương pháp của De  
Young & Rice (2004) của PGD.TS Trầm Thị Xuân Hương
Ưu điểm: giúp bài nguyên cứu có được những ý kiến và quan điểm của các chuyên giao, 
Có thể tiếp cận những thông tin mới nhất và những số liệu được công bố trên toàn cầu, Dữ 
liệu chuyên ngành đã được các tác giả chọn lọc cũng như là nguồn dữ liệu uy tín.
Nhược điểm: Có những thông tin được bảo vệ, không có sẵn để truy cập công khai hay 
riêng tư, những báo cáo nước ngoài phải qua chuyển ngữ có thể làm sai lệch về từ chuyên 
môn, các báo cáo có thể không được cập nhật mới hay không chính xác.
4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
4.1. Thực trạng của Fintech tại Việt Nam
4.1.1. Hiện trạng chính sách về phát triên tài chính và liên quan đên 
̉
́ ứng dụng Fintech ở  
Việt Nam. 
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự phát triển của điện thoại thông 
minh các sản phẩm, dịch vụ  tài chính đổi mới, sáng tạo trên cơ  sở   ứng dụng công nghệ 
đang dần ngày càng phát triển gần gũi với người dân. Trong bối cảnh đó, xây dựng hành 
lang pháp lý cho hoạt động thanh toán gắn với các sản phẩm, dịch vụ  thanh toán mới nói 
riêng và hoạt động tài chính nói chung cũng được Chính phủ, ngân hàng nhà nước(NHNN),  

cơ quan quản lý hữu quan quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhiều đề án,  
văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động thanh toán và tài chính đã được xây  
dựng, ban hành.
4.1.2. Đánh giá thực trạng cơ chê chính sách v
́
ề ứng dụng Fintech trong lĩnh vực thanh  
toán đối vơi các t
́
ổ chức tài chính tại Việt Nam
 Trong thời gian qua, trong bối cảnh Fintech phát triển mạnh và xu hướng thúc đẩy phổ 
cập tài chính tại Việt Nam, Chính phủ, các cơ  quan quản lý nhà nước mà trước hết là 
NHNN đã rất nỗ  lực và đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập một hệ sinh thái 
Fintech với khuôn khổ pháp lý phù hợp, tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính từng bước  
hội nhập vào hệ thống ngân hàng ­ tài chính trong thời đại CMCN 4.0.
Tuy nhiên, những nỗ  lực này chưa bắt kịp với tốc độ  phát triển và nhu cầu khách hàng  
khu vực tài chính  ở  Việt Nam hiện nay cũng như những tiềm năng của khu vực này trong  
việc ứng dụng Fintech để  mở rộng tập khách hàng góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội.
Việt Nam mới chỉ  dừng  ở  giai đoạn đầu là tập trung phát triển lĩnh vực tài chính nói  
chung và ngân hàng nói riêng. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tài chính ứng dụng Fintech  
về cơ bản mới chỉ áp dụng trong hoạt động thanh toán.
Fintech là sự  thiết yếu của lĩnh vực tài chính trong tương lai. Giúp phương thức thanh  
toán trở  nên an toàn hơn, tiện lợi và giảm thiểu chi phí. Tận dụng đổi mới, sáng tạo công  
nghệ  từ  Fintech giúp nền tài chính nâng cao sức cạnh tranh, đáp  ứng tốt hơn nhu cầu, kỳ 
vọng khách hàng.
Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội để  phát triển thanh toán di động dựa trên lợi thế 
so sánh về quy mô dân số, tốc độ phát triển Internet, ty l
̉ ệ người dân sử dụng điện thoại di  
động cao, người dân  ưa thích sử  dụng  ứng dụng công nghệ  trong thanh toán, đặc biệt thị 
trường bán lẻ. Các hình thức thanh toán qua di động với nhiều tiện ích trên cơ sở ứng dụng 



các công nghệ  mới như  mã phản hồi nhanh ­ QR Code, giao tiếp trường gần ­NFC hay  
mPOS... đã được người tiêu dùng đón nhận và có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ.
Tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị  trường, thúc đẩy cạnh tranh, đổi mới­sáng tạo. 
Nhờ   ưu thế  của công nghệ  thông tin/mạng di động so với mạng lưới chi nhánh vật lý 
truyền thống và sự phổ biến của điện thoại di động. Đây là một trong những giải pháp đột  
phá, giúp đẩy mạnh phổ cập tài chính, đưa dịch vụ ngân hàng­tài chính đến số đông người  
dân.
4.2. Cơ hội của Fintech trong CMCN 4.0
4.2.1 Tiềm năng phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính ứng dụng Fintech đối với các  
TCTCVM Việt Nam
Với sự  gia tăng của tầng lớp trung lưu, số người tiếp cận Internet ngày càng nhiều và  
dân số gần 100 triệu dân – trong đó số người trẻ và am hiểu công nghệ chiếm tỷ lệ  cao –  
Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển ngành công nghệ tài chính (Fintech). Tuy nhiên, 
đến nay vẫn tồn tại lực cản trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân ở khu vực  
nông thôn khi mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng, tổ chức tài chính tại  
các khu vực này vẫn còn rất ít và xa nơi sinh sống của họ. Ngược lại, các tổ chức tài chính 
cũng gặp thách thức lớn trong việc mở  rộng phạm vi và địa bàn hoạt động khi phải cân  
bằng giữa hiệu quả với chi phí đầu tư vào khu vực này.
Tỷ lệ tiếp cập điện thoại di động, Internet của người dân khu vực nông thôn Việt Nam  
ngày càng tăng cao, vấn đề trở ngại do khoảng cách địa lý trong tiếp cận dịch vụ tài chính  
của nhóm dân cư này có thể được loại bỏ và không còn trở thành quá khó khăn. Tuy nhiên,  
để có thể cung  ứng được dịch vụ đòi hỏi các tổ chức tài chính cần phải đầu tư, phát triển 
các kênh cung ứng dịch vụ hiệu quả hơn thông qua các giải pháp công nghệ thay vì đầu tư 
và sử dụng các hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch cũng như đội ngũ cán bộ  truyền thống 
như hiện nay.
Vì thế trong thời điểm cách mạng công nghệ số như hiện nay thì những điểm trên lại là  
một tiềm năng lớn cho Fintech có thể  phát triển vì công nghệ  tài chính khi được phổ  biến  
rộng rãi đến những vùng nông thôn sẽ lấy được thị phần rất lớn mà những tổ chức tài chính 
lớn như Ngân hàng không thể phủ khắp các tỉnh vùng miền và tận những nơi hẻo lánh. Vì  

không tốn các chi phí xây dựng hệ  thống các cơ  sở  vật lý, phòng giao dịch cũng như  thuê 
nhân viên mà chỉ cần xây dựng hệ thống ứng dụng thuận tiện và có các tính năng vượt trội 
đã là tiềm năng rất lớn để phát triển Fintech đến người dân.
4.2.2. Thuận lợi của Fintech tại Việt Nam có thể  tăng cường bởi sự phát triển công nghệ  
thông tin (CNTT)
Với những bước tiến khá nhanh về  phát triển trong thời gian qua từ  lúc bắt đầu cuộc  
CMCN 4.0, đến thời điểm hiện tại lĩnh vực CNTT của Việt Nam có sự phát triển vượt trội  
và thiết lập được một cơ sở hạ  tầng cơ bản cho sự phát triển của các lĩnh vực khác trong  
nền kinh tế.
Thị  trường dịch vụ  viễn thông, Internet cạnh tranh với chất lượng ngày càng tăng, toàn  
thị trường có 74 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cố định mặt đất, 5 doanh nghiệp cung cấp 
dịch vụ di động mặt đất và 51 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet. 
Đối với các tổ chức tài chính nói chung và Fintech nói riêng thì sự phát triển của lĩnh vực 
CNTT và di động tại Việt Nam trong thời gian qua và trong thời gian tới sẽ mang lại những 


cơ  hội rất lớn khi vấn đề  về  khoảng cách địa lý là trở  ngại lớn nhất trong quá trình cung  
ứng dịch vụ của các tổ chức tài chính tới khách hàng sẽ có cơ hội bị xóa nhòa nhờ CNTT và  
Internet với chi phí thấp.
Công nghệ điện thoại di động và Internet sẽ tiếp tục hỗ  trợ các ngân hàng, tổ  chức tài  
chính mở  rộng mạng lưới tiếp cận tới khách hàng, cho phép cung  ứng dịch vụ đến những 
nơi mà mạng lưới ngân hàng chưa bao phủ, đặc biệt là  ở  khu vực nông thôn, những nơi  
không có các điểm giao dịch ngân hàng và những đối tượng không được tiếp cận hoặc ít có  
điều kiện tiếp xúc các dịch vụ  tài chính truyền thống. Nếu như  việc xây dựng một mạng  
lưới điểm giao dịch ngân hàng truyền thống rất tốn kém và không mang lại lợi nhuận cho  
các ngân hàng khi chi phí quá cao và doanh thu không thể bù đắp thì các dịch vụ tài chính di 
động được xây dựng dựa trên giải pháp Fintech sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành  
mạng lưới giao dịch nhanh chóng và rẻ  hơn cho các ngân hàng cũng như  các tổ  chức tài  
chính.
4.2.3. Công nghệ thay đổi, xu hướng người dùng thay đổi 

Thoi quen tiêu dùng, thanh toán và s
́
ử dụng dịch vụ tài chính cơ bản. Tại thị trường hiện 
nay, phần lớn người dân chủ  yếu gắn bó với các loại hình chợ  truyền thống. Do đó, mọi 
nhu cầu thanh toán hàng ngày vẫn diễn ra thông qua sử dụng tiền mặt là chính. Đối với lĩnh  
vực tín dụng, tâm lý chung của người dân Việt Nam là không muốn vay do tâm lý ngại vay 
mượn và ngại hoàn thiện các quy trình thủ tục vốn chặt chẽ và khó hiểu so với trình độ  và 
nhận thức của người dân theo yêu cầu của các tổ chức chính tài chính. Hay như đối với lĩnh  
vực bảo hiểm, do điều kiện kinh tế  còn khó khăn nên nói chung bản thân người dân vẫn 
chưa hiểu, chưa mặn mà và không quan tâm tới các dịch vụ  bảo hiểm, tâm lí chung của  
người dân là không sẵn sàng bỏ  tiền ra để  trả  phí bảo hiểm cho một sự  thiệt hại không  
chắc chắn. Như vậy, bản thân thói quen, tâm lý của người dân cũng chính là những rào lớn  
lớn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ  tài chính của các tổ  chức tài chính tại Việt  
Nam. Văn hóa làng xã Việt Nam đã phát triển hàng trăm năm, gắn kết người dân với nhau 
trong một tổng thể  vững chắc, vì vậy, việc thay đổi thói quen của người dân nông thôn 
trong việc sử dụng các dịch vụ  thanh toán, tín dụng hay bảo hiểm hiện đại là cả  một quá 
trình khó khăn và lâu dài.
Tuy nhiên sự xuất hiện của các ứng dụng nền tảng số như Grab, Uber, AbnB, Go Viet...  
đã thay đổi cách mua sắm, di chuyển và sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng. Điều này đã 
kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech. Trên toàn thế  giới hiện có 16 tỷ  thẻ 
khác nhau, các công nghệ như AI (trí tuệ nhận tạo), IoT (internet vạn vật), machine learning  
khiến thế giới có 20 tỷ phương tiện thanh toán khác nhau. Sự phát triển của công nghệ ứng  
dụng mới đã khiến hành vi sử dụng của khách hàng thay đổi và tác động mạnh đến thanh  
toán điện tử.
Thị trường Fintech tại Đông Nam Á đang ở giai đoạn đột phá và phát triển mạnh mẽ liên 
quan đến tiếp cận tài chính và cho vay người dùng, Việt Nam đang có môi trường thuận lợi 
để phát triển. Chính phủ tại các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam rất cởi mở chào đón  
nhà đầu tư  và đây là thời điểm hoàn hảo để  khởi nghiệp lĩnh vực Fintech. Việt Nam có  
tiềm năng Fintech vì có dân số trẻ hơn so với các quốc gia khác, trình độ dân trí cao và khả 
năng sử dụng cũng như ứng dụng công nghệ tốt. Sự phát triển của các siêu ứng dụng như 

Grab, Go Pay, xu hướng tiêu dùng đã có sự  thay đổi mối quan hệ  giữa bên cho vay (ngân  
hàng và các thể chế tài chính) và khách hàng, bên được lời đương nhiên là người tiêu dùng.


Trong quá khứ tiếp cận tài chính rất khó khăn tại Đông Nam Á. Một con số thống kê cho 
thấy có 3 tỷ người trên toàn thế  giới chưa được đáp ứng nguồn vốn để  làm kinh tế, trong 
đó có 2 tỷ người có khả năng cho vay nhưng họ không tiếp cận được với ngân hàng và với  
xu hướng số hóa các ngân hàng hay doanh nghiệp Fintech có thể biết được nhiều thông tin 
về khách hàng. Họ có thể giải được bài toán nhu cầu khách hàng trước đây không có lịch sử 
tín dụng tốt hay chưa có lịch sử vay thế chấp và bị liệt vào hạng rủi ro bằng cách xây dựng  
cơ sở dữ liệu đánh giá rủi ro để các ngân hàng cho vay đối tượng khách hàng này.
4.3. Thách thức của Fintech trong cuộc CMCN 4.0
Tuy nhiên, đi cùng với những cơ hội phát triển Fintech vẫn còn không ít thách thức:
Thứ nhất, hành lang pháp lý một số quốc gia chưa thực sự đầy đủ, chính xác nhất là đối  
với những công nghệ mới. Thời gian cập nhật, sửa đổi, bổ sung pháp lý, văn bản quy phạm  
pháp luật, các quy định chuyên ngành còn chậm so với tốc độ  phát triển nhanh chóng mặt 
của lĩnh vực công nghệ nói chung, hay Fintech nói riêng. Sự yếu kém về hành lang pháp lý 
này dẫn đến việc lỏng lẻo trong việc tiếp cận tài chính và khuyến khích các hành vi rủi ro 
làm tăng dư  nợ  xấu  ở  các công ty tài chính. Hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm tăng  
cường năng lực quản trị và hoạt động của các tổ  chức có hoạt động tổ  chức tài chính nhất 
là quy định hành lang pháp lý về Fintech tại Việt Nam để các tổ chức tổ  chức tài chính có  
thể  ứng dụng được Fintech không chỉ trong nghiệp vụ mà cả  trong lĩnh vực quản lý để  từ 
đó cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động.
Thứ  hai, cơ  sở  hạ tầng công nghệ  của một số  quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu của sự  
phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ bảo mật dữ liệu, bảo mật thông tin người 
tiêu dùng. Việc chuyển đổi mô hình hoạt động từ mô hình truyền thống sử dụng con người  
là chính sang mô hình hoạt động dựa trên công nghệ hay mạng Internet sẽ khiến các tổ chức  
tài chính gặp phải không ít thách thức trong vấn đề quản lý hoạt động, đặc biệt là sự không 
sẵn sàng của đội ngũ cán bộ  vốn có trình độ  công nghệ  thấp và những rủi ro khi đối mặt  
với các vấn đề  về  đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật thông tin khách hàng qua hệ  thống  

mạng.
Thứ  ba, các DN Fintech thường gặp khó khăn về  mô hình kinh doanh,  mô hình quản trị 
cũng như đường hướng phát triển lâu dài, điều này khiến cho DN khó có thể phát triển lớn  
mạnh. 
Thứ tư, ý thức của người tiêu dùng sản phẩm Fintech còn hạn chế, đôi khi tạo ra những  
“lỗ  hổng bảo mật”. Người dân còn chưa có ý thức trong việc bảo mật những thông tin cá  
nhân như họ và tên, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, số tài 
khoản… Điều này làm gia tăng mạnh nguy cơ   ảnh hưởng đến tài khoản của chính người 
tiêu dùng cũng như các tổ chức tài chính.
4.4. Những chính sách thúc đẩy sự phát triển Fintech tại Việt Nam
Việt Nam đã và đang xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán gắn với các 
sản phẩm, dịch vụ  thanh toán mới nói riêng và hoạt động Fintech nói chung cũng được 
Chính phủ, NHNN, cơ  quan quản lý hữu quan quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Trong thời  
gian qua, nhiều đề  án, văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động thanh toán và 
Fintech đã được xây dựng, ban hành, cụ thể:
Đề  án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô Việt Nam đến năm 2020 (Quyết  
định số 2195/QĐ­TTg ngày 06/12/2011 của Thủ  tướng Chính phủ). Mục tiêu của Đề  án là 


xây dựng và phát triển hệ thống TCTCVM an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu phục vụ 
người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, góp 
phần thực hiện chủ  trương của Đảng và Nhà nước về  đảm bảo an sinh xã hội và giảm 
nghèo bền vững. Đề án đưa ra 3 giải pháp để thực hiện những mục tiêu trên, đó là: (i) Xây 
dựng môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động TCVM; (ii) Nâng cao  
năng lực hoạch định chính sách và quản lý của cơ  quan quản lý nhà nước; (iii) Nâng cao 
năng lực của các TCTCVM. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phát triển TCVM Việt Nam 
trong thời gian qua và trong những năm tới. • Đề  án nâng cao khả  năng tiếp cận dịch vụ 
ngân hàng cho nền kinh tế (Quyết định 1726/QĐ­TTg ngày 5/9/2016 của Thủ tướng Chính  
phủ). Đề án đề cập đến 3 vấn đề xuyên suốt từ mục tiêu đến các giải pháp cần đạt được  
là: (i) gia tăng kênh cung  ứng dịch vụ ngân hàng; (ii) gia tăng số  lượng và chất lượng sản 

phẩm dịch vụ ngân hàng, thiết kế đơn giản, dễ tiếp cận đối với người dân, doanh nghiệp,  
nhất là người dân vùng sâu, vùng xa, người nghèo; (iii) gia tăng mức độ  sử  dụng dịch vụ 
ngân hàng. Đề án cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát, 8 mục tiêu cụ thể cần đạt được đến  
năm 2020 bao gồm: 70% dân số trưởng thành có tài khoản tại các ngân hàng; có ít nhất 20 
chi nhánh, phòng giao dịch/100.000 dân số  trưởng thành; Khoảng 30.000 máy ATM (40 
máy/100.000 dân số trưởng thành); 300.000 POS (400 POS/100.000 dân số trưởng thành); có 
khoảng 15% số  chi nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng thương mại mở  tại địa bàn  
nông thôn; khoảng 35 ­ 40% người trưởng thành ở nông thôn có tiết kiệm tổ chức tín dụng;  
khoảng 50 ­ 60% DN nhỏ và vừa đang hoạt động tiếp cận tín dụng; tăng gấp 2 lần ty tr
̉ ọng  
thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 202045  
(Quyết định số  2545/QĐ­TTg ngày 30/12/2016), với một số  mục tiêu, giải pháp liên quan 
đến việc ứng dụng Fintech nhằm khuyến khích, thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng 
tiền mặt, trong đó có các dịch vụ thanh toán qua Internet, điện thoại di động, thẻ ngân hàng,  
trung gian thanh toán... và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán nói riêng, dịch vụ 
ngân hàng nói chung, thúc đẩy phổ cập tài chính.
Đề  án thí điểm phát triển một số hình thức thanh toán không dùng tiền mặt  ở  khu vực  
nông thôn tại Việt Nam. Đề án đưa ra giải pháp thí điểm cho một số NHTM trên cơ sở ứng  
dụng khoa học công nghệ  và tận dụng mạng lưới có sẵn của các tổ  chức khác như  hệ 
thống bán lẻ xăng dầu, các điểm cung ứng dịch vụ viễn thông, hệ thống bưu cục… để thực  
hiện một số  nghiệp vụ  trong quy trình cung  ứng dịch vụ  thanh toán cho khách hàng (chủ 
yếu là chuyển tiền, nộp/rút tiền từ tài khoản của khách hàng tại ngân hàng) nhằm cung ứng  
dịch vụ  thanh toán cho các khách hàng  ở  khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới,  
hải đảo, nơi không có sự phục vụ của ngân hàng và cho những đối tượng chưa có tài khoản 
ngân hàng.
Đề  án “Hỗ  trợ  hệ  sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”  
(Quyết định số 844/QĐ­TTg ngày 18/5/2016) với các mục tiêu: (i) Tạo lập môi trường thuận 
lợi để  thúc đẩy, hỗ  trợ  quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả 
năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh  

mới và (ii) Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Đề án nhằm  
tạo lập môi trường thuận lợi để  thúc đẩy, hỗ  trợ  quá trình phát triển hoàn thiện hệ  sinh  
thái, cơ chế quản lý phù hợp và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho các doanh  
nghiệp Fintech  ở  Việt Nam phát triển; đồng thời, xây dựng chiến lược và kế  hoạch phát 
triển lĩnh vực Fintech tại Việt Nam phù hợp với chủ trương, định hướng của Chính phủ.


Bên cạnh các Đề  án nói trên, có thể  kể  đến một số  quy định của luật, Nghị  định của 
Chính phủ, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước có liên quan như: 
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã khẳng định tổ chức tài chính là một loại hình tổ 
chức tín dụng trong hệ  thống các tổ  chức tín dụng của Việt Nam, chịu sự  quản lý của  
NHNN. Đây là một bước tiến dài đối với lĩnh vực Fintech. Các tổ  chức cung cấp Fintech  
như  Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Hợp tác xã, Quỹ  tín dụng nhân dân, các tổ 
chức tài chính cung cấp dịch vụ tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác và 
các dịch vụ phi tài chính khác đã mở ra cánh cửa thoát nghèo cho người dân và được người  
nghèo đánh giá cao.  
Nghị   định  số   52/2013/NĐ­CP   ngày   16/5/2013   về   thương   mại  điện  tử;   Nghị   định  số  
35/2007/NĐ­CP ngày 8/3/2007  về  giao dịch điện tử  trong hoạt động ngân hàng. Các Nghị 
định này đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho thương mại điện tử, khuyến khích người 
dân tiếp cận, thực hiện các dịch vụ điện tử, là tiền đề để người dân thực hiện các dịch vụ 
áp dụng công nghệ hiện đại.
Nghị định số 101/2012/NĐ­CP ngày 22/11/2012 quy định về  thanh toán không dùng tiền  
mặt (sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 80/2016/ NĐ­CP)  đã tạo hành lang pháp lý 
quan trọng  về hoạt động cung  ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ  trung gian thanh toán, góp  
phần thúc đẩy mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử  tại Việt Nam  
và cho phép các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, tiện ích đi vào cuộc sống. 
NHNN đã ban hành một số Thông tư hướng dẫn, liên quan đến lĩnh vực thanh toán ứng 
dụng Fintech với đối tượng điều chỉnh là các NHTM, TCTCVM, cụ thể:
Thông tư 23/2014/TT­NHNN ngày 19/8/2014 của NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng 
tài khoản thanh toán tại tổ  chức cung  ứng dịch vụ  thanh toán và   Thông tư  32/2016/TT­

NHNN sửa đổi Thông tư  23/2014/TT­NHNN  quy định người đủ  điều kiện mở  tài khoản 
thanh toán bao gồm, người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy  
định của pháp luật Việt Nam; Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc  
hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người chưa đủ  15 tuổi, người hạn chế năng lực hành vi  
dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự  theo quy định của pháp luật Việt Nam mở  tài  
khoản thanh toán thông qua người đại diện theo pháp luật. Quy định này đã mở  rộng đối  
tượng được mở tài khoản tại ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán và để 
giữ tiền. Đây cũng là tiền đề để người dân có thể tiếp cận đến những sản phẩm và dịch vụ 
tài chính khác như tín dụng, bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư.
Thông tư số 39/2014/TT­NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh  
toán. Thông tư 39 ra đời tạo khuôn khổ pháp lý cho các công ty thực hiện hoạt động trung 
gian thanh toán, tạo thêm kênh thanh toán mới, tiện ích, thúc đẩy phổ cập tài chính tại Việt  
Nam. Đến nay, sau khi thiết lập khuôn khổ pháp lý, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép hoạt  
động cho 25 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng. Các tổ 
chức cung  ứng dịch vụ  trung gian thanh toán cùng với hệ  thống ngân hàng thương mại đã 
cung  ứng những giải pháp thanh toán mới, đáp  ứng nhu cầu thị  trường, đặt biệt là những 
khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi mạng lưới ngân hàng khó vươn tới.
5. ĐỀ XUẤT KHUYẾN NGHỊ


Để  vượt qua được những thách thức, tận dụng tốt những  ưu việt của   Fintech 
mang lại trong bối cảnh  cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, các 
quốc gia cần quan tâm đến một số nội dung sau:
Một là, các quốc gia cần nhanh chóng hoàn thiện đồng bộ  các quy định pháp lý về 
Fintech. Theo đó, cần thiết lập các quy tắc và quy định cho hệ sinh thái Fintech; Tập trung  
xây dựng hành lang pháp lý về hoạt động cung cấp dịch vụ/sản phẩm Fintech; Nhanh chóng  
xây dựng quy định pháp lý về  tiền  ảo, tiền điện tử, công nhận nó như  một loại “tài sản 
ảo”; Quy định các tiêu chuẩn của danh mục sản phẩm và dịch vụ  để  các công ty Fintech 
hoạt động một cách minh bạch, bao gồm các hoạt động tín dụng; tiết kiệm; các dịch vụ 
thanh toán, chuyển tiền trực tuyến; đầu tư, bảo hiểm, tư vấn tài chính; phân tích dữ liệu… 

Đồng thời, quy định rõ mô hình kinh doanh của các công ty cung cấp Fintech… Ngân hàng  
Nhà nước nên xác định nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là xây dựng khung pháp lý cho  
lĩnh vực Fintech, trong đó trước mắt tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực, công nghệ mới 
có tiềm năng ứng dụng cao như: công nghệ blockchain/sổ cái phân tán (DLT); kết nối, chia  
sẻ  dữ  liệu qua giao diện chương trình  ứng dụng mở  (Open API); định danh và nhận biết 
khách hàng điện tử (e­ID/e­KYC)...đồng thời sửa đổi, bổ  sung một số quy định pháp lý về 
hoạt động trung gian thanh toán cho phù hợp với điều kiện thực tế  của thị  trường Việt  
Nam. Hơn thế  nữa, Ngân hàng Nhà nước, Bộ  Tài chính cần quan tâm xây dựng hành lang  
pháp lý cho hoạt động ngân hàng số, bảo hiểm số hướng tới các giao dịch đơn giản­thuận  
tiện, phi giấy tờ, giảm thiểu chi phí và quy trình xử lý tối ưu nhằm tạo điều kiện thuận lợi  
cho các tổ  chức thu nạp khách hàng, cung  ứng hoặc hợp tác cung  ứng các sản phẩm, dịch  
vụ  ngân hàng­ tài chính phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh khách hàng trên nền tảng số  theo  
hướng: (i) Phát huy các nguồn vốn ngoài ngân sách, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, thu 
hút các nguồn vốn cho vay với lãi suất  ưu đãi; (ii) Khuyến khích sự  tham gia của các tổ 
chức tài chính vào thị trường liên ngân hàng, thị trường trái phiếu; (iii) Xây dựng môi trường  
pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính về sản phẩm và dịch vụ.
Hai là, xây dựng chính sách phát triển Fintech gắn với phát triển hệ  thống tài chính ­  
ngân hàng và nền kinh tế. Coi sự phát triển của Fintech gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng 
khoa học ­ công nghệ vào lĩnh vực tài chính ­ ngân hàng, là một bộ phận của ngành tài chính  
­ ngân hàng, chịu sự quản lý của ngành nghề đặc thù. Các ngân hàng và công ty Fintech tiếp  
tục bắt tay hợp tác để cung ứng một hoặc một số dịch vụ tiện ích, làm phong phú thêm các  
sản phẩm, dịch vụ để phục vụ khách hàng, cũng như giải được bài toán đầu tư quá lớn và 
rủi ro vào công nghệ của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng và doanh nghiệp Fintech nên thay 
đổi tư  duy, cởi mở  và hướng tới sự  hợp tác cùng có lợi, tạo sức mạnh tổng hợp cho thị 
trường dịch vụ ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế.  
Bên cạnh đó, các quốc gia cũng cần có các chính sách miễn, giảm thuế; chính sách hỗ 
trợ tiếp cận các nguồn vốn; tạo môi trường cho đầu tư Fintech, hợp tác với các tổ chức tài 
chính­ ngân hàng truyền thống.
Ba là, thúc đẩy quá trình học tập, nghiên cứu và ứng dụng những lợi ích của công nghệ.  
Blockchain, công nghệ sổ cái phân tán... để  áp dụng nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính ­ 

ngân hàng và các lĩnh vực khác do những lợi ích từ công nghệ này là rất lớn. Việc chú trọng  
nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho ứng dụng và quản lý Fintech cũng là một vấn đề đáng  
quan tâm. Có cơ chế khuyến khích đào tạo nhân lực va thu hút nguồn nhân lực chất lượng  
cao cho phát triển Fintech. Đồng thời, tranh thủ  sự  hỗ  trợ  kỹ  thuật và tư  vấn của các tổ 
chức quốc tế như ADB, WBG... và hợp tác song phương với các cơ quan quản lý các nước  


để  trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm hữu ích trong quản lý các DN Fintech. Song song với đó, 
cần lồng ghép giáo dục kỹ  năng quản lý tài chính hộ  gia đình với nhiều chương trình phát 
triển khác nhau; thông qua tổ  tiết kiệm, vay vốn và các tổ  chức đoàn thể  địa phương để 
giáo dục nâng cao kỹ năng tài chính, đào tạo cho người nghèo, người thu nhập thấp về các 
công cụ quản trị  rủi ro, về các dịch vụ bảo hiểm, cho thuê tài chính, các dịch vụ  tài chính  
công nghệ…
Bốn là, khuyến khích tạo điều kiện tăng cường hợp tác giữa các bên trong việc cung  
ứng sản phẩm Fintech. Trong khi thế mạnh của các doanh nghiệp Fintech là công nghệ thì  
thế  mạnh của ngân hàng chính là uy tín và data khách hàng lớn. Tăng cường hợp tác giữa  
các DN Fintech với các tổ  chức tài chính­ ngân hàng truyền thống, cũng như  các DN cung 
cấp internet, thông tin… đảm bảo cho các bên phát huy được lợi thế  của mình, tạo điều 
kiện cho phát triển Fintech ở các nước trong thời gian tới. Bên cạnh đó, cũng khong nên bỏ 
qua việc tạo lập nên Big Data, hay tạo sự  kết nối sâu rộng giữa các bên, vừa đảm bảo 
thông tin cân đối, vừa đảm bảo tính bảo mật của khách hàng, tạo lòng tin đối với khách 
hàng. 
Năm là, đa dạng hóa sản phẩm và phổ  cập kiến thức về  Fintech đến người tiêu dùng.  
Trên cơ  sở  phát triển những sản phẩm Fintech chủ yếu là thanh toán và chuyển tiền, cần  
mở  rộng các sản phẩm tiềm năng khác như  quản lý tài chính, cho vay, tiết kiệm… nhằm  
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các doanh nghiệp Fintech  ở các nước đang phát 
triển chủ yếu cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán (cung cấp cho khách hàng và các nhà 
bán lẻ các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số). Một số 
ít đang hoạt động ở trong lĩnh vực gọi vốn, chuyển tiền, quản lý tài chính cá nhân, quản lý 
dữ liệu, cho vay.  Đây là một thị  trường không thiếu nhu cầu nhưng đang chưa được quan  

tâm đúng đắn, một phần do số  lượng các công ty Fintech  ở  các quốc gia này chưa nhiều, 
nên vẫn còn đang đánh mạnh vào thị trường trung gian thanh toán chưa bão hòa. Các tổ chức  
tài chính cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, cải tiến và áp dụng sản phẩm dịch  
vụ mới gắn với ứng dụng Fintech như: phương thức huy động tiết kiệm để có thể đáp ứng  
nhiều nhu cầu khác nhau; áp dụng thí điểm một số  dịch vụ đại lý như  dịch vụ  đại lý bảo 
hiểm vi mô, đại lý thu chi hộ… nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của hộ nghèo và  
hộ có thu nhập thấp. Ngoài số lượng dịch vụ, cần chú trọng nhiều hơn tới chất lượng dịch  
vụ, sự  đa dạng của dịch vụ  cung cấp, mức độ  sẵn có và dễ  dàng tiếp cận của dịch vụ.  
Việc triển khai tài chính kỹ  thuật số  phải trải qua từng bước để  hình thành thói quen của  
khách hàng. Khách hàng cần tiếp nhận từng bước để  hình thành thói quen. Trước tiên là 
việc sử dụng điện thoại thông minh để biết tin tức, thời tiết và nhận tin nhắn đối chiếu nợ,  
lãi, tiết kiệm … Sau đó sẽ sử dụng phần mềm kết nối với tài khoản ngân hàng để kiểm tra 
số dư và có thể nhận hoặc chuyển một vài món chuyển tiền nhỏ như mua thẻ điện thoại.  
Qua từng bước như vậy khách hàng sẽ dần dần tăng tần suất sử dụng và khi h.nh thành thói 
quen và hiểu biết sẽ  sử  dụng thường xuyên và chuyển sang sử  dụng nhiều dịch vụ  khác  
như gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm, chuyển tiền, thanh toán…
Bên cạnh đó, cần hơn nữa việc tích cực quảng bá, phổ  cập kiến thức về Fintech, cũng  
như  thông tin nhằm đảm bảo hạn chế  rủi ro trong giao dịch Fintech, từ đó giúp nhận biết 
những lợi ích từ ứng dụng công nghệ mà Fintech đem lại.   
Sáu là, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, về doanh nghiệp, về khách hàng,… 
tạo nền tảng số hóa, phục vụ cho phát triển mô hình kinh tế chia sẻ. Hoàn thiện hành lang  


pháp lý trong việc chia sẻ  thông tin giữa các bộ  ngành, giữa cơ  quan quản lý với doanh  
nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhau… 
Bảy là, dành nguồn lực ưu tiên cho phát triển hạ tầng về thông tin mạng và bảo đảm về  
anh ninh, an toàn cho mọi giao dịch của nền kinh tế trong môi trường mạng. Sự  phát triển  
quá nhanh của công nghệ tài chính cũng mang lại những thách thức không nhỏ  đối với các 
cơ  quan quản lý về  vấn đề  an toàn bảo mật, an ninh mạng, tội phạm công nghệ  cao, cơ 
chế hợp tác trong chia sẻ thông tin giữa các nước... 

Tám là, từ  phía ngân hàng, cần quy định về  các loại dữ  liệu cung cấp cho các doanh  
nghiệp Fintech. Khi đưa sản phẩm vào ứng dụng, ngân hàng cũng cần giám sát các dữ liệu  
có được sử  dụng đúng mục đích, đồng thời phải có chính sách bảo mật thông tin khách 
hàng. Với các doanh nghiệp Fintech, cần quan tâm đến khía cạnh bảo mật ngay từ khi đưa 
ra ý tưởng, thực hiện song song giữa sáng tạo và tăng cường bảo mật cho giao dịch của  
khách hàng.
Chín là, tăng cường hợp tác và đầu tư từ nước ngoài.  Đặc biệt từ các nước dẫn đầu về 
thị  trường tài chính quốc tế  để  nhận chuyển giao và cập nhật công nghệ  mới, nhất là 
những công nghệ tạo ra sản phẩm bậc cao như tư vấn tự động, nhận diện kỹ thuật số… từ 
xu thế phát triển của Fintech toàn cầu.
Các thị trường mới nổi mang đến cơ  hội tuyệt vời nhất cho các công ty Fintech. Trong  
đó, Đông Nam Á có sức hấp dẫn đặc biệt bởi có dân số  sành về  công nghệ  và các chính 
phủ cũng chào đón các công nghệ mới. Một trong những nguyên nhân chính tạo sức bật cho  
tốc độ tăng trưởng ở Đông Nam Á là mức độ  tiếp cận tài chính thấp tại khu vực. Điều đó  
đã mở ra cơ hội cho các công ty Fintech trong việc triển khai các dịch vụ và mở  rộng bành 
trướng. Trên khắp Đông Nam Á, chưa tới 30% dân số có tài khoản ngân hàng. Tại các quốc 
gia ít phát triển hơn như Campuchia, con số này chỉ 5%.
Các giải pháp Fintech vừa vặn có thể  lấp vào khoảng cách lớn giữa số  dân chưa có tài  
khoản ngân hàng và khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính. Bởi vậy, nhu cầu cao đối với  
thanh toán số, ví điện tử và các giải pháp tài chính thay thế lại ngày càng tăng cao hơn. Với  
việc đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cụ thể, thiết thực như trên, nhóm nghiên cứu hy  
vọng tạo được “cú huých” nhằm thúc đẩy khả năng ứng dụng Fintech đối với các tổ  chức 
tài chính phục vụ phổ cập tại Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Anh
[1] Brynjolfsson, E., & Kahin, B. (Eds.). (2002). Understanding the digital economy: data, 
tools, and research. MIT press.
[2] DeYoung,   R.   &   Hunter,   W.C.   2003,   Deregulation,   the   Internet,   and   the   competitive 
viability of large banks and community banks, in The Future of Banking, ed. B. Gup (Quorom 
Books, Westport, CT).

[3] De Young, R & Rice, T. 2004, Noninterest income and Financial performance 
at U.S commercial banks. The Financial Review, 101 – 127.
[4] Gregor   Dorfleitner   và   colleagues  (2017),  Definition   of   FinTech   and 

Description of the FinTech Industry, Springer.
[5] Schwab, K. (2017). The fourth industrial revolution. Currency.


[6] Sommer,   L.   (2015).   Industrial   revolution­industry   4.0:   Are   German 
manufacturing   SMEs   the   first   victims   of   this   revolution?.   Journal   of   Industrial 
Engineering and Management, 8(5), 1512­1532.
Danh mục tài liệu tiếng Việt
[1] Hương, Trầm; Như, Nguyễn (2018). "Tác động của công nghệ đến đa dạng 
hóa thu nhập ngân hàng­gợi ý xu hướng phát triển."
Link tham khảo:
/> /> />2019­Trends.pdf
tnam­briefing.com/news/growing­market­potential­of­fintech­in­vietnam.html/
/> />8­billion­by­2020/#72a7e726456f



×