Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI: Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.13 KB, 12 trang )

Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và
kiến nghị cho Việt Nam
Lê Hà Trang

Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng

Các cơ quan xúc tiến đầu tư tại các quốc gia đang phát triển hiện gặp nhiều
áp lực trong việc đưa ra các ưu đãi nhằm chạy đua trong cuộc chiến thu
hút FDI trên toàn cầu. Bài viết này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
thuyết và thực tiễn liên quan tới ưu đãi đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN), một trong những loại thuế có ảnh hưởng quan trọng và tác động
tới mọi loại hình FDI. Thông qua việc tổng hợp, so sánh và phân tích số
liệu, bài viết đưa ra những lý thuyết chung về ưu đãi thuế TNDN và cung
cấp bức tranh tổng quan về thực trạng áp dụng các hình thức ưu đãi thuế
tại những quốc gia đang phát triển. Cuối cùng, căn cứ vào thực trạng tại
Việt Nam, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm cải cách các ưu đãi thuế
theo hướng hiệu quả hơn.
Từ khóa: FDI, ưu đãi thuế, quốc gia đang phát triển, Việt Nam, thu hút đầu tư
1. Mở đầu
Hiện nay hầu hết các quốc gia, ngay cả
các quốc gia đã phát triển, đang đưa ra

các biện pháp ưu đãi để thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, các
cơ quan xúc tiến đầu tư tại các nước đang

Tax incentives for FDI enterprises: The current situation in developing countries and Suggestions for
Vietnam

Abstract: Investment promotion agencies in developing countries are currently under pressure to offer


incentives to race in the global battle to attract FDI. This article focuses on theoretical and practical issues
related to incentives for corporate income tax (CIT), one of the taxes has an important influence and affects
all types of FDI. By synthesizing, comparing and analyzing data, the article provides general theories on CIT
incentives and provides an overview of the current status of applying tax incentives in developing countries.
Finally, based on the current situation in Vietnam, the article proposes recommendations to reform tax
incentives in a more efficient way.
Keywords: FDI, tax incentive, developing countries, Vietnam, attracting investment.
Trang Ha Le, MEc.
Email:
Faculty of International Business, Banking Academy of Vietnam
Ngày nhận: 30/03/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 208- Tháng 9. 2019

Ngày nhận bản sửa: 26/04/2019

60

Ngày duyệt đăng: 17/05/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X


LÊ HÀ TRANG

phát triển luôn gặp áp lực phải đưa ra các
ưu đãi nhằm chạy đua trong cuộc chiến
thu hút FDI trên toàn cầu.

Ưu đãi đối với các doanh nghiệp FDI có
thể được áp dụng cho rất nhiều loại thuế
khác nhau như thuế TNDN, thuế chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài, thuế quan, thuế
đất đai… Trong phạm vi bài viết này, tác
giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
thuyết và thực tiễn liên quan tới ưu đãi đối
với thuế TNDN, một trong những loại thuế
có ảnh hưởng quan trọng và tác động tới
mọi loại hình doanh nghiệp FDI. Mục tiêu
của bài viết nhằm: (1) Cung cấp những lý
thuyết chung về ưu đãi thuế TNDN; (2)
nghiên cứu thực trạng áp dụng các ưu đãi
thuế tại những quốc gia đang phát triển; và
(3) liên hệ thực tiễn tại Việt Nam để từ đó
đề xuất một số kiến nghị nhằm cải cách các
ưu đãi thuế theo hướng hiệu quả hơn.
2. Tổng quan về ưu đãi thuế
2.1. Các hình thức ưu đãi thuế
Ưu đãi thuế là một bộ phận quan trọng
trong những ưu đãi mà Chính phủ một
quốc gia dành cho các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Thông qua chính sách ưu đãi
thuế, chi phí thuế mà các nhà đầu tư nước
ngoài phải gánh chịu tại quốc gia nhận đầu
tư sẽ được cắt giảm, từ đó các Chính phủ
hy vọng có thể khiến môi trường đầu tư
tại quốc gia mình trở nên thu hút và cạnh
tranh hơn. Nguồn FDI gia tăng cũng đồng
nghĩa với việc các quốc gia có thêm nguồn

lực phục vụ các mục tiêu như phát triển
kinh tế khu vực, tạo công ăn việc làm,
thúc đẩy chuyển giao công nghệ, xúc
tiến xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế…
Ưu đãi thuế có thể được phân thành một

số hình thức cơ bản sau: Kỳ miễn thuế,
ưu đãi thuế suất, trợ cấp thuế và khấu trừ
thuế, khấu hao nhanh. Mỗi biện pháp ưu
đãi đều có những ưu và nhược điểm riêng
khiến việc lựa chọn và áp dụng các biện
pháp này ở từng quốc gia là hết sức đa
dạng và linh hoạt.
a. Kỳ miễn thuế
Kỳ miễn thuế là khoảng thời gian mà các
doanh nghiệp FDI mới thành lập được
miễn nghĩa vụ nộp thuế TNDN. Đôi khi,
sau khi kỳ miễn thuế chấm dứt, nhà đầu
tư sẽ tiếp tục được hưởng một thời gian áp
dụng mức thuế suất ưu đãi.
Điểm nổi trội của các kỳ miễn thuế là hình
thức này thường có sức hút lớn đối với
các nhà đầu tư nước ngoài do mang lại
hiệu quả tiết kiệm chi phí tuyệt đối, đặc
biệt là đối với những dự án đạt lợi nhuận
cao trong những năm đầu hoạt động.
Thêm vào đó, nhà đầu tư có thể đánh giá
cao sự giải phóng hoàn toàn khỏi những
tương tác với cơ quan thuế trong suốt thời

gian miễn thuế. Tuy nhiên, các kỳ miễn
thuế thường không có lợi cho các dự án
dài hạn, sử dụng nhiều vốn và những dự
án trong các lĩnh vực đổi mới, sáng tạo,
vì những dự án này thường không có lợi
nhuận trong những năm đầu hoạt động.
Đối với Chính phủ nhận đầu tư, một mặt,
kỳ miễn thuế là biện pháp đơn giản và dễ
dàng quản lý nhất do cơ quan thuế không
cần phải quan tâm và theo dõi lợi nhuận
của doanh nghiệp trong thời gian miễn
thuế. Nhưng mặt khác, hình thức ưu đãi
này gắn liền với rủi ro tài khóa cao do khó
dự đoán được giá trị thất thu thuế thực tế.
Ngoài ra, ưu đãi thường được cấp trước
cho nhà đầu tư mà không có sự bảo đảm
nào về kết quả đầu tư thực tế.

Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

61


Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam

b. Ưu đãi thuế suất
Ưu đãi thuế suất là việc các doanh nghiệp
FDI được hưởng mức thuế TNDN thấp
hơn mức thuế suất thông thường trong một

khoảng thời gian nhất định hoặc thậm chí
trong toàn bộ vòng đời của dự án.
Đối với hình thức ưu đãi thuế suất, nghĩa
vụ thuế của các doanh nghiệp không bị
loại trừ hoàn toàn. Giống với kỳ miễn
thuế, ưu đãi thuế suất mang lại rất nhiều
lợi ích cho các doanh nghiệp có lợi nhuận
cao, thường lại là những doanh nghiệp ít
cần sự hỗ trợ của chính phủ nhất. Điều
này có thể dẫn đến những chi phí không
cần thiết để duy trì các ưu đãi như vậy.
Ngoài ra, chính phủ các quốc gia sẽ phải
đối mặt với nguy cơ thất thu những khoản
thuế lớn khi một doanh nghiệp có được
lợi nhuận cao bất thường trong một năm
nhất định. Do các tập đoàn đa quốc gia có
thể phân chia lợi nhuận giữa công ty mẹ
và các công ty con nên nguy cơ trốn thuế
thông qua chuyển giá đối với các ưu đãi
dựa trên lợi nhuận như kỳ miễn thuế và ưu
đãi thuế suất là rất dễ xảy ra. Việc sử dụng
rộng rãi các biện pháp ưu đãi ở các quốc
gia đang phát triển là một thiếu sót đáng
kể trong việc thiết kế hệ thống ưu đãi thuế
hiện nay.
c. Trợ cấp thuế và khấu trừ thuế
Trợ cấp thuế và khấu trừ thuế là các hình
thức giảm thuế dựa trên giá trị các khoản
đầu tư đủ điều kiện, vì vậy được gọi là các
hình thức ưu đãi thuế dựa trên hiệu quả.

Trợ cấp thuế được sử dụng để giảm thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp và khấu
trừ thuế được sử dụng để giảm trực tiếp số
tiền thuế phải nộp.
Các biện pháp ưu đãi thuế này thể hiện

62

nhiều ưu điểm vượt trội so với kỳ miễn
thuế. Thứ nhất, do các doanh nghiệp FDI
không thoát ly hoàn toàn khỏi các nghĩa
vụ thuế, chi phí của các khoản thu nhập
được giảm thuế sẽ luôn được cơ quan thuế
sở tại theo dõi và giám sát, từ đó làm cho
quy trình ưu đãi này trở nên minh bạch
hơn. Thứ hai, trợ cấp thuế và khấu trừ thuế
không tạo ra sự bất bình đẳng về lợi ích
giữa những doanh nghiệp lợi nhuận cao và
thấp, giữa những dự án dài hạn và ngắn hạn
do tỷ lệ trợ cấp hoặc khấu trừ có thể thay
đổi linh hoạt theo đặc thù của dự án đầu tư.
Do đó những hình thức ưu đãi như thế này
cũng ít bị lạm dụng bởi chuyển giá, và mức
độ áp dụng ưu đãi có thể điều chỉnh tùy
theo các mục tiêu chính sách. Cuối cùng,
các biện pháp ưu đãi dựa trên hiệu quả
cũng có thể giúp giải quyết các vấn đề liên
quan đến cách thức xử lý đối với tái đầu tư
hoặc đầu tư mở rộng, điều bị bỏ qua khi áp
dụng hình thức miễn thuế có thời hạn. Do

trợ cấp thuế và khấu trừ thuế liên quan trực
tiếp tới giá trị của khoản đầu tư, dù khoản
đầu tư đó được thực hiện tại thời điểm nào
trong vòng đời dự án thì các ưu đãi cũng sẽ
giúp doanh nghiệp FDI giảm chi phí đầu
tư cơ bản.
Tuy nhiên, hạn chế dễ thấy nhất của các
biện pháp ưu đãi như trợ cấp thuế và khấu
trừ thuế là chúng khiến hệ thống thuế trở
nên phức tạp và khó quản lý hơn. Điều đó
cũng được thể hiện qua thực tế là chỉ có
một số ít các quốc gia đang phát triển hiện
đang sử dụng các hình thức ưu đãi này.
d. Khấu hao nhanh
Khấu hao nhanh là việc cho phép doanh
nghiệp FDI thực hiện khấu hao tài sản cố
định cho mục đích thuế với thời hạn nhanh
hơn so với nguyên tắc kế toán thông
thường. Khi áp dụng biện pháp ưu đãi

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 2019


LÊ HÀ TRANG

này, gánh nặng thuế danh nghĩa của doanh
nghiệp không thực sự giảm mà chỉ đơn
thuần là trì hoãn khoản thuế phải nộp đến
giai đoạn sau của dự án đầu tư. Nói cách
khác, khấu hao nhanh cung cấp việc hoãn

thuế giống như một khoản tín dụng không
lãi suất của Chính phủ dành cho nhà đầu
tư. Không giống với các hình thức ưu đãi
trước, khấu hao nhanh chỉ thích hợp với
một số lĩnh vực ngành nghề nhất định sử
dụng nhiều tài sản cố định với cường độ
vốn lớn.
2.2. Hiệu quả của ưu đãi thuế
Tính hiệu quả của ưu đãi thuế trong thu
hút FDI đã là chủ đề của rất nhiều nghiên
cứu học thuật trong nhiều năm trở lại đây.
Hầu hết những bằng chứng định lượng
trên phạm vi rộng đều đưa tới kết luận
rằng, ưu đãi thuế có ảnh hưởng tích cực
tới FDI vào một quốc gia (IMF, 2015;
WB, 2017) nhưng không phải là yếu tố
quyết định hàng đầu. Theo Báo cáo Đầu tư
quốc tế của UNCTAD (2017) các thay đổi
về chính sách thuế chỉ xếp hạng 7 trong
13 yếu tố vĩ mô có tác động tới quyết định
của nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, hiệu quả của ưu đãi thuế
cũng rất khác nhau tùy thuộc vào động cơ
của dự án FDI. Cụ thể, tác động từ ưu đãi
thuế thực sự hiệu quả đối với FDI với mục
đích tìm kiếm hiệu quả. Với các loại hình
FDI khác như FDI tìm kiếm thị trường,
FDI tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và
FDI tìm kiếm tài sản chiến lược (thương
hiệu, công nghệ, kỹ năng…), ảnh hưởng

của ưu đãi thuế thường tương đối thấp.
Theo Khảo sát Năng lực cạnh tranh đầu tư
toàn cầu của WB (2017), 64% nhà đầu tư
tìm kiếm hiệu quả trong khảo sát cho rằng
các ưu đãi thuế có ảnh hưởng quan trọng
tới quyết định đầu tư của họ, trong khi tỷ

lệ này chỉ là 47% đối với những nhà đầu
tư với các động cơ khác như tìm kiếm thị
trường và tài nguyên thiên nhiên.
Kết quả này có thể được lý giải thông qua
lập luận sau: Thuế TNDN có thể coi như
một loại chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận ròng của nhà đầu tư. Do đó FDI
tìm kiếm hiệu quả, với việc lấy tối thiểu
hóa chi phí làm động cơ chính, sẽ đặc biệt
bị chi phối mạnh bởi sự so sánh về mức
độ ưu đãi thuế giữa các quốc gia mục tiêu.
Ngược lại, đối với các loại hình FDI mà
giảm thiểu chi phí sản xuất không phải
mục đích chính thì các ưu đãi thuế trở nên
kém hấp dẫn hơn. Các yếu tố then chốt
quyết định địa điểm đầu tư của các hình
thức FDI này thường là nguồn tài nguyên
thiên nhiên, quy mô thị trường, hoặc các
thế mạnh về công nghệ, nguồn nhân lực và
mạng lưới phân phối.
Ngoài ra, như đã phân tích ở nội dung 2.1,
tác dụng thu hút FDI còn biểu hiện khác
nhau tùy thuộc vào hình thức ưu đãi được

áp dụng. Các hình thức ưu đãi thuế dựa trên
lợi nhuận như kỳ miễn thuế và ưu đãi thuế
suất thường hấp dẫn những khoản đầu tư
cho lợi nhuận cao vào những năm đầu hoạt
động. Đặc điểm này làm phát sinh hiện
tượng các nhà đầu tư nước ngoài có thể
sử dụng hình thức đầu tư mở rộng để tận
dụng ưu đãi cho từng giai đoạn ngắn (WB,
2017). Ngược lại, các hình thức ưu đãi thuế
dựa trên chi phí như khấu trừ thuế, trợ cấp
thuế và khấu hao nhanh tỏ ra có hiệu quả
hơn đối với những khoản đầu tư có cường
độ vốn lớn, dài hạn và thường chưa mang
lại lợi nhuận trong những năm đầu của dự
án (ví dụ các dự án nghiên cứu và phát triển
liên quan đến công nghệ thông tin, y tế và
công nghệ xanh).
2.3. Những hạn chế của ưu đãi thuế

Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

63


Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam

Mục tiêu của ưu đãi thuế là giúp các quốc
gia tạo lập một môi trường đầu tư hấp
dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài.

Trong khi những bằng chứng về vai trò
quyết định của ưu đãi thuế TNDN trong
thu hút FDI còn tương đối mơ hồ thì xu
hướng sử dụng loại hình ưu đãi này tại
các quốc gia đang phát triển hiện nay vẫn
đang bộc lộ một số điểm hạn chế sau:
Thứ nhất, ưu đãi thuế đang gây ra những
tổn thất thuế đáng kể cho các quốc gia áp
dụng chúng, mặc dù những tổn thất này
không phải lúc nào cũng dễ nhận thấy
được. Thâm hụt ngân sách luôn là một bài
toán khó cho những quốc gia đang phát
triển, tuy nhiên Chính phủ tại các quốc gia
này dường như lại đang quá hào phóng
với các ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp
FDI mà quên mất rằng những ưu đãi đó sẽ
trực tiếp gây ra những thiệt hại cho ngân
sách công (WB, 2017). Người dân cũng
không thể nắm được thông tin cũng như
giám sát những thất thu thuế kiểu này như
đối với những khoản chi thường xuyên
của Chính phủ, và ở nhiều nước đang phát
triển thì thất thu thuế do ưu đãi thậm chí
không được đo lường hay công bố (IMF,
2015; WB, 2017). Mặc dù còn nhiều hạn
chế về dữ liệu, nhưng WB (2017, tr79) đã
ước tính thất thu thuế TNDN từ ưu đãi tại
những quốc gia đang phát triển thường
rất cao, nếu tính theo phần trăm GDP, chi
phí này lên tới 5,9% tại Campuchia, 5,2%

tại Ghana, 5% tại Brazil và 3,9% tại Cộng
hòa Dominic.
Thứ hai, chế độ đãi ngộ thuế ở các nước
đang phát triển thường bị ảnh hưởng bởi
thiết kế yếu kém, thiếu minh bạch và cồng
kềnh về mặt quản lý (IMF, 2015). Thực
tiễn trên kéo theo nhiều chi phí hành chính
phát sinh đối với các cơ quan cấp phép và
giám sát đầu tư tại quốc gia sở tại. Quan

64

trọng hơn, những hạn chế này có thể
làm tăng chi phí gián tiếp của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài, từ đó làm giảm
tính hấp dẫn của các biện pháp ưu đãi.
Thứ ba, do kỳ miễn thuế và ưu đãi thuế
suất vẫn là những hình thức ưu đãi phổ
biến tại các quốc gia đang phát triển, ưu
đãi thuế tại những nước này dễ bị lạm
dụng cho các hành vi trốn thuế của các tập
đoàn đa quốc gia, thông qua việc chuyển
lợi nhuận từ cơ sở không được miễn thuế
sang các cơ sở được miễn giảm thuế bằng
cách vận dụng giá chuyển nhượng nội bộ.
Thứ tư, theo dữ liệu từ WB giai đoạn 20092015, 46% các quốc gia đang phát triển tiếp
tục giới thiệu thêm hoặc gia tăng những ưu
đãi thuế dành cho nhà đầu tư nước ngoài,
trong khi chỉ có 24% quốc gia thực hiện gỡ
bỏ hoặc giảm thiểu những hình thức ưu đãi

như vậy. Điều này cho thấy xu hướng chạy
đua sử dụng ưu đãi thuế trong cạnh tranh
thu hút FDI giữa các quốc gia. Trên thực
tế, một cuộc chạy đua như vậy chỉ có lợi
cho các doanh nghiệp FDI và sẽ khiến chi
phí mà các Chính phủ phải bỏ ra để thu hút
FDI trở nên quá lớn so với những lợi ích có
được từ nguồn vốn ngoại.
Thứ năm, hiện nay các quốc gia đang
phát triển thường áp dụng ưu đãi thuế cho
hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực kinh
tế. Thực tế cho thấy áp dụng ưu đãi trên
diện rộng tỏ ra không thực sự hiệu quả vì
trong rất nhiều ngành nghề lĩnh vực, chi
phí thuế không phải là yếu tố chủ chốt
đưa tới quyết định lựa chọn địa điểm đầu
tư (Wells và cộng sự, 2001; IMF, 2015;
UNCTAD, 2017). Trong những trường
hợp như vậy, ưu đãi thuế giống như một
món quà lãng phí và hào phóng quá mức
mà Chính phủ nhận đầu tư dành tặng cho
các doanh nghiệp FDI.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 2019


LÊ HÀ TRANG

Hình 1. Thực trạng áp dụng kỳ miễn thuế tại các quốc gia đang phát triển phân theo ngành
nghề giai đoạn 2009- 2015


Nguồn: Developing Country Tax Incentives Database, World Bank (2017), tr90-96

3. Thực trạng áp dụng ưu đãi thuế tại
các quốc gia đang phát triển
Một quốc gia có thể cung cấp những đãi
ngộ thuế cho nhà đầu tư nước ngoài dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong số các
quốc gia đang phát triển, kỳ miễn thuế
và ưu đãi thuế suất là hai hình thức được
sử dụng rộng rãi nhất. Năm 2017, WB
đã tiến hành thu thập và tổng hợp dữ liệu
thuế từ 107 quốc gia đang phát triển trong
giai đoạn 2009- 2015. Theo dữ liệu tổng
hợp từ WB, 51% số nước đang phát triển
hiện nay cung cấp các kỳ miễn thuế trong
ít nhất một ngành nghề, lĩnh vực đầu tư.
Nếu phân chia theo ngành nghề, tỷ lệ cung
cấp kỳ miễn thuế cao nhất là trong lĩnh
vực xây dựng và sản xuất, xuất hiện tại
47% số lượng các quốc gia đang phát triển
(Hình 1). Kỳ miễn thuế được áp dụng ít
hơn trong các ngành dịch vụ và khai thác
tài nguyên thiên nhiên, và thấp nhất trong
lĩnh vực bán lẻ (23%). Thời gian trung
bình của các kỳ miễn thuế giữa các lĩnh
vực và ngành nghề là 8-10 năm.

Hầu hết các quốc gia đang phát triển chỉ
cấp các kỳ miễn thuế với điều kiện cụ

thể về địa điểm đầu tư (77%), thường là
các địa điểm kinh tế đặc biệt hoặc tại một
vùng được chỉ định của đất nước. 40% các
nước đang phát triển có các yêu cầu bổ
sung cho kỳ miễn thuế, ví dụ như chỉ áp
dụng kỳ miễn thuế đối với các dự án đầu
tư vào nghiên cứu và phát triển.
Tương tự như kỳ miễn thuế, biện pháp
ưu đãi thuế suất đối với các ngành hoặc
nhà đầu tư cụ thể cũng tương đối phổ biến
tại các nước đang phát triển, với 40% số
lượng quốc gia cung cấp loại hình ưu đãi
này cho ít nhất một ngành nghề. Mức thuế
suất ưu đãi biên trung bình là 13%. Giống
như các kỳ miễn thuế, thuế suất ưu đãi
được sử dụng rộng rãi nhất trong lĩnh vực
sản xuất, dẫn đầu bởi ngành chế biến thực
phẩm và công nghệ thông tin và điện tử,
với 46% quốc gia đang áp dụng hình thức
ưu đãi này (Hình 2).
Các biện pháp trợ cấp thuế và khấu trừ

Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

65


Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam
Hình 2. Thực trạng áp dụng ưu đãi thuế suất tại các quốc gia đang phát triển phân

theo ngành nghề giai đoạn 2009- 2015

Nguồn: Developing Country Tax Incentives Database, World Bank (2017), tr90-96

thuế ít phổ biến hơn tại các nước đang
phát triển; chỉ có 16% các quốc gia cung
cấp các khoản trợ cấp và khấu trừ thuế
trong ít nhất một ngành. Các khoản trợ cấp
và khấu trừ thuế cũng chỉ tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực sản xuất (Hình 3). Hầu
như tất cả các khoản trợ cấp thuế và khấu
trừ thuế đều phải đi kèm điều kiện, phù
hợp với đặc tính là dựa trên kết quả hoạt
động kinh doanh của loại hình ưu đãi này.
Việc nhận các khoản trợ cấp thuế và khấu
trừ thuế thường liên quan đến các hoạt
động đầu tư cụ thể, chẳng hạn như nghiên

cứu và phát triển hoặc mua sắm, lắp đặt
thiết bị và công nghệ mới.
Nếu phân chia theo khu vực địa lý, Đông
Á và Thái Bình Dương đang là khu vực
có nhiều sự cạnh tranh nhất về ưu đãi thuế
với tỷ lệ lớn các quốc gia hiện đang áp
dụng các hình thức ưu đãi như kỳ miễn
thuế (71%), ưu đãi thuế suất (60%), trợ
cấp thuế và khấu trừ thuế (33%) (Hình 4).
Các điều kiện bổ sung như vị trí đầu tư,
định hướng xuất khẩu, và các đặc thù khác
của dự án cũng được áp dụng mặc dù có


Hình 3. Thực trạng áp dụng trợ cấp thuế và khấu trừ thuế tại các quốc gia đang phát
triển phân theo ngành nghề giai đoạn 2009- 2015

Nguồn: Developing Country Tax Incentives Database, World Bank (2017), tr90-96

66

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 2019


LÊ HÀ TRANG

Hình 4. Thực trạng áp dụng những biện pháp ưu đãi thuế tại các quốc gia đang
phát triển phân theo khu vực địa lý giai đoạn 2009- 2015

Nguồn: Developing Country Tax Incentives Database, World Bank (2017), tr90-96

sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực.
4. Một số kiến nghị trong việc cải cách
ưu đãi thuế tại Việt Nam
4.1. Thực trạng áp dụng ưu đãi thuế tại
Việt Nam
Tại Việt Nam, nhiều biện pháp ưu đãi thuế
TNDN hiện đang được áp dụng đồng thời
như cung cấp mức thuế suất ưu đãi có thời
hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án
đầu tư; miễn, giảm thuế TNDN phải nộp.
Mức thuế suất ưu đãi từ 10% đến 20% tùy
vào doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều

kiện kinh tế xã hội khó khăn, khu kinh
tế hoặc khu công nghệ cao hoặc các lĩnh
vực khuyến khích đầu tư trong thời hạn
nhất định. Cụ thể, ưu đãi thuế đang được
áp dụng đối với 30 lĩnh vực khuyến khích
đầu tư và 27 lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu
tư. Về địa bàn, ưu đãi thuế được áp dụng
trên các huyện, thị xã của 53/ 63 tỉnh,
thành phố trong cả nước (Trương Bá Tuấn
và Lê Quang Thuận, 2016).
Kỳ miễn thuế có thời hạn tương đối ngắn,

chỉ từ 2- 4 năm đối với những nhà đầu tư
hợp lệ, so với thời hạn bình quân 8- 10
năm của khu vực. Tuy vậy, nhà đầu tư tại
Việt Nam sẽ được giảm thuế 50% trong 49 năm. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp
đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi có
thể được khấu hao nhanh đối với tài sản
cố định nhưng tối đa không quá 2 lần mức
khấu hao thông thường. Các biện pháp ưu
đãi như khấu trừ thuế và trợ cấp thuế chưa
được áp dụng tại Việt Nam.
Về nguồn luật điều chỉnh, các chính sách ưu
đãi thuế dành cho nhà đầu tư hiện được quy
định tại nhiều văn bản luật khác nhau. Tuy
Luật Thuế TNDN 2008 và Luật Đầu tư 2014
là những văn bản pháp lý chính điều chỉnh
các ưu đãi này, nhưng thực chất có rất nhiều
sửa đổi, bổ sung và quy định hướng dẫn tại
nhiều văn bản ban hành sau này như Luật

số 32/2013/QH13, Luật số 71/2014/QH13,
Nghị định 218/2013/NĐ-CP, Nghị định
91/2014/NĐ-CP, Nghị định 12/2015/NĐCP, và nhiều thông tư có liên quan.
Về thủ tục hưởng ưu đãi, căn cứ Luật Đầu
tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP về

Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

67


Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam

Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Đầu tư, nhà đầu tư sẽ
được xác nhận đủ điều kiện hưởng ưu đãi
thuế cùng với việc cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư. Nếu dự án thuộc diện
không phải cấp giấy chứng nhận đầu tư,
nhà đầu tư tự xác định hình thức ưu đãi
và thực hiện các thủ tục để được hưởng
ưu đãi với cơ quan thuế hoặc cơ quan tài
chính theo các điều kiện ưu đãi đầu tư.
Thực tế trong nhiều trường hợp, nhà đầu
tư đánh giá ưu đãi của mình không đúng,
dẫn đến việc khi thanh tra thuế vào đánh
giá lại thì thấy rằng dự án đầu tư không
đáp ứng đủ điều kiện hoặc thiếu giấy tờ
liên quan để chứng minh về điều kiện ưu

đãi. Điều này khiến nhiều chủ đầu tư bị
điều chỉnh tăng mức thu nhập chịu thuế
kèm theo các mức phạt liên quan.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm
cấp các ưu đãi đầu tư, nhưng công việc
này được thực hiện cùng với chính quyền
địa phương. Trong quá trình nộp đơn,
nhiều cơ quan thuộc các ban ngành, lĩnh
vực khác nhau có thể tham gia để đánh
giá một dự án đầu tư. Sau khi ưu đãi đầu
tư được cấp, Bộ Tài chính và Cục Thuế
có trách nhiệm áp dụng mức thuế suất ưu
đãi theo quy định. Do có nhiều nguồn luật

điều chỉnh về thủ tục và điều kiện hưởng
ưu đãi thuế, các nhà đầu tư nước ngoài
mới vào thị trường Việt Nam thường gặp
lúng túng và mất nhiều thời gian để tìm
hiểu thông tin. Thêm vào đó, cơ chế tự
xác định điều kiện hưởng ưu đãi khiến
cho họ gặp rủi ro nếu diễn giải hoặc
có cách hiểu không đúng về các quy
định liên quan. Vì vậy nhà đầu tư nước
ngoài thường phải tìm đến các công
ty dịch vụ thuế chuyên nghiệp để giúp
hiểu rõ hơn về quy trình đăng ký.
Về tính hiệu quả, so sánh với một số đối
thủ cạnh tranh FDI khác trong khu vực
Châu Á, mức thuế suất thuế TNDN thực
của Việt Nam là khá thấp (Bảng 1). Như

vậy có thể coi ưu đãi thuế là một thế mạnh
tạo thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình
thu hút dòng vốn ngoại.
Thêm vào đó, OECD (2018, tr.150) cũng
ghi nhận tác động hiệu quả của mức thuế
suất thực thấp đối với cường độ FDI vào
các quốc gia như Việt Nam, Campuchia
và Thái Lan. Tuy nhiên theo Nguyen Thi
Canh và cộng sự (2013), hiệu quả của ưu
đãi thuế tại Việt Nam còn chưa tối ưu. Kết
quả khảo sát của nghiên cứu đưa ra kết
luận rằng khoảng 60-70% các dự án FDI

Bảng 1. So sánh chính sách thuế của một số quốc gia Châu Á năm 2017
Thuế TNDN
theo luật định

Thuế TNDN
thực

Tổng mức thuế
suất thực (1)

Ảnh hưởng của thuế suất
tới quyết định đầu tư (2)

Việt Nam

20%


13,1%

39,4%

3,7

Thái Lan

20%

22,6%

32,6%

4,1

Philippin

30%

20,3%

42,9%

3,5

Indonesia

25%


16,6%

30,6%

4,2

Trung Quốc

25%

11,1%

68,0%

4,4

Ấn Độ

30%

23,5%

60,6%

4,5

(1) Bao gồm tất cả nghĩa vụ thuế tại quốc gia nhận đầu tư
(2) Trong khoảng 1-7, 1 là ảnh hưởng đáng kể, 7 là không có ảnh hưởng
Nguồn: World Econonmic Forum (2017), The Global Competitiveness Report 2017–2018


68

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 2019


LÊ HÀ TRANG

vào Việt Nam vẫn sẽ được thực hiện cho
dù có các đãi ngộ về thuế hay không.
Về chi phí ngân sách, doanh thu thuế
TNDN có một vai trò đặc biệt to lớn, đóng
góp tới 25% tổng thu ngân sách chính phủ
tại Việt Nam (OECD, 2018, tr.154). Theo
Nguyen Thi Canh và cộng sự (2013),
nhiều dự án FDI vào Việt Nam vẫn sẽ
được thực hiện cho dù không có ưu đãi về
thuế. Điều này cho thấy chi phí cơ hội liên
quan đến thất thu thuế TNDN để thu hút
FDI tại Việt Nam đang cao hơn mức cần
thiết. Mặc dù vậy, những nghiên cứu định
lượng cụ thể về chi phí thuế tại Việt Nam
chưa thể thực hiện do sự thiếu hụt về cơ sở
dữ liệu (OECD, 2018). Theo Trương Bá
Tuấn (2019), giảm thu ngân sách nhà nước
từ khu vực FDI chiếm khoảng 75,5% tổng
số số thu ngân sách nhà nước giảm do
thực hiện ưu đãi thuế TNDN năm 2016.
4.2. Một số kiến nghị trong việc cái cách
ưu đãi thuế tại Việt Nam
Từ những đánh giá về thực trạng sử dụng ưu

đãi thuế hiện nay tại các quốc gia đang phát
triển nói chung và tại Việt Nam nói riêng,
bài viết xin đưa ra một số kiến nghị trong
việc cải cách ưu đãi thuế tại Việt Nam.
Thứ nhất, cải cách chế độ ưu đãi thuế theo
hướng minh bạch, giảm thiểu các chi phí
hành chính để tránh tạo thêm những gánh
nặng chi phí không đáng có dành cho chủ
đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và WB, 2018). Để minh bạch hóa hệ thống
ưu đãi thuế, việc đầu tiên cần thực hiện là
ban hành một danh mục rõ ràng các ưu đãi
mà nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận.
Hiện nay các chính sách ưu đãi thuế dành
cho nhà đầu tư quy định tại nhiều văn bản
khác nhau, vì vậy việc tập trung hóa thông
tin về điều kiện áp dụng, quy trình ứng dụng,

cơ quan thực hiện, các qui định liên quan là
rất cần thiết. Các thông tin này nên được hệ
thống hóa thành một danh mục ưu đãi thuế
mà bất cứ chủ thể nào cũng có thể truy cập
và tìm hiểu một cách dễ dàng trên website
chính thức của Cục Đầu tư nước ngoài.
Bước tiếp theo là thực hiện rà soát, củng
cố mọi điều khoản ưu đãi trong Luật Thuế
TNDN, xác định rõ ràng mục tiêu và các
tiêu chí được hưởng ưu đãi để tránh các tình
huống hiểu nhầm, lúng túng hoặc áp dụng
tùy tiện. Về dài hạn, tiến hành áp dụng một

hệ thống phê duyệt ưu đãi tự động.
Thứ hai, do quá trình áp dụng các ưu đãi
thuế có thể gây ra những tổn thất cho ngân
sách công, cơ quan quản lý thuế và xúc
tiến đầu tư nên duy trì các biện pháp theo
dõi và giám sát phù hợp. Ví dụ một hệ
thống theo dõi, đo lường và so sánh giữa
lợi ích và chi phí của các hình thức ưu đãi
thuế đang được áp dụng, từ đó đánh giá
hiệu quả thực thi của chính sách ưu đãi
thuế hiện hành.
Thứ ba, tập trung ưu đãi vào những loại
hình FDI mà các biện pháp cắt giảm chi
phí thuế tỏ ra thu hút nhất. Cụ thể, như đã
đề cập ở mục 2.2, ưu đãi thuế chỉ thực sự
hấp dẫn với loại hình FDI có động cơ tìm
kiếm hiệu quả. Vì vậy, theo quan điểm của
tác giả, Việt Nam nên chuyển từ ưu đãi dàn
trải theo diện rộng sang tập trung vào một
số lĩnh vực đầu tư cụ thể mà có khả năng
sẽ được lợi nhiều nhất từ các chính sách ưu
đãi, chẳng hạn như công nghệ thông tin và
điện tử, sản xuất máy móc, thiết bị, ô tô,
công nghệ sinh học và dược phẩm.
Thứ tư, về dài hạn, để cải thiện hiệu quả
các chính sách ưu đãi thuế, Việt Nam nên
chuyển dần sang sử dụng các hình thức ưu
đãi thuế dựa trên hiệu quả như trợ cấp thuế
và khấu trừ thuế. Tuy những hình thức ưu


Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

69


Ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp FDI:
Thực trạng tại các quốc gia đang phát triển và kiến nghị cho Việt Nam

đãi này sẽ làm phức tạp hóa quá trình thiết
kế và quản lý hệ thống thuế nhưng chúng
sẽ giúp giảm thiểu các méo mó trong ưu
đãi và cho hiệu quả thu hút cao hơn đối
với các dự án công nghệ cao và các dự án
mang tính dài hạn (WB, 2017). Rõ ràng,
những biện pháp ưu đãi thuế dựa trên hiệu
quả sẽ có tác động thu hút mạnh mẽ và
bền vững hơn đối với những dự án FDI
quy mô lớn, dài hạn trong lĩnh vực sản
xuất, những dự án phù hợp nhất với các
mục tiêu chính sách chính mà Việt Nam
đang theo đuổi như tạo công ăn việc làm
và thúc đẩy chuyển giao công nghệ,

doanh nghiệp, không phân biệt khối nội
hay khối ngoại.

Thứ năm, các cơ quan xúc tiến đầu tư
nên nhận thức rõ ràng rằng chính sách ưu
đãi thuế chỉ là một công cụ chính sách
khá hạn chế và chỉ có thể hiệu quả trong

những điều kiện cụ thể. Về dài hạn, mục
tiêu thu hút FDI không thể đạt được chỉ
bằng con đường cạnh tranh ưu đãi mà phải
bằng việc cải thiện môi trường đầu tư nói
chung, tạo lập những lợi thế so sánh đặc
thù, các tài sản chiến lược, đề xuất giá trị
dành cho nhà đầu tư, từ đó thiết lập sân
chơi bình đẳng và thuận lợi cho tất cả các

5. Kết luận

Trên đây là một số kiến nghị với mục tiêu
cải cách cơ chế ưu đãi thuế tại Việt Nam.
Tuy nhiên việc sử dụng ưu đãi thuế không
chỉ là một vấn đề của một quốc gia mà
hiện nay còn là một xu thế mang tính toàn
cầu. Vì vậy để giải quyết tận gốc những
bất cập phát sinh từ xu thế này thì trong
dài hạn, Việt Nam cũng như các quốc gia
cần phải tăng cường các liên kết quốc tế,
thiết lập những giải pháp dài hạn mang
tính khu vực và toàn cầu.

Ưu đãi thuế TNDN có thể trở thành một
công cụ hiệu quả trong việc thu hút FDI,
tuy nhiên các quốc gia đang phát triển cần
phải cân nhắc thận trọng giữa chi phí và
lợi ích của công cụ chính sách này. Hiện
nay các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, vẫn chủ yếu áp dụng ưu đãi

thuế trên diện rộng, thiếu chọn lọc và dựa
nhiều vào các hình thức ưu đãi thế hệ cũ
(kỳ miễn thuế, ưu đãi thuế suất). Bên cạnh

Tài liệu tham khảo

xem tiếp trang 71

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư&Ngân hàng Thế giới (2018),Dự thảo Chiến lược và Định hướng Chiến lược Thu hút FDI
thế hệ mới, giai đoạn 2018-2030, Hà Nội.
2. IMF (2015), Options for Low Income Countries’s Effective and Efficient Use of Tax Incentives for
Investment,Washington, D.C.
3. Nguyen Thi Canh, Hoang Tho Phu, Cung Tran Viet, Freeman, N., & Ray, D. (2013), ‘Measuring the Effectiveness
of Corporate Income Tax Investment Incentives for Domestic Companies in Vietnam’, Journal of Emerging Issues in
Economics, Finance and Banking (JEIEFB), 1 (1).
4. OECD (2018), Investment Policy Reviews: South East Asia.
Trương Bá Tuấn & Lê Quang Thuận (2016), Báo cáo đánh giá chính sách ưu đãi thuế ở Việt Nam, Oxfam Vietnam.
5. Trương Bá Tuấn (2019), Chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị, truy cập từ
/>6. UNCTAD (2018), World Investment Report 2018: Investment and The Digital Economy, United Nations
publication.
7. Wells, L., Allen, N., Morisset, J., & Pirnia, N., (2001),’Using tax incentives to compete for foreign investment- Are
they worth the costs?’, Foreign Investment Advisory Service occasional paper; no. FIAS 15, Washington, D.C.
8. World Bank (2017), 2017/2018Global Investment Competitiveness Report: Foreign Investor Perspectives and
Policy Implications, Washington, D.C.
9. World Economic Forum (2017), The Global Competitiveness Report 2017–2018

70

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 2019



LÊ HÀ TRANG

tiếp theo trang 70

tiếp theo trang 32

hiệu quả trong thu hút FDI, chi phí ngân
sách và các chi phí khác liên quan đến ưu
đãi thuế nhìn chung còn tương đối cao. Từ
thực trạng này, bài viết đưa ra một số kiến
nghị chính sách để cải cách công cụ ưu đãi
thuế tại Việt Nam, đồng thời xác định các
cân nhắc và chiến lược liên quan để hoàn
thiện chính sách ưu đãi thuế thu hút FDI
thế hệ mới trong tương lai ■

thời, đặc biệt là những thông tin về pháp
lý của KH và nhóm KH liên quan.

tiếp theo trang 59

kiểm soát tiền kỹ thuật số như là một sự
đổi mới trong hoạt động của hệ thống tài
chính. Nhưng hiện nay, theo Thống đốc
NHTW Áo Ewald Nowotny2, Bitcoin đã
tỏ ra là đồng tiền không ổn định và dễ tổn
thương trước hoạt động đầu cơ nên khó có
thể chấp nhận như là phương tiện thanh
toán chính thức NHTW các nước trên thế

giới cũng đang đề cập nhiều phương án
phân loại, giám sát tiền ảo khi mà doanh
số giao dịch đồng tiền này hàng ngày
đã lên tới mức 3.000 tỷ USD (Ayondo,
2016).

4. Kết luận
Để nâng cao năng lực hoạt động và quản
trị rủi ro trong bối cảnh hội nhập, tiến gần
hơn với các chuẩn mực an toàn quốc tế,
và đặc biệt là để đảm bảo an toàn đối với
nguồn vốn cấp tín dụng, các NHTM Việt
Nam cần xây dựng và triển khai hiệu quả
hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng nói
chung và nhóm KH nói riêng. Trong phạm
vi nghiên cứu này, tác giả đã tổng hợp một
số tình huống rủi ro tín dụng điển hình với
nhóm KH cũng như phân tích thực trạng
công tác cảnh báo sớm rủi ro tín dụng tại
các NHTM Việt Nam, từ đó đưa ra những
bài học và khuyến nghị làm cơ sở cho các

Tóm lại, trong những năm gần đây, khu
vực tài chính đã dần làm quen với sự xuất
hiện của yếu tố công nghệ số làm thay đổi
hoạt động của khu vực tài chính. Câu hỏi
“liệu công nghệ số mang lại nhiều phát
minh, đổi mới hay thách thức cho khu vực
tài chính” cho đến nay chưa có lời đáp bởi
cần có thời gian để chứng minh. Tuy nhiên,

công nghệ số thực sự là cuộc cách mạng
trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế. ■

/>2

Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

71



×