Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.1 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tâm

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VỀ VẤN ĐỀ TƯ VẤN TÂM LÝ
TRONG DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài này, trong suốt quá trình thực hiện, người
nghiên cứu đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía các cá nhân
và tập thể. Người nghiên cứu xin gửi lời tri ơn chân thành đến Tiến sĩ Đinh
Phương Duy, thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đồng hành cùng người
nghiên cứu suốt quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây, người xin gửi lời cảm ơn Ban Giám đốc của quý công ty:
- Công ty TNHH Quảng Cáo Sao Thế Giới
- Công ty TNHH địa ốc Đất Lành
- Công ty in ấn, thiết kế, quảng cáo NewVision
- Công ty điện tử BÁCH KHOA SÀI GÒN


- Công ty TNHH xây dựng - tư vấn - thương mại Huỳnh Nguyễn Phùng
đã tạo điều kiện cho các nhân viên tham gia thực nghiệm nhằm tìm ra sự
khác biệt về nhận thức và thái độ của người lao động trước và sau khi được
tư vấn tại doanh nghiệp. Xin cảm ơn các anh, chị học viên tham gia chương
trình đào tạo 1000 chuyên viên tâm lý trong doanh nghiệp (PEB) tại công ty
Hồn Việt đã thực hiện phiếu khảo sát.
Chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Tâm
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận:
Khi đối diện với những sự vật, hiện tượng, con người luôn tìm cách
trả lời câu hỏi “đó là cái gì”. Bất kỳ một hiện tượng mới nào cũng đều
làm con người quan tâm và lý giải theo một cách thức nào đó. Khi con
người nhận thức rõ ràng về một vấn đề, về một sự kiện nào đó, con người
sẽ có thái độ phù hợp và đúng mực. Từ nhận thức và thái độ đúng đó,
con người sẽ có hành vi tương thích. Nghiên cứu nhận thức và thái độ
của một cá nhân hay của một cộng đồng về một vấn đề nào đó sẽ giúp
chủ thể nghiên cứu có cái nhìn rõ ràng hơn về đối tượng nghiên cứu.
Người công nhân trong giai đoạn mới đang được tiếp cận với nhiều
khuynh hướng tác động khác nhau, nếu nhận thức được hình thành nhanh
chóng dựa trên những yêu cầu khách quan và thái độ của người lao động
được xác lập một cách đúng đắn về các khuynh hướng mới thì người lao
động sẽ tự tin và hăng hái hơn khi đối diện với các khuynh hướng ấy. Tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp là một dạng tương tác mới có thể làm
người lao động đón nhận hoặc phản đối tùy thuộc vào nhận thức của họ

như thế nào. Nhận thức đúng về tư vấn tâm lý sẽ làm người lao động dễ
dàng hình thành thói quen tư vấn tâm lý, xem tư vấn như một dịch vụ
bình thường có thể mang lại cho họ nhiều điều bổ ích.
1.2. Về thực tiễn:
- Nhiều nghiên cứu về tư vấn tâm lý đã được thực hiện trên nhiều
mức độ và qui mô khác nhau, trong đó có công trình “Nghiên cứu thực
trạng tham vấn tâm lý tại TP. HCM” do nhóm của Thạc sĩ Đỗ Văn Bình
và tiến sĩ Trần Thị Giòng thực hiện năm 2003. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy hiện nay nhu cầu tư vấn tâm lý đã có chiều hướng tăng lên,


mỗi trung tâm tư vấn tâm lý bình thường có khoảng 360 đến 650 thân
chủ/tuần.
- Đối với mỗi cá nhân, khi xã hội phát triển, cuộc sống ở các đô thị
lớn càng trở nên sôi động, với các hình thức sinh hoạt đa dạng, trong
những “căn nhà ống” đa chức năng, với sự bùng nổ thông tin và các dịch
vụ ảo hình thành mạnh mẽ, khả năng làm việc của con người được phát
huy tối đa mà có rất ít thời gian bồi dưỡng sức lao động để tái sản xuất
thì nguy cơ bị hội chứng stress, nhiễu tâm, rối loạn tâm thần ngày càng
tăng cao. Cơn lốc của nền kinh tế thị trường “đổ bộ” vào mọi ngõ ngách,
len lỏi trong mỗi gia đình đã tạo ra những cú sốc cho các quan hệ. Riêng
mỗi gia đình, với những giá trị truyền thống bị biến đổi, đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nhân cách, nhận thức, lối sống giữa các thế hệ trong
gia đình. Xung đột nảy sinh, làm tắc nghẽn các giao lưu tình cảm ở gia
đình, tiêu biểu nhất là xung đột vợ - chồng, xung đột cha mẹ - con cái,
làm nảy sinh nhiều vấn đề về mặt tâm lý, xã hội mà quan trọng nhất là
vấn đề hình thành nhân cách con người.
- Đối với các doanh nghiệp, từ khi Nhà nước mở cửa, thu hút đầu tư
nước ngoài, Luật Doanh nghiệp ra đời làm cho nền kinh tế thị trường
phát triển, kéo theo sự phát triển vũ bão của các doanh nghiệp: từ doanh

nghiệp nhà nước, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn và cả
các công ty nước ngoài. Cả nước hiện có hơn 208.000 doanh nghiệp, là
một bức tranh sinh động về sức bật kinh tế của Việt Nam. Nước ta đang
trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Quá trình
chuyển đổi đó đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển
mạnh mẽ, đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế


thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó, gây nên những khó khăn,
thách thức lớn cho sự phát triển xã hội. Cơ chế thị trường dẫn đến sự
phân hoá xã hội, đặc biệt về mặt thu nhập, tạo ra sự chênh lệch giữa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội, thất nghiệp ngày càng gia tăng, sự du nhập các
luồng văn hóa không lành mạnh làm thay đổi không ít những quan niệm,
chuẩn mực trong xã hội và làm lung lay các giá trị đạo đức, truyền thống
tốt đẹp,… Tất cả đều góp phần tạo nên mâu thuẫn, xung đột và tác động
tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Vì vậy, tư vấn
là một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội và con người Việt
Nam, với những thói quen sống, đặc điểm tâm lý của một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, đã xây dựng một mối quan hệ hạn hẹp, co cụm sau
lũy tre làng, nền kinh tế bao cấp trì trệ và nặng hành chánh, bệnh thành
tích,… cùng biết bao những lề thói trong hành xử, trong văn hóa, phong
cách sống và cả những kỹ năng làm việc…
Sự khác biệt giữa môi trường làm việc đầy năng động, sáng tạo, luôn
biến ảo và thay đổi với một bên là sự trì trệ, bảo thủ và cục bộ về cơ cấu
tổ chức, thói quen làm việc, đặc tính tâm lý… đã làm cho mỗi cá nhân
trong tổ chức doanh nghiệp phải đối đầu với một thực tế như là “cú sốc
tương lai”.

Người ta chưa quen làm việc dưới áp lực cao, làm việc theo nhóm,
theo dự án, chưa quen làm việc theo những nguyên tắc dây chuyền,
chuyên môn hóa cao. Vì vậy, con người nhanh chóng mệt mỏi, căng
thẳng, vi phạm những nguyên tắc an toàn lao động, tác phong làm việc
không chuyên nghiệp, ứng xử không phù hợp, không có kỹ năng. Con
người cảm thấy bị stress, và như thế, hàng loạt những vấn đề mâu thuẫn
trong đội ngũ nhân sự ở các doanh nghiệp đã xảy ra. Đó là một vấn đề


gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp, cho sự phát triển và hội nhập của
doanh nghiệp Việt Nam với thế giới.
Qua nghiên cứu thực trạng về nhu cầu tư vấn tâm lý và chăm sóc đời
sống tinh thần cho người lao động do Hội Tâm lý Thành phố phối hợp
với Công ty Hồn Việt thực hiện tháng 3-2006, khảo sát trên 531 người
lao động và 28 nhà doanh nghiệp cho thấy:
+ Trong 531 người lao động có 253 người (chiếm 48%) cho rằng vai
trò của nhà tâm lý trong doanh nghiệp là rất cần thiết và 234 người
(chiếm 44%) cho là cần thiết.
+ Trong 28 nhà doanh nghiệp có 9 người (chiếm 32%) cho là rất cần
thiết và 16 người (chiếm 57%) cho là cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nóng bỏng trước thực tế trên, muốn tìm
hiểu người lao động hiện nay có suy nghĩ như thế nào về dịch vụ tư vấn,
họ có sẵn sàng đón nhận dịch vụ tư vấn chưa, người nghiên cứu chọn
hướng nghiên cứu với đề tài: “Nhận thức và thái độ của người lao động
về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp”
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có cơ sở để hình thành các quyết
định, các phương pháp chăm sóc tinh thần cho người lao động.
- Thực hiện áp dụng mở rộng các hình thức tư vấn tâm lý cho người
lao động ở các doanh nghiệp.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận nhận thức, thái độ của người lao
động trên những mức độ nhất định.
- Làm rõ khái niệm tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.


- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và hình thành
thái độ tích cực để người lao động ủng hộ việc thực hiện tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp, các biện pháp phát triển tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu:

- 239 người lao động làm việc tại các doanh nghiệp (175 nghiên cứu
thực trạng, 64 thực nghiệm)
- 80 nhà quản lý các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh (20
nghiên cứu thực trạng, và 60 thực nghiệm)
4.2. Đối tượng nghiên cứu:

Nhận thức và thái độ của người lao động về nội dung, hình thức tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:

- Phương pháp tiếp cận hệ thống, logic
- Phương pháp tiếp cận lịch sử
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:


- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bằng An-ket
- Phỏng vấn
- Thử nghiệm tư vấn trong doanh nghiệp để so sánh sự khác biệt giữa
nhận thức, thái độ của người lao động trước và sau khi được thụ hưởng
dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
- Toán thống kê


6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn:

Nghiên cứu nhận thức và thái độ của người lao động về công việc tư
vấn tâm lý như một dịch vụ không chuyên tại các doanh nghiệp.
6.2. Phạm vi: Nghiên cứu trên địa bàn TP. HCM.

7. Giả thuyết nghiên cứu
7.1. Người lao động tại các doanh nghiệp có nhận thức và thái độ chưa rõ

ràng về tư vấn tâm lý, họ chỉ mới biết đơn giản, chưa hiểu rõ về dịch vụ
này.
7.2. Sau khi tổ chức dịch vụ tư vấn tâm lý ở doanh nghiệp, nhận thức và

thái độ của người lao động về dịch vụ này có thay đổi theo hướng tích
cực.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Giới thiệu cách thức tổ chức và nghiên cứu nhận thức và
thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp

- Chương 3: Thực trạng nhận thức và thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với sự biến đổi, phát triển vượt bậc của tình hình kinh tế - xã hội ở
nước ta, nhiều vấn đề xã hội cũng đã phát sinh do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong đó sự biến đổi nhanh các giá trị xã hội đã làm nhiều người không
kịp thích nghi dẫn đến những mâu thuẫn trong quan hệ gia đình, xã hội.
Những mâu thuẫn này đã ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần, tâm lý của con
người. Do đó, nhu cầu tư vấn tâm lý xuất hiện và có xu hướng phát triển ngày
càng cao. Chính vì thế, các trung tâm tư vấn được hình thành ngày càng
nhiều. Tại TP. HCM, có nhiều nghiên cứu, khảo sát về thực trạng tư vấn tâm
lý, như:
- Nghiên cứu thực trạng tham vấn tâm lý tại TP. HCM do nhóm
nghiên cứu của tiến sĩ Trần Thị Giồng và Thạc sĩ Đỗ Văn Bình thực
hiện năm 2003. Từ kết quả nghiên cứu, nhằm nâng cao hiệu quả
tham vấn tâm lý, nhóm nghiên cứu đã khuyến nghị cần phải có kế
hoạch đầu tư đào tạo chuyên viên tham vấn tâm lý dài hạn ở nước
ngoài, khuyến khích các trường đại học mở ngành tham vấn tâm
lý,… Bên cạnh đó, cần phải xây dựng quy chế và xét duyệt việc cho
phép mở các cơ sở tham vấn tâm lý và quy định cơ chế kiểm tra,
giám sát, hỗ trợ từ phía cơ quan chuyên môn.
- Khảo sát nhu cầu tư vấn tâm lý và giáo dục từ góc nhìn của sinh
viên CĐSP Tp. Hồ Chí Minh của Thạc sĩ Nguyễn Việt Bắc. Nội
dung khảo sát tập trung vào những vấn đề mà sinh viên trường
CĐSP Tp. Hồ Chí Minh mong muốn được tư vấn cũng như hình

thức tư vấn nào là sinh viên cảm thấy thích hợp nhất.


- Nghiên cứu nhu cầu tư vấn về tình yêu hôn nhân và những vấn đề
liên quan của Tiến sĩ Đặng Văn Huệ thông qua việc xem xét các câu
hỏi của những người có nhu cầu tư vấn và trả lời của tư vấn viên.
Kết quả nghiên cứu cho thấy người có nhu cầu tư vấn thường thuộc
lứa tuổi trẻ và đa phần là phụ nữ. Đặc biệt, vấn đề cần tư vấn đa
phần thuộc lĩnh vực tình yêu hoặc mối quan hệ giữa hai người khác
phái. Từ kết quả nghiên cứu trên, người nghiên cứu kiến nghị xây
dựng mạng lưới tư vấn tâm lý một cách chủ động và khoa học ở
từng địa phương nhằm khắc phục sự tự phát như hiện tại.
- Nghiên cứu nhu cầu tư vấn tâm lý - giới tính của học sinh một số
trường trung học tại TP. HCM do Tiến sĩ Ngô Đình Qua - NNC
Nguyễn Thượng Chí tiến hành khảo sát trên học sinh lớp 8, lớp 9
trường THCS Nguyễn Gia Thiều và học sinh phổ thông trường
THPT Nguyễn Thượng Hiền. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhu cầu
tư vấn tâm lý - giới tính tăng theo bậc học và các em học sinh rất
mong muốn có được phòng tư vấn tâm lý - giới tính miễn phí.
Riêng lĩnh vực tư vấn và nghiên cứu tâm lý của người lao động trong các
doanh nghiệp, có rất nhiều khảo sát, nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này,
cụ thể:
- Nghiên cứu thực trạng về nhu cầu tư vấn tâm lý và chăm sóc đời
sống tinh thần cho người lao động do Hội Tâm lý Thành phố phối
hợp với Công ty Hồn Việt thực hiện tháng 3-2006, khảo sát trên 531
người lao động và 28 nhà doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy nhu cầu tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là rất cần thiết.
- Nghiên cứu tâm lý người lao động trong quá trình lao động trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh và lân cận. Ý nghĩa của bảo hộ lao
động về vấn đề này của sinh viên Huỳnh Thị Ngọc Hân - Khoa môi



trường và bảo hộ lao động - Trường Đại học bán công Tôn Đức
Thắng. Kết quả nghiên cứu cho thấy người lao động đang phải chịu
đựng quá nhiều áp lực, chính điều đó khiến người lao động cảm
thấy căng thẳng, từ đó dẫn đến giảm sút hiệu quả lao động, tai nạn
nghề nghiệp.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lao động và môi trường đến
sức khỏe và hiệu quả công việc của giáo viên phổ thông của sinh
viên Trần Thị Nguyệt Sương - Khoa môi trường và bảo hộ lao động
- Trường đại học bán công Tôn Đức Thắng. Kết quả cho thấy chính
vì sự bất hợp lý trong cơ chế quản lý và sự thiếu quan tâm đến điều
kiện, môi trường làm việc của giáo viên khiến chất lượng dạy học và
giáo dục ngày càng sút giảm.
Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học và một số luận văn thạc sĩ có đề cập
đến công tác tư vấn nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về dịch vụ tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
1.2. Những khái niệm liên quan
1.2.1. Nhận thức
1.2.1.1. Định nghĩa
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhận thức, trong chương
trình tâm lý học đại cương của nhiều tác giả, khái niệm nhận thức đã
được đề cập rất cụ thể với nhiều phương diện khác nhau. Theo từ điển
Tiếng việt – 1999 thì Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và
tái hiện hiện thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết, hiểu
biết thế giới khách quan hoặc kết quả của quá trình đó. Nâng cao nhận
thức. Có nhận thức đúng và cũng có những nhận thức sai lầm. Nhận
thức có nghĩa là nhận ra và biết được, hiểu được. Nhận thức được vấn
đề tức là biết được vấn đề đó là gì và hiểu được nó như thế nào, nguồn



gốc của vấn đề ra sao… Có tác giả cho rằng “Nhận thức (congnition) là
hoạt động tâm lý nhằm mục đích biết được một sự vật hay một hiện
tượng nào đó là gì, là như thế nào bằng các giác quan (để có những cảm
giác và tri giác hoặc tư duy tưởng tượng)”. (Giáo trình tâm lý học đại
cương - PGS.TS Trần Tuấn Lộ - ĐHVH 2003)
Tác giả Stephen Worchel - Wayne Shebilsue trong tác phẩm Tâm
lý học - Nguyên lý và ứng dụng thì cho rằng : “Nhận thức là quá trình
diễn dịch thông tin mà chúng ta thu nhận được từ môi trường thông qua
quá trình cảm giác. Quá trình cảm giác và nhận thức đan xen lẫn nhau”.
[trang 129]. Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả xem cảm giác là một
giai đoạn sơ lược và khái niệm nhận thức chỉ mức độ hiểu biết rõ ràng
hơn về sự vật, hiện tượng.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng “ Nhận thức là một hoạt
động chủ thể hướng vào đối tượng nhằm mục đích biết và hiểu đối
tượng cũng như biết và hiểu chính mình,” … (tự nhận thức). Nhận thức
là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức,
tình cảm và hành động) nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có
quan hệ chặt chẽ với nhau và với các hiện tượng tâm lý khác. Nhận
thức (perception) tức là tiến trình chọn lọc, diễn dịch, phân tích và hợp
nhất các kích thích gây ra phản ứng ở các giác quan của chúng ta.
Theo Roberts Feldman: Nhận thức là tiến trình nhờ đó cảm giác
được phân tích, diễn dịch và hợp nhất với các thông tin cảm giác khác.
Ngày nay, đa số cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận và
tiến gần đến chân lý nhưng không ngừng ở mức độ nào, vì còn nhiều
điều mà chúng ta chưa hiểu hết được, phải dần loại bỏ cái sai, không
khớp với hiện thực và liên tục đi từ bước này sang bước khác để hoàn
thiện hơn.



Có thể nói nhận thức là hoạt động tích cực của chủ thể phản ánh
hiện thực khách quan để thích ứng với nó hoặc cải tạo nó. Hoạt động
nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ thuộc tính bề ngoài: cảm tính, trực
quan, riêng lẽ đến đối tượng trọn vẹn, ổn định, có ý nghĩa trong các
quan hệ của nó, sau đến các thuộc tính bên trong, có tính quy luật ngày
càng đi sâu vào bản chất của cả một lớp đối tượng, hiện tượng... và cuối
cùng từ đó trở về thực tiễn, thông qua các quá trình tâm lí như cảm
giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ. Ở những giai đoạn
phát triển nhất định thì học tập là hoạt động nhận thức chủ yếu.
1.2.1.2. Các giai đoạn của quá trình nhận thức:
Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con người phải nhận
thức và thể hiện thái độ của mình với những sự vật hiện tượng xung
quanh mình. Trong quá trình hoạt động của con người phải nhận thức
cái bên ngoài và cái bên trong, cái cụ thể, khái quát, quy luật, … của sự
vật hiện tượng. Như vậy, nhận thức là một hoạt động tâm lý hết sức
phức tạp, đa dạng và được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Người
ta chia nhiều hoạt động nhận thức thành hai giai đoạn: Nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình
(cảm giác và tri giác), nhận thức lý tính bao gồm (tư duy và tưởng
tượng). Hai quá trình này phân tích, đánh giá, so sánh, … những gì đã
nhận được trong quá trình cảm giác, tri giác và đang được lưu giữ trong
trí nhớ nhằm mục đích tìm ra những thuộc tính bên trong của sự vật
hiện tượng thông qua những tính chất bên ngoài.
- Nhận thức cảm tính: là giai đoạn thấp nhất của hoạt động nhận
thức, nó tương đối đơn giản, mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý
thức. Ơ mức độ nhận thức cảm tính chúng ta chỉ biết được những thuộc
tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng ta trực tiếp tác động vào


các cơ quan cảm giác của chúng ta. Mỗi quá trình nhận thức giúp con

người nhận thức được một mặt, một khía cạnh của thế giới khách quan.
+ Cảm giác giúp con người nhận biết được từng thuộc tính riêng
lẻ và bề ngoài của sự vật. Tri giác đem lại cho con người những tư
liệu, kiến thức đầu tiên về sự vật hiện tượng khách quan, những tính
chất bề ngoài khác nhau của chúng và tạo ra một hình ảnh về sự vật
hiện tượng đó.
Là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, cảm giác có vai trò
quan trọng trong hoạt động nhận thức nói riêng và trong toàn bộ đời
sống con người nói chung. Cảm giác là mối quan hệ trực tiếp giữa
cơ thể với môi trường xung quanh. Do có mối quan hệ đó mà con
người có khả năng thích nghi và định hướng với môi trường. Cảm
giác giúp chúng ta thu nhận tư liệu trực quan sinh động, cung cấp tài
liệu cho các hoạt động tâm lý cao hơn.
- Nhận thức lý tính: là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý
thức, đem lại cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát và thực
tại khách quan. Là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bên
trong, bản chất của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Tư duy là một quá trình nhận thức xuất phát từ hoàn cảnh có vấn
đề và diễn ra theo nhiều giai đoạn khác nhau, nhằm làm biến đổi những
dữ liệu để tìm ra những thuộc tính bên trong của sự vật hiện tượng. Tư
duy là quá trình nhận thức ở mức độ cao, nhờ nó con người mới phản
ánh được những cái mà nhận thức cảm giác không thể phản ánh được.
Quá trình tư duy được chia thành 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Nhận thức vấn đề: Thấy vấn đề trong một tình
huống (trong đầu lập tức xuất hiện những câu hỏi).


+ Giai đoạn 2: Xuất hiện các hiện tượng: Từ bé đến giờ trải qua
những hiện tượng gì (ví dụ có thấy người giật dây chuyền) thấy có
người đi theo mình liên tưởng đến chuyện giật dây chuyền hoặc theo

mình vì mình đẹp,…
+ Giai đoạn 3: Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết: Tư
duy xong phải loại bỏ chọn một cái để làm giả thuyết. Sàng lọc liên
tưởng rồi đề xuất một giả thuyết, giả thuyết có thể đúng có thể sai,
phải vận dụng những kinh nghiệm và lý luận, những gì đã biết để
hình thành giả thuyết.
+ Giai đoạn 4: Kiểm tra giả thuyết: Làm những việc để kiểm tra
xem giả thuyết đó là đúng hay sai.
Nhận thức vấn đề

Xuất hiện các hiện
tượng
Sàng lọc liên tưởng và
hình thành giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

Khẳng định
Chính xác hóa

Giả thuyết
vấn đề

Phủ định

Hành động
tư duy mới


1.2.1.3. Các cấp độ nhận thức:

Theo quan điểm của Bloom, nhận thức được phân loại thành 6 cấp
độ từ thấp đến cao: Biết (knowledge), Thông hiều (Hiểu comprehension), Áp dụng (vận dụng -application), phân tích (analysis),
tổng hợp (synthesis) và đánh giá (evaluation). Tuy nhiên do điều kiện
và có những hạn chế nhất định, người nghiên cứu chỉ tập trung vào 3
mức độ đầu tiên : Biết, Hiểu và Vận dụng
- Biết (Knowledge): là khả năng ghi nhớ và nhận lại các thông tin
đã được thu nhận. Biết là mức độ nhận thức ở mức độ chỉ cần con
người vận dụng trí nhớ mà chưa cần phải giải thích điều gì.
- Hiểu (Comprehension): bao gồm cả biết nhưng ở mức độ cao
hơn là khả năng hiểu, diễn dịch, diễn giải, giải thích hoặc suy diễn (dự
đoán được kết quả và ảnh hưởng). Mức độ hiểu đòi hỏi chủ thể phải
biết được ý nghĩa của tri thức, biết liên hệ với những điều đã có trong
kinh nghiệm của họ. Hiểu là mức độ chủ thể nhận được thông tin nào
đó thì có thể biến đổi thông tin đó sang một hình thức khác tương
đương có ý nghĩa nhiều hơn với chính mình, có thể mở rộng sự hiểu
biết vượt ra ngoài những gì được cung cấp trong thông tin đó. Có ba
cách thể hiện mức độ hiểu:
Chuyển dịch, là cách thức truyền đạt lại thông tin thu nhận được
bằng một hình thức khác, thuật ngữ khác
Giải thích, là cách thức sắp xếp lại thông tin theo một dạng mới,
suy nghĩ về mối liên hệ giữa các vấn đề trong thông tin. Sự giải
thích thường được thể hiện qua cách suy diễn khái quát hóa hay tóm
tắt lại


Ngoại suy: là cách đánh giá, dự đoán dựa trên sự hiểu biết về
những gì có liên qua đến thông tin bao gồm cả việc suy diễn ẩn dụ,
các hệ quả…
- Vận dụng (Application): là mức độ phải dựa trên sự thông hiểu
nhưng ở mức cao hơn. Đó là khả năng chủ thể căn cứ vào hoàn cảnh,

điều kiện cụ thể để lựa chọn, sử dụng các tri thức đã biết để giải quyết
một vấn đề nào đó. Vận dụng là khả năng sử dụng thông tin và kiến
thức từ một sự việc này sang sự việc khác (sử dụng những hiểu biết
trong hoàn cảnh mới)
1.2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức:
- Bẩm sinh di truyền: những đặc điểm cấu tạo cơ thể như hệ thần
kinh, giác quan, cấu tạo của võ não,… ảnh hưởng đến khả năng nhận
thức của con người biểu hiện cụ thể ở khả năng nhận thức nhanh hay
chậm.
- Môi trường sống: mỗi một con người đều sống trong một môi
trường tự nhiên và môi trường tâm lý nhất định. Điều đó ảnh hưởng
đến việc hình thành hệ thống định hướng giá trị ở mỗi cá nhân. Chính
định hướng giá trị đó khiến các cá nhân sống trong những môi trường
khác nhau có hiểu, nhìn nhận, đánh giá khác nhau.
- Giới tính: ngay từ khi đứa trẻ chưa ý thức được giới tính của
mình, thông qua cách cư xử, cách dạy dỗ của người lớn, vấn đề “bản
sắc giới” đã tác động nhiều đến nhận thức của trẻ nói riêng và cuộc
sống trẻ nói chung. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện về mặt
nhân cách, vấn đề “bản sắc giới” đã tạo nên những khác biệt về suy
nghĩ, đánh giá của nam và nữ trong nhiều vấn đề.
- Lứa tuổi: tương ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi khác nhau nhận
thức của con người cũng có nhiều điểm khác nhau. Chính sự khác biệt


đó tạo nên “khoảng cách giữa khác thế hệ”. Những kinh nghiệm sống
trước đó của người lớn tuổi ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ về một vấn
đề trong cuộc sống. Trong khi đó, những người trẻ tuổi hơn lại nhìn
nhận vấn đề đó theo một chiều hướng khác thậm chí trái ngược.
1.2.2. Thái độ
1.2.2.1. Định nghĩa

Hiện nay có rất nhiều quan điểm về thái độ, người nghiên cứu chỉ
xin đưa ra một số quan điểm tiêu biểu về thái độ.
- Trong từ điển tiếng việt - 1999, thái độ là tổng thể nói chung
những biểu hiện ra bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động)
của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào đó. Thái độ hống
hách. Có thái độ niềm nở. Tỏ thái độ không bằng lòng. Giữ thái độ im
lặng.
- Thái độ là cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một
hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. Xây dựng thái độ lao
động mới. Thái độ học tập đúng đắn. Thái độ hoài nghi, thiếu tin tưởng,
xác định thái độ.
- Từ điển Tiếng Việt - 2000: Thái độ là cử chỉ, cách thức tỏ ra đối
với việc gì.
- Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá
nhân để phản ứng với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái
độ vốn có xu hướng rõ rệt hình thành quy luật nhất quán phương thức
xử thế của mỗi cá nhân.
- Lê - Nin định nghĩa thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm
phản ánh quan hệ của cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định
bởi thế giới quan của cá nhân cho nên cũng phản ánh tồn tại xã hội,
chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận và


tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được biểu lộ
một cách rõ ràng hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hoá
thành hành động.
- Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện – 1991
+ Trước một số đối tượng nhất định, như hàng hoá nào đó, hoặc một
ý tưởng nào đó (chính trị, tôn giáo, triết lý, …), nhiều người có
những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình

hay chống đối, như đã sẵn sàng có những cơ cấu tâm lý tạo ra định
hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về các
đối tượng, cũng như tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ
gắn liền với tưởng tượng thế.
+ Thái độ liên quan với động cơ và các dục vọng bản năng, nhưng
khác với dục vọng, là khi đã tỏ thái độ rồi, vị tất nó đã dịu đi, như
khi thoả mãn dục vọng (ghét ai, có xỉ vả rồi nhiều khi vẫn giữ thái
độ như trước). Thái độ thay đổi trong quá trình hoạt động.
1.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thái độ
- Sự hình thành thái độ:
Con người khi sinh ra không có sẵn những thái độ minh bạch đối
với bất kỳ cá nhân hay sự vật hiện tượng nào. Nhưng nếu chúng ta đã
từng nhìn thấy một nụ cười của em bé dành cho cha mẹ chúng thì
chúng ta sẽ thấy rằng ít ra một số thái độ hình thành khá nhanh chóng.
Thái độ được hình thành bởi các thông tin:
Tất cả các thông tin trên báo, tạp chí, truyền hình, radio, trong
đời sống hàng ngày, … có những hình ảnh đáng kể đến việc hình
thành thái độ của con người, bất cứ thông tin nào tác động vào
chúng ta thì chúng ta cũng có những thái độ đối với những thông
tin đó. Hệ thống thông tin được các chủ thể tiếp cận dưới nhiều


góc độ khác nhau, thông tin làm chủ thể nhận rõ thêm bản chất của
vấn đề và sau đó chủ thể sẽ dễ dàng bày tỏ thái độ một cách rõ
ràng.
- Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu:
Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có
lợi, và hình thành thái độ tiêu cực với khách thể có hại trong tiến
trình thoả mãn nhu cầu của mình. Quá trình thỏa mãn nhu cầu là
quá trình chủ thể nổ lực bản thân, tìm kiếm các phương pháp phù

hợp để thỏa mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ
thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể.
Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm:
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ
của một người thường phản ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của
nhóm mà họ là thành viên. Thái độ của các nhóm khác nhau là
do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn,
nhóm hoạt náo viên khác nhóm thổi kèn đám ma.
Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình
thành thái độ của các thành viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó
không chỉ xác định hành vi nào là đúng hành vi nào là sai, hành
vi nào là tốt và hành vi nào là xấu mà còn xác định xem thái độ
nào là đúng và thái độ nào là sai. Thông qua việc thưởng – phạt
và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân theo. Các nhóm thường
đưa ra quy chế thưởng – phạt, để làm động cơ cho các thành
viên, ai có thái độ và hành vi tốt, đúng thì sẽ được thưởng hoặc
vật chất hoặc tinh thần, còn ai có hành vi thái độ không đúng thì
sẽ bị phạt. Thưởng - phạt tuỳ theo mức độ đề ra của các nhóm.
Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của nhóm, nhất là các


nhóm như: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, … có vai trò quan
trọng trong việc hình thành ý thức cá nhân. Tuy nhiên cá nhân
tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn, không
tiếp nhận một cách bị động và tiếp nhận dựa vào nhu cầu của
mình. Mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong
nhóm là khác nhau.
Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống:
Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ.
Người có nhiều kinh nghiệm sẽ có thái độ khác với người ít kinh

nghiệm, mặc dù họ gặp cùng một vấn đề giống nhau.
Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ:
Cá nhân có xu hướng tiếp nhận các thái độ phù hợp với nhân
cách của mình, nhưng nhân cách của con người thì chưa hẳn là
một hệ thống hoàn toàn thống nhất. Chính vì thế chúng ta có thể
tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau, bởi sự giáo dục khác nhau.
1.2.3. Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ:
Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan cơ bản nhất
của xã hội và mang tính chủ thể sâu sắc. Mặc dù là thế nhưng hai quá trình
này vẫn có những nét riêng của nó như là: nhận thức thì phản ánh những
thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới. Còn thái độ thì thể
hiện mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con
người.
Nhận thức và thái độ có mối quan hệ rất gắn bó với nhau, hai quá
trình tâm lý cơ bản này tạo nên cấu trúc của hiện tượng ý thức.
- Thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm mà nhận thức và
tình cảm lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức là cơ sở của tình
cảm, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi


chân lý. Tình cảm là thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với sự
vật hiện tượng có liên quan đến nhu cầu của họ. Vì vậy nhận thức có mối
liên hệ với thái độ.
- Nhận thức chi phối thái độ, nhận thức là cơ sở là nền tảng để nảy
sinh thái độ. Con người phải có thông tin về đối tượng để có thái độ đúng
mức nhất với đối tượng đó. Trước một sự vật hiện tượng nào đó chúng ta
luôn luôn phải suy nghĩ để biết, hiểu nó là cái gì, nó như thế nào và nó có
ý nghĩa gì trong cuộc sống nơi mà nó đang tồn tại. Biết đối tượng là gì, nó
có quan trọng, có ý nghĩa gì đối với mình hay không để từ đó có thái độ
tích cực hay tiêu cực với đối tượng để tránh xảy ra những thái độ không

như mong muốn.
- Thái độ chịu sự chi phối của nhận thức, nhưng thái độ cũng tác động
ngược lại nhận thức. Khi chúng ta có thái độ tích cực với một vấn đề cụ
thể thì nhu cầu và hứng thú nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên.
Nhưng có nhiều khi con người lại không như vậy, nhiều lúc nhận thức
đúng nhưng không có thái độ tích cực và ngược lại, có thái độ đúng nhưng
lại bị hạn chế về mặt nhận thức
1.2.4. Người lao động:
1.2.4.1. Định nghĩa:
Theo Bộ luật lao động, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có
khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
1.2.4.2. Phân loại người lao động:
Người lao động được hiểu bao gồm:
Người lao động trực tiếp (người công nhân trực tiếp sản xuất)
Người lao động gián tiếp (người sử dụng lao động: nhà lãnh đạo,
quản lý, những người làm việc tại các phòng, ban của một đơn vị,
không trực tiếp sản xuất)


Người lao động trong doanh nghiệp là những người làm việc trong
các doanh nghiệp bao gồm những người quản lý, người làm công tác
văn phòng và công nhân trực tiếp sản xuất tại các phân xưởng
1.2.5. Tư vấn tâm lý:
1.2.5.1.Định nghĩa:
Bàn về tư vấn tâm lý, có rất nhiều khái niệm được các nhà chuyên
môn đưa ra, cụ thể:
- Theo tác giả Mai Thanh Thế – Cán bộ nghiên cứu – Viện Tâm lý
học thì Tư vấn tâm lý là một quá trình hỗ trợ và tác động của nhân
viên tư vấn tới nhận thức của đối tượng cần được tư vấn để họ có
thể vượt qua được những rào cản về tâm lý, lý trí và tình cảm, thói

quen và định kiến có được những quyết định phù hợp với yêu cầu
chuyển đổi nhận thức thái độ và hành vi, làm cho họ vững tin rằng
nhu cầu và mong muốn của họ sẽ được thỏa mãn khi họ chấp nhận
chuẩn mực mới về giá trị.
- Theo tài liệu “Một số vấn đề cơ bản của tâm lý học tư vấn” của
PGS.TS.Trần Thị Minh Đức thì Tư vấn tâm lý là một quá trình
tương tác thông qua trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình giữa nhà tư
vấn và thân chủ nhằm làm cho thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế
của mình như nó đang tồn tại một cách khách quan, tự phát hiện ra
tiềm năng của bản thân để tự giải quyết vấn đề của chính mình.
- Theo PGS. TS Trần Tuấn Lộ “Tư vấn tâm lý là tư vấn giúp thân chủ
hiểu biết tâm lý của chính bản thân thân chủ hoặc tâm lý của một
người khác, hoặc tâm lý của xã hội, và giúp thân chủ xác định được
thái độ và hành động đúng đắn và cần thiết đối với ai đó, đối với
một nhóm người nào đó, đối với xã hội hoặc đối với bản thân mình,
thậm chí giúp thân chủ biết cách rèn luyện, sửa chữa, hoàn thiện


nhân cách của mình, kể cả việc điều trị tâm bệnh của mình”[trang
86, Kỷ yếu hội nghị khoa học đào tạo cử nhân tham vấn tâm lý,
tháng 12 năm 2006]
Theo chúng tôi thì: Tư vấn tâm lý là một cuộc nói chuyện mang tính
cá nhân giữa một chuyên gia về một lĩnh vực nhất định với một
hoặc nhiều người đang cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn, thách
thức trong cuộc sống. Nhà tư vấn hỗ trợ thân chủ ra quyết định bằng
cách giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề, xem xét tất cả các khả
năng và đưa ra lựa chọn tối ưu. Trong quá trình tư vấn, thân chủ làm
chủ cuộc nói chuyện của họ, nhà tư vấn lắng nghe, phản hồi, tổng
kết và đặt câu hỏi.
Trong xã hội hiện đại với sự phát triển của kinh tế thị trường cao, xã

hội dân chủ pháp quyền, công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế, và với tốc độ
phát triển nhanh đến chóng mặt của cuộc khoa học công nghệ, sự tác động
nhiều mặt đan xen đa dạng, phức tạp của bối cảnh toàn cầu hóa, là xã hội
khác xa với xã hội cổ truyền, xã hội với nền kinh tế tiểu nông, tự cung tự
cấp, khép kín, yên tĩnh, chậm chạp. Hơn nữa khi các nước phát triển trên
thế giới đã chuyển sang nền kinh tế tri thức, các nước đang phát triển cũng
từng bước hương tới nó, thì lại xuất hiện xã hội hậu hiện đại với nhiều nét
mới vừa tạo thuận lợi vừa thách thức cách thức phát triển, nhịp độ phát
triển kinh tế xã hội và con người.
Dù rằng xã hội theo hướng hiện đại hay vừa mới vào hậu hiện đại đã
mang lại nhiều tiện ích cho con người; hàng hóa phong phú hơn đã đáp
ứng nhu cầu đa dạng của dân cư; những phương tiện khoa học công nghệ
tạo điều kiện cho không gian giao tiếp gần lại. Đó là xã hội mà đời sống
vật chất ngày càng được thỏa mãn ở mức cao, song về mặt tinh thần, tâm
linh, văn hóa của con người và cộng đồng xã hội lại có vấn đề. Ở đây, đời


sống tinh thần, tâm linh không chỉ không phát triển tương xứng với sự phát
triển của kinh tế, khoa học công nghệ mà còn rơi vào tình trạng hụt hẫng,
rối loạn, khủng hoảng từ cá nhân đến cộng đồng, từ dân tộc đến toàn cầu,
từ cục bộ đến tổng thể. Chúng ta không phủ nhận sự tiến bộ, tăng trưởng
về đời sống tinh thần, ở các nước khác nhau phát triển với mức độ này hay
mức độ khác tương đối khác nhau. Tuy nhiên sự hụt hẫng, khủng hoảng về
đời sống tinh thần và tâm linh trong đời sống hiện đại là một thực tế mà
nhiều người nhà tâm lý, nhà nghiên cứu xã hội học đã nêu lên và khẳng
định.
Nguyên nhân của sự khủng hoảng đó của xã hội công nghiệp - hiện đại
không những do tăng trưởng kinh tế nhanh, hoặc sự phát triển khoa học
công nghệ không gắn liền với việc đầu tư phát triển của an sinh xã hội
cũng như đời sống tinh thần, hoặc do rủi ro trong cuộc sống, tác động của

thiên tai mà còn do bản chất của chế độ xã hội đối kháng giai cấp, do chiến
tranh và khủng bố. Nói một cách khác, xã hội hiện đại đã đặt ra những vấn
đề về tâm lý, tư tưởng, tâm linh hết sức phức tạp như những mâu thuẫn
gay gắt cần được nghiên cứu, xem xét giải quyết với nhiều cấp độ và giải
pháp khác nhau. Những giải pháp tháo gỡ, tạo nên sự đồng thuận, hài hòa
của đời sống tinh thần, nội tâm của con người với sự phát triển kinh tế kỹ
thuật và phù hợp với nhu cầu nhân văn và bản tính hướng thiện của con
người, không chỉ là giải pháp về phương diện cải tạo hiện thực, cải tạo
nhận thức, tư tưởng mà cần ở những giải pháp xây dựng tâm lý xã hội,
những giải pháp an thần. Nhu cầu cùng nhau chia sẻ, đoàn kết, đồng thuận,
an ninh và hài hòa toàn diện giữa con người với con người và con người
với tự nhiên, con người với chính mình ngày càng bức thiết và có chiều
sâu cơ bản, bản chất của xã hội đang tiến dần lên hiện đại và nhất là hậu
hiện đại và cũng là hậu tư bản chủ nghĩa. Các nhu cầu đó lại nằm trong


×