Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích hàm lượng kim loại nặng trong một số nhóm sinh vật hồ Trúc Bạch và hồ Thanh Nhàn của thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 84 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ như y tế, du lịch, 
thương mại…  ở  nước ta đã làm cho môi trường bị  ô nhiễm nghiêm trọng, đặc  
biệt sự  hiện diện của kim loại nặng trong môi trường đất, nước đã và đang là 
vấn đề  môi trường được cộng đồng quan tâm. Sự  tích tụ  kim loại nặng sẽ   ảnh 
hưởng đến đời sống của các sinh vật thủy sinh, gây  ảnh hưởng đến sức khỏe  
của con người thông qua chuỗi thức ăn; ví dụ  nhiều loài động vật không xương 
sống sử dụng trầm tích như nguồn thức ăn, vì thế cơ thể chúng là nơi lưu giữ và  
tích tụ kim loại nặng. Sự tích tụ kim loại nặng trong sinh vật có thể đe dọa sức  
khỏe của nhiều loài sinh vật đặc biệt cá, chim và con người (Wright & Mason,  
1999) [50]. Do vậy, xác định hàm lượng kim loại nặng trong môi trường là rất  
cần   thiết   do   bởi   tính   độc,   tính   bền   vững   và   sự   tích   tụ   sinh   học   của   chúng  
(UNEP/FAO/WHO, 1996 trích trong Clark  và cộng sự, 2000) [27]. Trong những 
năm gần đây, kim loại nặng đã được nghiên cứu nhiều trong trầm tích cửa sông, 
vùng ven biển, và rừng ngập mặn tại một số quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam  
nghiên cứu về  kim loại nặng tập trung  ở  vùng đô thị, vùng đất phèn, và vùng 
nông nghiệp. 
Hà Nội là một trong những thành phố  lớn  ở  nước ta có số  lượng các hồ 
dày đặc, đây là nơi điều hòa khí hậu và là nét đẹp đặc trưng của thành phố này, 
nhưng hiện nay chất lượng nước  ở hầu hết các hồ nơi đây đang trong tình trạng  
ô nhiễm nặng do phải chứa đựng một lượng lớn nước thải từ khu dân cư, từ các 
nhà máy, xí nghiệp.
Tài nguyên nước là thành phần chủ  yếu của môi trường sống, quyết định 
sự thành công trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã  
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Hiện nay nguồn tài nguyên thiên  
nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và cạn 
kiệt. Nguy cơ  thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm họa lớn 

1



đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất. Do đó 
con người cần phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ  và sử  dụng hợp lý 
nguồn tài nguyên nước.[1], [2].
Hồ Thanh Nhàn và hồ Trúc Bạch là 2 hồ nuôi cá cung cấp thực phẩm hàng  
ngày cho người dân thành phồ Hà Nội, nhưng hiện nay 2 hồ này đang chứa đựng 
một lượng nước thải rất lớn từ các khu dân cư, nguy cơ ô nhiễm các KLN trong  
thịt cá là rất cao. 
Trên cơ sở các vấn đề vừa mới đề cập, đề tài “Phân tích hàm lượng kim loại 
nặng trong một số nhóm sinh vật hồ Trúc Bạch và hồ Thanh Nhàn của thành phố 
Hà Nội” được thực hiện với các mục tiêu sau: 
1. Phân tích hàm lượng kim loại nặng và đánh giá mức độ  ô nhiễm của kim  
loại nặng trong bùn và trong nước của hồ Thanh Nhàn và Trúc Bạch.
2. Phân tích hàm lượng một số kim loại nặng trong một số nhóm sinh vật ở 2  
hồ Trúc Bạch và Thanh Nhàn.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái niệm và tính chất của kim loại nặng.
Kim loại nặng là những kim loại có khối lượng riêng lớn hơn 5g/cm 3  và 
thông thường chỉ những kim loại hoặc các á kim liên quan đến sự ô nhiễm và độc 
hại. Tuy nhiên chúng cũng bao gồm những nguyên tố kim loại cần thiết cho một  
số sinh vật ở nồng độ thấp (Adriano, 2001) [18]. Kim loại nặng được được chia 
làm 3 loại: các kim loại độc (Hg, Cr, Pb, Zn, Cu, Ni, Cd, As, Co, Sn,…), nh ững  
kim loại quý (Pd, Pt, Au, Ag, Ru,…), các kim loại phóng xạ  (U, Th, Ra, Am,…).  
Khối lượng riêng của những kim loại này thông thường lớn hơn 5g/cm3 (Bishop, 
2002) [22]. 
Kim loại nặng không bị  phân hủy sinh học (Tam & Wong, 1995) [43], 

không độc khi  ở  dạng nguyên tố  tự  do nhưng nguy hiểm đối với sinh vật sống  
khi  ở  dạng cation do khả  năng gắn kết với các chuỗi cacbon ngắn dẫn đến sự 
tích tụ trong cơ thể sinh vật sau nhiều năm (Shahidul & Tanaka, 2004) [42].
Đối với con người, có khoảng 12 nguyên tố  kim loại nặng gây độc như 
chì, thủy ngân, nhôm, arsenic, cadmium, nickel… Một số kim loại nặng được tìm  
thấy trong cơ thể và thiết yếu cho sức khỏe con người, chẳng hạn như sắt, kẽm,  
magnesium, cobalt, manganese, molybdenum và đồng mặc dù với lượng rất ít 
nhưng nó hiện diện trong quá trình chuyển hóa. Tuy nhiên,  ở  mức thừa của các 
nguyên tố  thiết yếu có thể  nguy hại đến đời sống của sinh vật (Foulkes, 2000)  
[35]. Các nguyên tố kim loại còn lại là các nguyên tố không thiết yếu và có thể 
gây độc tính cao khi hiện diện trong cơ thể, tuy nhiên tính độc chỉ  thể  hiện khi 
chúng đi vào chuỗi thức ăn. Các nguyên tố  này bao gồm thủy ngân, nickel, chì, 
arsenic, cadmium, nhôm, platinum và đồng ở dạng ion kim loại. Chúng đi vào cơ 
thể qua các con đường hấp thụ  của cơ thể như hô hấp, tiêu hóa và qua da. Nếu  

3


kim loại nặng đi vào cơ  thể  và tích lũy bên trong tế  bào lớn hơn sự  phân giải 
chúng thì chúng sẽ tăng dần và sự ngộ độc sẽ xuất hiện (Foulkes, 2000) [35]. Do 
vậy người ta bị ngộ độc không những với hàm lượng cao của kim loại nặng mà 
cả  khi với hàm lượng thấp và thời gian kéo dài sẽ  đạt đến hàm lượng gây độc.  
Tính độc hại của các kim loại nặng được thể hiện qua: 
­ Một số  kim loại nặng có thể  bị  chuyển từ  độc thấp sang dạng độc cao hơn  
trong một vài điều kiện môi trường, ví dụ thủy ngân. 
­ Sự tích tụ và khuếch đại sinh học của các kim loại này qua chuỗi thức ăn có thể 
làm tổn hại các hoạt động sinh lý bình thường và sau cùng gây nguy hiểm cho  
sức khỏe của con người. 
­ Tính độc của các nguyên tố này có thể  ở một nồng độ  rất thấp khoảng 0.1­10 
mg/l (Alkorta và cộng sự, 2004) [18].

1.1.1. Asen (As) 
Asen phân bố  nhiều nơi trong môi trường, chúng được xếp thứ  20 trong  
những nguyên tố hiện diện nhiều trong lớp vỏ của trái đất, hiện diện ít hơn Cu,  
Sn   nhưng   nhiều   hơn   Hg,   Cd,   Au,   Ag,   Sb,   Se   (Bissen   &   Frimmel,   2003)[23].  
Nguồn asen khổng lồ phóng thích vào khí quyển bởi quá trình tự nhiên là sự hoạt  
động của núi lửa. Khi núi lửa hoạt động, một lượng lớn arsenic khoảng 17150  
tấn phóng thích vào khí quyển (Matschullat, 2000) [41]. Trong môi trường tự 
nhiên, asen chủ  yếu liên kết với các khoáng mỏ  sunfide. Hàm lượng arsenic tự 
nhiên trong đất nói chung biến động từ  0,1 ­ 40 mg/kg(Tamaki & Frankenberger, 
1992) [44]. Theo Murray (1994) [36] hàm lượng asen trong đất trung bình 2,2­25 
ppm. 
 Tác hại của As đối với sức khỏe con người::
Do asen là chất độc, sự thâm nhiễm lâu dài sẽ gây ra những ảnh hưởng bất  
lợi đến sức khoẻ con người. Năm  1993,  tổ  chức  Y  tế  thế  giới  đã  đề  nghị  hạ 
mức  tiêu  chuẩn  của  asen  trong  nước  uống  từ  50  μg/l  xuống  10  μg/l [46]. Năm 

4


2001  tổ  chức  Bảo  vệ  môi  trường  Mỹ  (US EPA)  cũng  đã  thực  hiện  tiêu  chuẩn 
mới  này.  Bộ  Y  tế   của  Việt  Nam  cũng  đã  đưa  ra  quyết  định  số 
1329/2002/BYT/QĐ về  giảm hàm lượng cho phép của asen trong nước uống từ 
50 μg/l  xuống còn 10 μg/l  theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới .
Độc tính của asen liên quan đến sự hấp thụ và thời gian lưu của nó trong 
cơ  thể.  Ở  hàm  lượng  nhỏ,  asen  và  các  hợp  chất  của  asen  có  tác  dụng  kích 
thích  quá  trình trao  đổi  chất  và  chữa  được  bệnh  nhưng  chúng  lại  trở  thành 
những chất độc khi ở liều  lượng  cao. Liều gây chết (LD50) đối với con người 
là 1­ 4 mg/kg trọng lượng cơ thể. 
1.1.2.  Cadmium (Cd) 
Các hợp chất của Cd

CdO có màu từ vàng đến nâu gần như đen tuỳ thuộc vào quá trình chế hoá 
nhiệt, nóng chảy  ở  1813oC, có thể  thăng hoa, không phân huỷ khi đun nóng, hơi 
độc.
CdO không tan trong nước chỉ tan trong kiềm nóng chảy:
                                       CdO + 2KOH(nóng chảy) =   K2CdO2         +   H2O
(Kali cadmiat)                      

CdO có thể  điều chế  bằng cách đốt cháy kim loại trong không khí hoặc 
nhiệt phân hiđroxit hay các muối cacbonat, nitrat:
2Cd + O2   =  2CdO
  Cd(OH)2    = CdO + H2O
Cd(OH)2  là kết tủa nhầy ít tan trong nước và có màu trắng.
Cd(OH)2  không thể  hiện rõ tính lưỡng tính, tan trong dung dịch axit, không tan 
trong dung dịch kiềm mà chỉ tan trong kiềm nóng chảy.
Tan trong dung dịch NH3 tạo thành hợp chất phức 

5


Cd(OH)2 + 4NH3  = [Cd(NH3)4](OH)2
Điều chế bằng cách cho dung dịch muối của nó tác dụng với kiềm
Các muối halogenua (trừ  florua), nitrat, sunfat, peclorat và axetat của Cd(II)  
đều dễ tan trong nước còn các muối sunfua, cacbonat, hay ortho photphat và muối  
bazơ ít tan.
Trong dung dịch nước các muối Cd2+ bị thuỷ phân:
Cd2+ + 2 H2O ↔ Cd(OH)2 + 2 H+
Tích số tan của Cd(OH)2  là T = 10­14
Cd2+  có   khả   năng   tạo   phức   [CdX4]2­  (X   =   Cl­,   Br­,   I­  và   CN­),  [Cd(NH3)4]2+, 
[Cd(NH3)6]2+,…
Cd2+ có khả  năng tạo phức [CdX4]2­ (X = Cl­, Br­, I­ và CN­),  [Cd(NH3)4]2+, 

[Cd(NH3)6]2+,…
Tác hại của Cd đối với sức khỏe con người: 
Cadmium được biết gây tổn hại đối thận và xương ở liều lượng cao. Nghiên cứu 
1021 người đàn ông và phụ  nữ  bị  nhiễm độc Cd  ở  Thụy Điển cho thấy nhiễm  
độc kim loại này có liên quan đến gia tăng nguy cơ gãy xương ở độ tuổi trên 50.  
Bệnh itai­itai là bệnh do sự ngộ độc Cd trầm trọng. Tất cả những bệnh nhân với 
bệnh này điều bị tổn hại thận, xương đau nhức trở nên giòn và dễ gãy (Nogawa 
và cộng sự, 1999) [38].
 1.1.3. Chì (Pb)
Các Hợp chất của Pb:
Chì  tạo  thành  2  oxit  đơn   giản   là   PbO,   PbO2  và   2   oxit   hỗn   hợp   là   chì 
metaplombat Pb2O3 (hay PbO.PbO2), chì orthoplombat Pb3O4 (hay 2PbO.PbO2).

6


Monooxit PbO là chất rắn, có hai dạng: PbO có màu đỏ  và PbO có mqàu 
vàng. PbO tan chút ít trong nước nên Pb có thể  tương tác với nước khi có mặt 
oxi. PbO tan trong axit và tan trong kiềm mạnh.
Đioxit PbO2  là chất rắn màu nâu đen, có tính lưỡng tính nhưng tan trong  
kiềm dễ dàng hơn trong axit. Khi đun nóng PbO2 mất dần oxi biến thành các oxit, 
trong đó chì có số oxi hoá thấp hơn:
                   290 ­ 320oC                     390 ­ 420oC                 530 ­ 550oC
       PbO2                       Pb2O3                        Pb3O4                       PbO
    (nâu đen)                   (vàng đỏ)                      (đỏ)                        (vàng)
Lợi dụng khả năng oxi hoá mạnh của PbO2 người ta chế ra acquy chì. 
Chì orthoplombat (Pb3O4) hay còn gọi là minium là hợp chất của Pb có các số oxi 
hoá +2, +4. Nó là chất bột màu đỏ da cam, được dùng chủ yếu là để sản xuất 
thuỷ tinh pha lê, men đồ sứ và đồ sắt, làm chất màu cho sơn (sơn trang trí và sơn 
bảo vệ cho kim loại không bị rỉ).

Pb(OH)2 là chất kết tủa màu trắng. Khi đun nóng, chúng dễ mất nước biến 
thành oxit PbO.
Pb(OH)2 cũng là chất lưỡng tính.
Khi tan trong axit, nó tạo thành muối của cation Pb2+:
Pb(OH)2 + 2HCl = PbCl2 + 2H2O
Khi tan trong dung dịch kiềm mạnh, nó tạo thành muối hiđroxoplombit:
Pb(OH)2 + 2KOH = K2[Pb(OH)4]
Muối hiđroxoplombit dễ tan trong nước và bị thuỷ phân mạnh nên chỉ bền 
trong dung dịch kiềm dư.
Tác hại của chì đối với sức khỏe con người: 

7


Trong cơ thể người, chì trong máu liên kết với hồng cầu, và tích tụ trong xương.  
Khả năng loại bỏ chì ra khỏi cơ thể rất chậm chủ yếu qua nước tiểu. Chu kì bán  
rã của chì trong máu khoảng một tháng, trong xương từ  20­30 năm (WHO,1995  
trích trong Lars Jarup, 2003) [32]. Các hợp chất chì hữu cơ rất bền vững độc hại 
đối với con người, có thể  dẫn đến chết người (Peter Castro & Michael, 2003)  
[39]. 
Những biểu hiện của ngộ độc chì cấp tính như nhức đầu, tính dễ  cáu, dễ 
bị  kích thích, và nhiều biểu hiện khác nhau liên quan đến hệ  thần kinh. Con  
người bị  nhiễm độc lâu dài đối với chì có thể  bị  giảm trí nhớ, giảm khả  năng  
hiểu, giảm chỉ  số  IQ, xáo trộn khả  năng tổng hợp hemoglobin có thể  dẫn đến 
bệnh thiếu máu (Lars Jarup, 2003) [32]. Chì cũng được biết là tác nhân gây ung 
thư  phổi, dạ  dày và u thần kinh đệm. Nhiễm độc chì có thể  gây tác hại đối với  
khả năng sinh sản, gây sẩy thai, làm suy thoái nòi giống (Ernest & Patricia, 2000)  
[29]. 
1.1.4.  Đồng (Cu) 
Đồng là kim loại màu quan trọng đối với công nghiệp và kĩ thuật, khoảng 

trên 50% lượng đồng khai thác hàng năm được dùng sản xuất dây dẫn điện, trên  
30% được dùng chế tạo hợp kim. Ngoài ra, do có khả năng dẫn nhiệt tốt và chịu  
ăn mòn, đồng kim loại còn được dùng chế tạo thiết bị trao đổi nhiệt, sinh hàn và  
chân không, chế  tạo nồi hơi,  ống dẫn dầu và dẫn nhiên liệu. Một số  hợp chất  
của đồng được sử dụng làm chất màu trang trí mỹ thuật, chất liệu trừ nấm mốc  
và cả thuốc trừ sâu trong nông nghiệp.
Tác hại của đồng đối với sức khoẻ của con người: 
Đồng được xem là một trong những nguyên tố cần thiết đối với sự phát triển của 
con người, tuy nhiên sự  tích tụ  đồng với hàm lượng cao có thể  gây độc cho cơ 
thể. Cumings (1948) trích trong WHO (1998) phát hiện đồng thực sự là tác nhân 
độc. 

8


Đồng là nguyên tố vi lượng cần thiết trong cơ thể người, có nhiều vai trò  
sinh lí, nó tham gia vào quá trình tạo hồng cầu, bạch cầu và là thành phần của  
nhiều enzym. Đồng tham gia tạo sắc tố  hô hấp hemoglobin. Các nghiên cứu y  
học cho thấy khi nồng độ đồng cao hơn mức cho phép một số người có dấu hiệu 
mắc   bệnh   do   đồng   lắng   đọng   trong   gan,   thận,   não   như   bệnh   về   thần   kinh 
schizophrenia. Ngược lại khi nồng độ  đồng quá thấp, cơ  thể  phát triển không  
bình thường, đặc biệt là với trẻ em. (Roberts, 1999) [40]
Mọi hợp chất của đồng đều là những chất độc, khoảng 30g CuSO 4 có khả 
năng gây chết người. Nồng độ  an toàn của đồng trong nước uống đối với con  
người dao động theo từng nguồn, khoảng 1,5   2mg/l. Lượng đồng đi vào cơ thể 
người theo đường thức ăn mỗi ngày khoảng 2   4mg/l.
1.1.5. Thủy ngân (Hg) 
Các dạng thủy ngân: 
+ Thủy ngân nguyên tố: không độc, trơ và được đào thải nhanh.
+ Thủy ngân dạng hơi: rất độc, có thể  đi theo đường hô hấp vào phổi rồi vào 

máu, vào não rồi gây độc.
+ Thủy ngân dạng muối vô cơ HgCl2, Hg2Cl2 ít tan, ít độc vì là ở dạng hợp chất  
không tan.
+ Ion thủy ngân (Hg2+): độc nhưng khó vận chuyển qua màng sinh học của tế 
bào.
Tác hại của thủy ngân đối với sức khỏe con người: 
Khi thủy ngân kết hợp với các hợp chất hữu cơ và bị  biến đổi bởi các vi 
khuẩn và vi sinh vật trong nước và trầm tích hình thành các hợp chất khác nhất là  
metyl thủy ngân rất độc, bền và tích tụ  trong chuỗi thức ăn (Peter & Michael,  
2003) [39]. Trong môi trường biển, hệ vi sinh vật có thể chuyển nhiều hợp chất  
thủy ngân vô cơ  thành metyl thủy ngân và hợp chất này dễ  dàng phóng thích từ 
trầm tích vào nước, sau đó có thể tích tụ trong các sinh vật sống (Clark và cộng  
sự, 1997) [27]. Metyl thủy ngân độc hại đối với hệ  thần kinh trung  ương và  

9


ngoại vi. Hít thở hơi thủy ngân có thể ảnh hưởng tổn hại đến hệ thần kinh, tiêu  
hóa và miễm nhiễm, phổi, thận và có thể tử vong. Các muối vô cơ của thủy ngân 
có thể phá hủy da, mắt, đường tiêu hóa, và có thể gây ra sự tổn hại thận nếu hấp 
thụ  (WHO, 1998) [49]. Thảm họa ngộ  độc metyl thủy ngân (bệnh Minamata)  
năm 1956 có hơn 2000 người bi ngộ độc trong số này có 43 người chết, hơn 700  
người với tàn tật nghiêm trọng suốt đời (Clark và cộng sự, 1997) [27]. 
1.2. Các nguồn phát sinh kim loại nặng
Kim loại nặng hiện diện trong tự  nhiên đều có trong đất và nước, hàm  
lượng của chúng thường tăng cao do tác động của con người.. Các kim loại do  
hoạt động của con người như As, Cd, Cu, Ni và Zn thải ra ước tính là nhiều hơn 
so với nguồn kim loại có trong tự  nhiên, đặc biệt đối với chì 17 lần (Kabata­
Pendias & Adriano, 1995) [31]. Nguồn kim loại nặng đi vào đất và nước do tác 
động của con người bằng các con đường chủ yếu như bón phân, bã bùn cống và  

thuốc bảo vệ  thực vật và các con đường phụ  như  khai khoáng và kỹ  nghệ  hay 
lắng đọng từ không khí.[8] 
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
­ Cadimi: Cd hiện diện khắp nơi trong lớp vỏ của trái đất với hàm lượng trung 
bình khoảng 0,1 mg/kg. Tuy nhiên hàm lượng cao hơn có thể  tìm thấy trong các 
loại đá trầm tích như đá trầm tích phosphate biển thường chứa khoảng 15 mg/kg.  
Hàng năm sông ngòi vận chuyển một lượng lớn Cd khoảng 15000 tấn đổ vào các 
đại dương (GESAMP, 1984 trích trong WHO, 1992) [48]. Hàm lượng Cd đã được 
báo cáo có thể  lên đến 5 mg/kgtrong các trầm tích sông và hồ, từ  0,03 đến 1 
mg/kgtrong các trầm tích biển (Korte, 1983 trích trong WHO, 1992) [49]. Hàm 
lượng Cadmium trung bình trong đất  ở  những vùng không có sự  hoạt động của 
núi lửa biến động từ  0,01 đến 1 mg/kg,  ở  những vùng có sự  hoạt động của núi 
lửa hàm lượng này có thể lên đến 4,5 mg/kg(Korte, 1983 trích trong WHO, 1992) 

10


[48]. Tuy nhiên theo Murray (1994) [36] hàm lượng Cd trong đất hiện diện trung  
bình 0,06 ­1,1 ppm. 
­ Đồng được tìm thấy tự  nhiên trong các khoáng như  cuprite (Cu2O), malachite 
(Cu2CO3.Cu(OH)2),  azurite  (2CuCO3.Cu(OH)2), chalcopyrite  (CuFeS2),  chalcocite 
(Cu2S), và bornite (Cu5FeS4) và trong nhiều hợp chất hữu cơ. Ion đồng (II) gắng  
kết qua ôxy đối với các tác nhân vô cơ  như  H2O, OH­, CO32­, SO42­,...đối với các 
tác nhân hữu cơ qua các nhóm như  phenolic và carboxylic (Cotton & Wilkinson,  
1989 trích trong WHO, 1998). Vì vậy hầu hết đồng trong tự nhiên phức hợp với 
các hợp chất hữu cơ (Allen & Hansen, 1996 trích trong WHO, 1998) [49]. Trong 
đá nham thạch đồng biến động từ  4­200 mg/kg, trong đá trầm tích 2­90 mg/kg 
(Cannon  và cộng sự,1978 trích trong WHO, 1998) [49]. Sự  khuếch tán đồng từ 
các nguồn tự nhiên trung bình trên khắp thế giới hàng năm từ bụi được mang từ 
gió 0,9­15 × 103  tấn, cháy rừng 0,1­7,5 × 103  tấn, hoạt động núi lửa 0,9­18 × 103 

tấn (Nriagu, 1989 trích trong WHO, 1998) [49].  Đồng hiện diện tự  nhiên trong 
lớp vỏ  trái đất với hàm lượng trung bình khoảng 60 mg/kg (Lide & Frederikse, 
1993 trích trong WHO, 1998), tuy nhiên theo (Murray, 1994) [36] trong đất biến  
động từ 6­80 ppm. 
­ Chì: Hàm lượng chì trung bình trong thạch quyển  ước khoảng 1,6x10­3 phần 
trăm trọng lượng, trong khi đó trong đất trung bình là 10­3 phần trăm và khoảng 
biến động thông thường là từ 0,2x10­3 đến 20x10­3 phần trăm. Chì hiện diện tự 
nhiên trong đất với hàm lượng trung bình 10­84 ppm (Murray, 1994) [36]. 
­ Asen: Trong tự nhiên, asen thường có mặt trong các khoáng với sắt, lưu huỳnh, 
oxi, niken, đồng, v.vv…..như trình bày trong bảng 1. 
Bảng 1.1. Các khoáng vật chứa asen trong tự nhiên [44]
Khoáng
As nguyên tố

Thành phần

Nơi xuất hiện
Các mạch thủy nhiệt 
(hydrothermal veins)

As

11


Khoáng

Thành phần

Nơi xuất hiện


NiAs

Các lớp trầm tích

AsS

Các lớp trầm tích, thường đi kèm 
với khoáng orpiment, sét, đá vôi, 
các lớp trầm tích nơi có suối nước 
nóng.

Orpiment

As2S3

Các mạch thủy nhiệt, các suối 
nước nóng, khu vực có các sản 
phẩm của quá trình thăng hoa núi 
lửa.

Cobaltite

CoAsS

Các lớp trầm tích có nhiệt cao, các 
lớp đá bị biến dạng

Arsenopyrite


FeAsS

Dạng khoáng chứa asen phổ biến 
nhất, tồn tại nhiều trong các vùng 
trầm tích chứa khoáng

Tennantite

(Cu,Fe)12As4S13

Các mạch thủy nhiệt

Enargite

Cu3AsS4

Các mạch thủy nhiệt

Niccolite

Realgar

Khoáng thứ cấp, hình thành từ quá 
trình oxi hóa arsenopyrite, asen 
nguyên tố và một số khoáng asen 
khác

Arsenolite

As2O3


Scorodite

FeAsO4.2H2O

Khoáng thứ cấp

Annabergite

(Ni,Co)3(AsO4)2.8H2O

Khoáng thứ cấp

Hoernesite

Mg3(AsO4)2.8H2O

Haematolite

(Mn,Mg)4Al(AsO4)(OH)8

Conichalcite

CaCu(AsO4)(OH)

Khoáng thứ cấp, thải luyện kim

Khoáng thứ cấp

Như  vậy, asen là nguyên   tố  hóa học có mặt khá phổ  biến trong đất đá,  

quặng khoáng, trong các trầm tích sâu dưới lòng đất.

12


­ Thủy ngân hiện diện và tồn tại trong tự  nhiên  ở  nhiều dạng khác nhau: kim  
loại, vô cơ  và hữu cơ  (metyl và etyl thủy ngân). Tất cả  những dạng này có tính 
độc khác nhau và có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Trong môi trường  
đất, dạng cation Hg2+ hiện diện là phổ biến nhất. Sự tích tụ  thủy ngân trong đất 
có khuynh hướng tương quan với hàm lượng vật chất hữu cơ. Hàm lượng thủy  
ngân trong tự  nhiên cao nhất đã được báo cáo trong đất ngập nước và đất than 
bùn.   Hàm   lượng   thủy   ngân   trong   đất   trên   thế   giới   trung   bình   0,02­0,41   ppm 
(Murray, 1994) [36]. Nồng độ thủy ngân trong nước đại dương trung bình 0,001­
0,004 μ/l  (Olafsson, 1983 trích trong Bryan & Langston, 1992) [26] và nồng độ Hg 
gia tăng gần các cửa sông chịu  ảnh hưởng từ  công nghiệp (Baker, 1977 trích  
trong Bryan & Langston, 1992). 
1.2.2. Công nghiệp
Sự  gia tăng tích lũy kim loại trong môi trường không chỉ  từ  các nguồn tự 
nhiên, mà còn từ  hoạt động công nghiệp của con người. Việc đốt cháy các nhiên 
liệu hóa thạch làm giải phóng khoảng 20 loại kim loại độc hại quan trọng vào môi 
trường bao gồm asen, beri, cađimi, chì, và niken (Goyer, 1996) [27]. Các sản phẩm 
công nghiệp và việc sử dụng các vật liệu công nghiệp có thể chứa hàm lượng cao  
các nguyên tố kim loại độc hại. Ví dụ, thủy ngân được sử dụng để sản xuất clo và  
soda trong công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, công nghiệp sản xuất pin, bóng  
đèn huỳnh quang, công tắc điện, sơn và các sản phẩm nông nghiệp, thuốc chữa 
răng, và dược phẩm. (Mailman, 1994) [41]
­ Asen: Được con người sử dụng trong ngành công nghiệp:
+ Khai thác quặng mỏ  (Cu, Ni, Pb, Zn), luyện kim đưa vào môi trường một  
lượng lớn arsenic. Khoảng 62000 tấn arsenic phóng thích vào môi trường 
hàng năm từ các hoạt động này (Bissen & Frimmel, 2003) [23]. 

+ Đốt các nhiên liệu hóa thạch từ các hộ gia đình, từ các nhà máy điện. 
+ Sử dụng thuốc diệt nấm, thuốc trừ cỏ, thuốc diệt côn trùng và công nghiệp 

13


+ Từ  khi đưa vào sử  dụng DDT năm 1947 và các loại thuốc trừ  sâu hữu cơ 
khác có chứa các hợp chất arsenic hữu cơ (Bissen & Frimmel, 2003) [23]. 
­ Cađimi: Một sản phẩm phụ của việc khai khoáng kẽm và chì, là một chất gây ô  
nhiễm  môi  trường   quan  trọng.   Nó   được   sử   dụng  rất  nhiều  trong   sơn,   thuốc  
nhuộm, ắc quy, và chất dẻo. Ngoài ra nó còn được sử  dụng trong chất chống ăn 
mòn thép, sắt, đồng, đồng thau và các hợp kim khác. Các ứng dụng chủ yếu của  
Cd trong trong công nghiệp như: lớp mạ  bảo vệ  thép, chất  ổn định trong PVC, 
chất tạo màu trong plastic và thủy tinh, và trong hợp phần của nhiều hợp kim là 
một trong những nguyên nhân phóng thích Cd vào môi trường.[7]  Hàm lượng của 
Cd   trong   phân   lân   biến   động   khác   nhau   tùy   thuộc   vào   nguồn   gốc   của   đá 
phosphate. Phân lân có nguồn gốc từ  đá phốt phát Bắc Carolina chứa Cd 0,054  
g/kg, phân lân có nguồn gốc từ  đá Sechura chứa hàm lượng Cd 0,012 g/kg, trong  
khi đó phân lân có nguồn gốc từ  đá phosphate Gafsa chứa 0,07 g/kg (Bolan   và 
cộng sự, 2003) [24]. 
­ Chì: Được sử dụng trong pin, trong bình ăcqui, trong một số dụng cụ dẫn điện.  
Một số  hợp chất chì được thêm vào trong sơn, thủy tinh, đồ  gốm như  chất tạo  
màu, chất ổn định, chất kết gắn.[7] Các sản phẩm thải từ ứng dụng của chì nếu 
không được tái chế hợp lý thải vào môi trường làm gia tăng lượng kim loại độc 
hại này trong môi trường. Ngoài ra một số  hợp chất chì hữu cơ  như  tetraetyl  
hoặc tetrametyl chì được thêm vào trong xăng đặc biệt ở những quốc gia đang 

phát triển. 
­ Thủy ngân: Nguồn do hoạt động của con người: đến từ  các nhà máy điện đốt  
than; các lò đốt rác thải; những nơi khai thác thủy ngân, vàng, đồng, kẽm, bạc;  

các hoạt động luyện kim; thải bỏ các nhiệt kế và từ đốt rác thải y tế. Riêng chất  
thải từ  các thiết bị  y tế  có thể  phóng thích chiếm khoảng 5% thủy ngân trong  
nước thải (WHO, 1998) [49]. 
1.2.3. Các sản phẩm nông nghiệp

14


Các kim loại nặng có trong các sản phẩm phân bón bao gồm cađimi, crom, 
đồng, mangan,  molipden, niken và  kẽm. Các  nguồn chính của  asen trong môi 
trường là từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các sản phẩm bảo vệ thực vật khác. 
Chì và asen bên cạnh việc sử dụng trong công nghiệp nó còn được sử dụng trong  
thuốc trừ  sâu. Thuốc diệt nấm có chứa thủy ngân cũng góp phần làm ô nhiễm  
môi trường. Cuối cùng, rất nhiều các kim loại này tích lũy trong đất nông nghiệp  
dẫn đến tạo ra sự nguy hiểm đối với thực vật và động vật. [1],[3].
1.3. Ảnh hưởng của kim loại nặng đến sinh vật
Ô nhiễm môi trường do tính độc hại của kim loại nặng gây mất cân bằng 
sinh thái làm suy giảm nhiều quần thể sinh vật đã được tìm thấy ở  nhiều quốc 
gia trên thế giới. The Severn Estuary là một trong những con sông lớn nhất ở Anh  
là nơi ở và sinh sản của nhiều loài cá. Nhiều thập kỉ qua, sông này đã phải hứng 
chịu nhiều ô nhiễm kim loại nặng như chì, cadmium và nhiều nguyên tố khác từ 
nhiều nguồn khác nhau (Owens, 1984 trích trong WHO, 1992)[48]. Những  ảnh  
hưởng của ô nhiễm này có thể  là một trong những nguyên nhân gây suy giảm 
quần thể cá. Quần thể cá ở sông Severn Estuary đã gia tăng trở lại khi mức độ ô  
nhiễm môi trường nước giảm (Potter và cộng sự, 2001)[40]. Nhiều nghiên cứu  
về   ảnh hưởng ô nhiễm kim loại trong vùng phụ  cận của nơi tinh luyện chì lớn  
nhất thế giới tại Port Pirie nước Úc đã cho thấy rằng 20 loài cá và giáp xác đã bị 
biến   mất   hoặc   giảm   số   lượng   (Ward   &   Young,   1982   trích   trong   Bryan   & 
Langston, 1992) [26]. Khi sinh vật sống trong môi trường bị  ô nhiễm, khả  năng 
tích tụ các chất ô nhiễm trong cơ thể chúng là rất cao nhất là ô nhiễm kim loại,  

gây nguy cơ cho sức khỏe của người tiêu thụ chúng thông qua chuỗi thức ăn. Ohi 
và cộng sự (1974) trích trong WHO (1985)[49] đã xác định mức độ chì trong máu, 
trong xương đùi và trong thận của chim bồ  câu được thu thập từ  những vùng 
nông thôn và những vùng đô thị   ở Nhật. Kết quả cho thấy rằng mức độ  chì cao 
nhất trong xương đùi của chim bồ  câu với giá trị  trung bình biến động từ  16,5  

15


đến 31,6 mg/kg  ở vùng đô thị. Trong khi đó giá trị  trung bình 2,0 và 3,2 mg/kg  ở 
vùng nông thôn. 
Những năm gần đây,  ảnh hưởng nghiêm trọng của As đối với sức khỏe  
con người cũng đã được báo cáo ở Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh. Ước tính có 
đến hàng triệu người có nguy cơ bị ngộ độc do ngộ độc As. Việt Nam có khoảng 
10 triệu người ở đồng bằng sông Hồng, 500 ngàn đến 1 triệu người ở ĐBSCL bị 
ngộ  độc mãn tính do uống nước giếng khoan có chứa arsen (Berg và cộng sự,  
2007) [21]. Tương tự, sự tích tụ  Cd trong gan và thận của động vật chăn thả  ăn  
cỏ  ở  Úc và New Zealand gây  ảnh hưởng đến tiêu thụ  sản phẩm thịt trong nước 
và xuất khẩu ra nước ngoài (Robert và cộng sự, 1994, McLaughlin và cộng sự, 
2000) [35]. 
1.4. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới
Ô nhiễm kim loại ở môi trường biển đã gia tăng trong những năm gần đây  
do dân số  toàn cầu gia tăng và sự  phát triển công nghiệp (Arellano và cộng sự, 
1999 trích trong Susana và cộng sự, 2005) [18]. Ô nhiễm kim loại nặng  ở nhiều  
vùng cửa sông, vùng ven biển trên thế  giới đã được biết từ  lâu bởi tính độc hại  
đe dọa đến sự  sống của sinh vật thủy sinh, gây nguy cơ  cho sức khỏe của con  
người. 
Ô nhiễm Pb và Zn là một trong những điều đáng quan tâm do  ảnh hưởng 
độc hại của chúng lên hệ sinh thái tại các cửa sông ở Úc, với hàm lượng rất cao  
1000μg/g Pb, 2000 μg/g Zn có thể tìm thấy trong các trầm tích bị ô nhiễm (Irvine  

& Birch, 1998 trích trong McFarlane & Burchett, 2002) [35]. Bryan và cộng sự 
(1985) trích trong Bryan & Langston (1992) [26] đã xác định hàm lượng chì vô cơ 
trong trầm tích cửa sông  ở  Anh biến động từ  25 μg/gtrong khu vực không bị  ô  
nhiễm đến hơn 2700 μg/gtrong cửa sông Gannel nơi nhận chất thải từ việc khai  
thác mỏ chì. Hàm lượng của các hợp chất chì này có lẽ có nguồn gốc do sử dụng 
xăng dầu pha chì. Tương tự  như  Pb, hàm lượng As cũng đã được xác định  ở 

16


nhiều vùng cửa sông, vùng ven biển trên thế giới. Hàm lượng As trong trầm tích 
cửa sông đã được xác định từ 5 μg/g ở cửa sông Axe đến lớn hơn 1000 μg/g trong  
các cửa sông Restronguet Creek, Cornwall nơi nhận nước thải từ  các khu vực 
khai thác quặng mỏ  kim loại (Langstone, 1985 trích trong Bryan & Langston,  
1992) [26]. 
Hàm lượng Cd cũng được xác định  ở  Anh tại các cửa sông không bị  ô 
nhiễm với hàm lượng 0,2 μg/kg, tại các cửa sông bị ô nhiễm nặng hàm lượng này  
có thể lên đến 10 μg/g (Bryan & Langston, 1992) [26]. Sông Deule ở Pháp là một 
trong những con sông bị  ô nhiễm rất nặng do hứng chịu chất thải từ  nhà máy 
luyện kim. Hàm lượng kim loại trong trầm tích sông này rất cao (480 mg/kg)  
(Neda và cộng sự, 2006) [37]. Hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích tại vùng 
cửa sông, vùng ven biển trên thế  giới nơi có rừng ngập mặn cũng đã được xác  
định từ ít bị ô nhiễm cho đến ô nhiễm nặng. Tam & Wong (1995) [43] đã xác định 
hàm Pb trong trầm tích rừng ngập mặn Sai Keng, Hong Kong với hàm lượng 58,2  
μg/g Zheng & Lin (1996) [51] đã xác định hàm lượng Pb và Cd trong trầm tích  
rừng ngập mặn Avicennia marina, vịnh Shenzhen với hàm lượng tương ứng 28,7 
μg/g và 0,136 μg/g tương ứng. Theo Breemen (1993), Astrom & Bjorklund (1995) 
[20], Sundstrom và cộng sự (2003) [24], Hoa và cộng sự (2004) [30] đã chỉ ra rằng  
đất phèn là nguồn phóng thích kim loại nặng gây ô nhiễm nguồn nước. Khi đất 
phèn tiềm tàng tiếp xúc với ôxy do hiện tượng tự nhiên hoặc do thoát nước nhân 

tạo, pyrite bị  ôxy hóa tạo ra acid sulfuric làm hạ  thấp pH. Khi pH <4 các proton 
được phóng thích tấn công các khoáng sét, hòa tan một số  kim loại mà nồng độ 
của chúng có thể vượt xa nồng độ trong các loại đất không phèn (Trần Kim Tính,  
2004) [30]. 
1.5. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng ở Việt Nam

17


Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và  
khu công nghiệp, cộng thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và biến chế trên toàn  
quốc. Vấn đề ô nhiễm đang là vấn đề nan giải đối với Việt Nam. 
Trong số  các KLN xuất hiện trong các thủy vực với một lượng lớn phải  
kể  đến Asen (As), Cadimi (Cd), đồng (Cu), thủy ngân (Hg), Mangan (Mn), chì 
(Pb)… Các kim loại trên và muối của chúng là những chất độc hại và là chất khá 
bền vững hay khó phân hủy sinh học. Những kim loại này có chủ yếu trong nước  
thải công nghiệp của các ngành liên quan tới kim loại như: công nghiệp mạ, hóa  
chất, sản xuất pin, cơ khí… Nước thải công nghiệp chứa hàng loạt các chất thải 
rắn, chất hữu cơ và vô cơ, các muối KLN. Các dạng tồn tại và hàm lượng của 
các chất ô nhiễm có trong nước thải tùy thuộc vào loại hình công nghiệp, quá 
trình sản xuất, tính hiện đại của máy móc. [8]
Tác giả  Trịnh Thị  Thanh và cộng sự  (1993) đã chỉ  ra hầu hết các ngành 
công nghiệp của Hà Nội đều sản sinh ra các kim loại nặng độc hại tùy theo loại  
hình và quy trình sản xuất. [13],[14],[15]

Bảng 1.2. Thành phần một số kim loại nặng có trong các ngành công 
nghiệp tại Hà Nội
Các ngành

As Cd Cr Cu Hg Mn


CN luyện kim đen x
CN   luyện   kim 
x
màu
CN dệt
CN   thực   phẩm, 
giải khát
CN da
CN thủy tinh
CN gốm

x
x
x

S

x

e
x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x
x

x

i
x

Pb

x

x

x

N


x

x
x
x

x

18

x

x
x
x

Zn
x
x


CN nhựa
Sx thuốc trừ sâu
x
Sx   hóa   chất   hữu 
x

Sx hóa chất vô cơ x
Sx phân bón

x
Sx chất tẩy rửa
x
Sx sơn, bột màu
x
Sx thuốc nhuộm
x
Mạ kim loại
Sx pin, acquy
x
Sx diêm
Sx vật liệu nổ

x

x
x

x

x
x
x
x
x
x
x

x
x

x
x
x

x
x
x

x

x

x

x

x

x
x

x
x
x
x

x

x


x
x

x
x
x
x

x

x

(Nguồn trích dẫn: Trịnh Thị Thanh, 1993)[13]

đội ngũ quản lý, công nhân trong nhà máy.
Năm 2009, các tác giả  Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp khi nghiên cứu sự 
tích lũy kim loại nặng Cadmium và chì của loài hến Corbicula sp. tại vùng cửa 
sông thành phố  Đà Nẵng. Với thực tế  phát triển công nghiệp mạnh mẽ  trong 
nhiều năm trở  lại đây tại Đà Nẵng thì nguy cơ  ô nhiễm kim loại nặng của thủy 
vực này là rất cao. Thực tế là từ phân tích ANOVA cho thấy hàm lương Cd tại khu 
vực sông Hàn: 2,66 ± 1,55 ppm, cao hơn và khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05) so với 
khu vực cửa sông Cu Đê: 1,41 ± 0,75 ppm [7]
Do cấu tạo địa chất, nhiều vùng  ở  nước ta nước ngầm bị  nhiễm asen.  
Khoảng 13,5% dân số  Việt Nam (10­15 triệu người) đang sử  dụng nước ăn từ 
nước giếng khoan, rất dễ  bị  nhiễm asen. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả  nước  
hiện có khoảng hơn 1 triệu giếng khoan, trong đó nhiều giếng có nồng độ  asen 
cao hơn từ  20­50 lần nồng  độ  cho phép (0.01mg/l),  ảnh hưởng xấu  đến sức 
khoẻ, tính mạng của cộng đồng.Tại châu thổ  sông Hồng, những vùng bị  nhiễm 
nghiêm trọng nhất là phía Nam Hà Nội, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, 
Ninh Bình, Thái Bình và Hải Dương.  Ở  Đồng bằng sông Cửu Long, cũng phát 


19


hiện nhiều giếng khoan có nồng độ  asen cao nằm  ở  Đồng Tháp và An Giang.  
[17].
 Kết quả phân tích và đánh giá việc tận dụng nước thải để nuôi cá ở một 
số  ao  đầm vùng Thanh Trì, Hà nội năm 2009 – 2010 của tác giả  Lê Thu Hà­ 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên được công bố như sau:
+ Hàm lượng KLN trọng thịt cá có mối tương quan rõ rệt đối với hàm lượng 
KLN trong nước ao nuôi. Các ao hồ nuôi cá ở Đông Mỹ, Tứ Hiệp và Yên Sở đều 
dẫn nước trực tiếp từ  các kênh nước thải của sông Tô Lịch và Kim Ngưu. Các  
con sông này hoàn toàn chứa nước thải công nghiệp chưa qua xử  lý của các nhà  
máy sản xuất lớn tại Hà Nội với rất nhiều chất độc hại, đặc biệt là KLN.
+ Cá nuôi tại hồ đối chứng (Hồ Mạc ở Cúc Phương, Ninh Bình) an toàn trong sử 
dụng làm thực phẩm vì hàm lượng KLN của 4 kim loại phân tích đều nằm trong  
giới hạn cho phép.
+ Cả  3 loài cá nuôi tại 3 ao hồ nghiên cứu đều có hàm lượng Pb vượt quá giới  
hạn an toàn thực phẩm.
+ Hàm lượng Cu trong thịt cả  3 loài cá nuôi tại các ao hồ  nghiên cứu đều nằm  
trong giới hạn cho phép.
+ Đối với hàm lượng Cd và Hg trong thịt cá thì có sự khác nhau lớn giữa các loài  
và giữa các ao nghiên cứu.
+ Cá Trôi tích tụ  KLN Pb, Hg, Cu cao hơn so với cá Rô phi, và cá Rô phi tích tụ 
nhiều hơn cá Chép. Ngược lại cá Chép tích tụ KLN Cd cao hơn cá Trôi và cá Rô 
phi. 
+ Sự  khác nhau về  đặc điểm sinh học, sinh trưởng và tập tính kiếm mồi là 
nguyên nhân của sự chênh lệch này. 
+ Sự khác biệt về hàm lượng KLN trong thịt cá tại các ao hồ  nghiên cứu so với  
cá  ở  ao đối chứng. Cá nuôi tại các  ở  xã Đông Mỹ, Tứ  Hiệp và Yên Sở  có hàm 


20


lượng KLN cao hơn, các KLN một mặt  ức chế  hoạt động của các enzym trong 
con đường tân tạo protein do đó làm giảm hàm lượng protein trong thịt cá. Mặt 
khác, khi tích lũy với nồng độ  cao chúng sẽ  liên kết với phân tử  protein và làm  
kết tủa protein khiến cho các protein không thể tác dụng với thuốc thử nữa, do đó  
kết quả hàm lượng protein đo được cũng giảm.
Nghiên cứu sự phân bố và ảnh hưởng của kim loại nặng trong hồ Tây của  
tác giả  Lưu Lan Hương, Nguyễn Thị Thanh Nga  và Bùi Thị  Hoa – Trường Đại  
học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN đã cho kết quả như sau :
+ Hàm lượng các kim loại nặng phân bố trong các thành phần khác nhau của hệ 
sinh thái hồ là khác nhau cao nhất trong trầm tích tiếp đến là trong các động vật 
đáy, thực vật thủy sinh ngập nước, thực vật nổi, các loài cá là thấp nhất ở trong  
nước.
+ Kim loại nặng có hàm lượng cao nhất trong các thàn phần của hồ là Fe, tiếp đó 
là Mn, Zn, Cu, Pb, Cr, Ni, As và cuối cùng là Cd và Hg.
+ Nhìn chung hàm lượng của các kim loại nặng trong nước hồ Tây chưa cao hơn  
so với tiêu chuẩn nước mặt Việt Nam. Nhưng hàm lượng của hầu hết các kim  
loại nặng trong trầm tích và trong thực vật thủy sinh đều cao hơn tiêu chuẩn cho  
phép của Việt Nam và nước ngoài. Một số kim loại nằng Hg, As trong trầm tích 
ở một vài vị trí đã ở mức gây ảnh hưởng xầu.
+ Hàm lượng Pb, As trong động vật đáy (trùng trục, trai, ốc vặn…) là cao so với  
tiêu chuẩn của Việt Nam và nước ngoài. Còn hàm lượng của các kim loại khác  
trong động vật thủy sinh đều nằm trong phạm vi cho phép.
+ Tuy nhiên hai kim loại có độc tính cao là Pb và Cd đều có hàm lượng khá cao  
trong các loài cá của hồ  Tây, vì vậy khi người dân nơi đây sử  dụng cá làm thức  
ăn cần hết sức cẩn trọng.


21


CHƯƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Hồ Trúc Bạch, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Hồ Trúc Bạch là một hồ thuộc quận Ba Đình, thủ  đô Hà Nội, Việt Nam, 
nguyên là một phần hồ Tây. Hồ  rộng 242191.278 m 2 (hơn 24,2 ha) và có tọa độ 
địa lý là: vĩ tuyến: 21o03'10'' B, kinh tuyến: 105o50'20'' Đ. 

22


Hình 2.1. Vị trí hồ Trúc Bạch
Hồ Trúc Bạch vốn là một phần của hồ Tây, nằm ở góc Đông Nam của hồ,  
đến năm 1620 hồ  được phân ra với hồ  Tây nhờ  đê Cố  Ngự  (hay còn gọi là Cổ 
Ngư), chính là đường Thanh Niên ngày nay. Ngoài đường Thanhh Niên, hồ  còn  
được bao quanh bởi các phố Trấn Vũ, Trúc Bạch với rất nhiều nhà hàng, khách  
sạn…Hiện nay hồ  do Xí nghiệp thoát nước số  1 ­ Công ty Thoát nước Hà Nội  
quản lý mực nước và Công ty cổ  phần Trúc Bạch nuôi thả  cá. Hồ  có diện tích 
nước mặt là 24 ha, mực nước mặt hồ  vào mùa khô là 5,8 mét, mùa mưa là 6,2 
mét. 
Hồ Trúc Bạch cùng với hồ Tây, hồ Gươm và các hồ khác là những lá phổi  
xanh của thành phố và là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô với rất nhiều  
di tích lịch sử ven hồ như đền Quán Thánh, chùa Châu Long, đền Cẩu Nhi… Đây  
là điểm tham quan của du khách trong và ngoài nước đến Hà Nội, đồng thời cũng  

23



là một địa điểm du ngoạn lý tưởng của người dân, đặc biệt là giới trẻ  của thủ 
đô.  
2.1.2.  Hồ  Thanh Nhàn, Đường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, thành phố  Hà 
Nội 

  Hồ  Thanh Nhàn thuộc quận Hai Bà Trưng của thành phố  Hà Nội, hồ 
được cải tạo từ  hồ  tự  nhiên cũ trong khu vực, làm cảnh quan phía Đông giáp 
công viên tuổi trẻ, phía Nam giáp với đường Thanh Nhàn, hai phía còn lại giáp 
với khu dân cư.

Hình 2.2. Vị trí hồ Thanh Nhàn

2.2. Thời gian nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tiến hành theo 4 đợt:

24


­ Đợt 1: 21­ 22/ 04 /2010
­ Đợt 2: 13­ 15/ 07 /2010
­ Đợt 3: 23­ 24/ 11 /2010
­ Đợt 4: 02­ 03/ 03 /2011
2.3. Đối tượng nghiên cứu

­ Đối tượng nghiên cứu của để  tài là 5 kim loại nặng: Cu, Cd, Pb, Hg, As trong  
một số nhóm sinh vật ở 2 hồ Trúc Bạch,Thanh Nhàn.
­ Các sinh vật nghiên cứu là cá rô phi (Oreochomic mossambicus), cá trôi Cá Trôi 
Ấn Độ  (Labeo rohita),  cá mè trắng  (Hypophthalmichthys  molitrix),  động vật nổi 
(zooplankton), thực vật nổi (Phytoplankton),ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata), 
ốc vặn (họ Thiaridae)

2.4. Phương pháp nghiên cứu.
2.4.1. Phương pháp hồi cứu. 
Thu thập, phân tích và xử lý các thông tin có liên quan, như thông tin về các 
kim loại nặng trong nước, trầm tích, sinh vật của các công trình đã công bố trong  
nước và nước ngoài, các thông tin kinh tế, xã hội, sản xuất của khu vực quanh 2  
hồ nghiên cứu.
2.4.2. Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa
­ Mẫu nước được lấy  ở  3 tầng: Tầng mặt, tầng giữa, tầng đáy, trộn theo tỉ  lệ 
bằng nhau, cố định bằng axit HNO3 đậm đặc, đựng trong chai nhựa PE.
­ Mẫu bùn được lấy  ở  tầng đáy, lấy  ở  các điểm nghiên cứu sau đó trộn đều,  
đựng trong túi nilon chuyên dụng.
­ Mẫu sinh vật: Được thu bằng các dụng cụ thu mẫu.
­ Các chai lấy mẫu nước hồ  được rửa sạch, rửa lại bằng nước của điểm thu  
mẫu và được dán nhãn ghi đầy đủ các chi tiết về địa điểm, ngày giờ thu mẫu. 

25


×