ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ như y tế, du lịch,
thương mại… ở nước ta đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc
biệt sự hiện diện của kim loại nặng trong môi trường đất, nước đã và đang là
vấn đề môi trường được cộng đồng quan tâm. Sự tích tụ kim loại nặng sẽ ảnh
hưởng đến đời sống của các sinh vật thủy sinh, gây ảnh hưởng đến sức khỏe
của con người thông qua chuỗi thức ăn; ví dụ nhiều loài động vật không xương
sống sử dụng trầm tích như nguồn thức ăn, vì thế cơ thể chúng là nơi lưu giữ và
tích tụ kim loại nặng. Sự tích tụ kim loại nặng trong sinh vật có thể đe dọa sức
khỏe của nhiều loài sinh vật đặc biệt cá, chim và con người (Wright & Mason,
1999) [50]. Do vậy, xác định hàm lượng kim loại nặng trong môi trường là rất
cần thiết do bởi tính độc, tính bền vững và sự tích tụ sinh học của chúng
(UNEP/FAO/WHO, 1996 trích trong Clark và cộng sự, 2000) [27]. Trong những
năm gần đây, kim loại nặng đã được nghiên cứu nhiều trong trầm tích cửa sông,
vùng ven biển, và rừng ngập mặn tại một số quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam
nghiên cứu về kim loại nặng tập trung ở vùng đô thị, vùng đất phèn, và vùng
nông nghiệp.
Hà Nội là một trong những thành phố lớn ở nước ta có số lượng các hồ
dày đặc, đây là nơi điều hòa khí hậu và là nét đẹp đặc trưng của thành phố này,
nhưng hiện nay chất lượng nước ở hầu hết các hồ nơi đây đang trong tình trạng
ô nhiễm nặng do phải chứa đựng một lượng lớn nước thải từ khu dân cư, từ các
nhà máy, xí nghiệp.
Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, quyết định
sự thành công trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Hiện nay nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và cạn
kiệt. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm họa lớn
1
đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất. Do đó
con người cần phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên nước.[1], [2].
Hồ Thanh Nhàn và hồ Trúc Bạch là 2 hồ nuôi cá cung cấp thực phẩm hàng
ngày cho người dân thành phồ Hà Nội, nhưng hiện nay 2 hồ này đang chứa đựng
một lượng nước thải rất lớn từ các khu dân cư, nguy cơ ô nhiễm các KLN trong
thịt cá là rất cao.
Trên cơ sở các vấn đề vừa mới đề cập, đề tài “Phân tích hàm lượng kim loại
nặng trong một số nhóm sinh vật hồ Trúc Bạch và hồ Thanh Nhàn của thành phố
Hà Nội” được thực hiện với các mục tiêu sau:
1. Phân tích hàm lượng kim loại nặng và đánh giá mức độ ô nhiễm của kim
loại nặng trong bùn và trong nước của hồ Thanh Nhàn và Trúc Bạch.
2. Phân tích hàm lượng một số kim loại nặng trong một số nhóm sinh vật ở 2
hồ Trúc Bạch và Thanh Nhàn.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm và tính chất của kim loại nặng.
Kim loại nặng là những kim loại có khối lượng riêng lớn hơn 5g/cm 3 và
thông thường chỉ những kim loại hoặc các á kim liên quan đến sự ô nhiễm và độc
hại. Tuy nhiên chúng cũng bao gồm những nguyên tố kim loại cần thiết cho một
số sinh vật ở nồng độ thấp (Adriano, 2001) [18]. Kim loại nặng được được chia
làm 3 loại: các kim loại độc (Hg, Cr, Pb, Zn, Cu, Ni, Cd, As, Co, Sn,…), nh ững
kim loại quý (Pd, Pt, Au, Ag, Ru,…), các kim loại phóng xạ (U, Th, Ra, Am,…).
Khối lượng riêng của những kim loại này thông thường lớn hơn 5g/cm3 (Bishop,
2002) [22].
Kim loại nặng không bị phân hủy sinh học (Tam & Wong, 1995) [43],
không độc khi ở dạng nguyên tố tự do nhưng nguy hiểm đối với sinh vật sống
khi ở dạng cation do khả năng gắn kết với các chuỗi cacbon ngắn dẫn đến sự
tích tụ trong cơ thể sinh vật sau nhiều năm (Shahidul & Tanaka, 2004) [42].
Đối với con người, có khoảng 12 nguyên tố kim loại nặng gây độc như
chì, thủy ngân, nhôm, arsenic, cadmium, nickel… Một số kim loại nặng được tìm
thấy trong cơ thể và thiết yếu cho sức khỏe con người, chẳng hạn như sắt, kẽm,
magnesium, cobalt, manganese, molybdenum và đồng mặc dù với lượng rất ít
nhưng nó hiện diện trong quá trình chuyển hóa. Tuy nhiên, ở mức thừa của các
nguyên tố thiết yếu có thể nguy hại đến đời sống của sinh vật (Foulkes, 2000)
[35]. Các nguyên tố kim loại còn lại là các nguyên tố không thiết yếu và có thể
gây độc tính cao khi hiện diện trong cơ thể, tuy nhiên tính độc chỉ thể hiện khi
chúng đi vào chuỗi thức ăn. Các nguyên tố này bao gồm thủy ngân, nickel, chì,
arsenic, cadmium, nhôm, platinum và đồng ở dạng ion kim loại. Chúng đi vào cơ
thể qua các con đường hấp thụ của cơ thể như hô hấp, tiêu hóa và qua da. Nếu
3
kim loại nặng đi vào cơ thể và tích lũy bên trong tế bào lớn hơn sự phân giải
chúng thì chúng sẽ tăng dần và sự ngộ độc sẽ xuất hiện (Foulkes, 2000) [35]. Do
vậy người ta bị ngộ độc không những với hàm lượng cao của kim loại nặng mà
cả khi với hàm lượng thấp và thời gian kéo dài sẽ đạt đến hàm lượng gây độc.
Tính độc hại của các kim loại nặng được thể hiện qua:
Một số kim loại nặng có thể bị chuyển từ độc thấp sang dạng độc cao hơn
trong một vài điều kiện môi trường, ví dụ thủy ngân.
Sự tích tụ và khuếch đại sinh học của các kim loại này qua chuỗi thức ăn có thể
làm tổn hại các hoạt động sinh lý bình thường và sau cùng gây nguy hiểm cho
sức khỏe của con người.
Tính độc của các nguyên tố này có thể ở một nồng độ rất thấp khoảng 0.110
mg/l (Alkorta và cộng sự, 2004) [18].
1.1.1. Asen (As)
Asen phân bố nhiều nơi trong môi trường, chúng được xếp thứ 20 trong
những nguyên tố hiện diện nhiều trong lớp vỏ của trái đất, hiện diện ít hơn Cu,
Sn nhưng nhiều hơn Hg, Cd, Au, Ag, Sb, Se (Bissen & Frimmel, 2003)[23].
Nguồn asen khổng lồ phóng thích vào khí quyển bởi quá trình tự nhiên là sự hoạt
động của núi lửa. Khi núi lửa hoạt động, một lượng lớn arsenic khoảng 17150
tấn phóng thích vào khí quyển (Matschullat, 2000) [41]. Trong môi trường tự
nhiên, asen chủ yếu liên kết với các khoáng mỏ sunfide. Hàm lượng arsenic tự
nhiên trong đất nói chung biến động từ 0,1 40 mg/kg(Tamaki & Frankenberger,
1992) [44]. Theo Murray (1994) [36] hàm lượng asen trong đất trung bình 2,225
ppm.
Tác hại của As đối với sức khỏe con người::
Do asen là chất độc, sự thâm nhiễm lâu dài sẽ gây ra những ảnh hưởng bất
lợi đến sức khoẻ con người. Năm 1993, tổ chức Y tế thế giới đã đề nghị hạ
mức tiêu chuẩn của asen trong nước uống từ 50 μg/l xuống 10 μg/l [46]. Năm
4
2001 tổ chức Bảo vệ môi trường Mỹ (US EPA) cũng đã thực hiện tiêu chuẩn
mới này. Bộ Y tế của Việt Nam cũng đã đưa ra quyết định số
1329/2002/BYT/QĐ về giảm hàm lượng cho phép của asen trong nước uống từ
50 μg/l xuống còn 10 μg/l theo tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới .
Độc tính của asen liên quan đến sự hấp thụ và thời gian lưu của nó trong
cơ thể. Ở hàm lượng nhỏ, asen và các hợp chất của asen có tác dụng kích
thích quá trình trao đổi chất và chữa được bệnh nhưng chúng lại trở thành
những chất độc khi ở liều lượng cao. Liều gây chết (LD50) đối với con người
là 1 4 mg/kg trọng lượng cơ thể.
1.1.2. Cadmium (Cd)
Các hợp chất của Cd
CdO có màu từ vàng đến nâu gần như đen tuỳ thuộc vào quá trình chế hoá
nhiệt, nóng chảy ở 1813oC, có thể thăng hoa, không phân huỷ khi đun nóng, hơi
độc.
CdO không tan trong nước chỉ tan trong kiềm nóng chảy:
CdO + 2KOH(nóng chảy) = K2CdO2 + H2O
(Kali cadmiat)
CdO có thể điều chế bằng cách đốt cháy kim loại trong không khí hoặc
nhiệt phân hiđroxit hay các muối cacbonat, nitrat:
2Cd + O2 = 2CdO
Cd(OH)2 = CdO + H2O
Cd(OH)2 là kết tủa nhầy ít tan trong nước và có màu trắng.
Cd(OH)2 không thể hiện rõ tính lưỡng tính, tan trong dung dịch axit, không tan
trong dung dịch kiềm mà chỉ tan trong kiềm nóng chảy.
Tan trong dung dịch NH3 tạo thành hợp chất phức
5
Cd(OH)2 + 4NH3 = [Cd(NH3)4](OH)2
Điều chế bằng cách cho dung dịch muối của nó tác dụng với kiềm
Các muối halogenua (trừ florua), nitrat, sunfat, peclorat và axetat của Cd(II)
đều dễ tan trong nước còn các muối sunfua, cacbonat, hay ortho photphat và muối
bazơ ít tan.
Trong dung dịch nước các muối Cd2+ bị thuỷ phân:
Cd2+ + 2 H2O ↔ Cd(OH)2 + 2 H+
Tích số tan của Cd(OH)2 là T = 1014
Cd2+ có khả năng tạo phức [CdX4]2 (X = Cl, Br, I và CN), [Cd(NH3)4]2+,
[Cd(NH3)6]2+,…
Cd2+ có khả năng tạo phức [CdX4]2 (X = Cl, Br, I và CN), [Cd(NH3)4]2+,
[Cd(NH3)6]2+,…
Tác hại của Cd đối với sức khỏe con người:
Cadmium được biết gây tổn hại đối thận và xương ở liều lượng cao. Nghiên cứu
1021 người đàn ông và phụ nữ bị nhiễm độc Cd ở Thụy Điển cho thấy nhiễm
độc kim loại này có liên quan đến gia tăng nguy cơ gãy xương ở độ tuổi trên 50.
Bệnh itaiitai là bệnh do sự ngộ độc Cd trầm trọng. Tất cả những bệnh nhân với
bệnh này điều bị tổn hại thận, xương đau nhức trở nên giòn và dễ gãy (Nogawa
và cộng sự, 1999) [38].
1.1.3. Chì (Pb)
Các Hợp chất của Pb:
Chì tạo thành 2 oxit đơn giản là PbO, PbO2 và 2 oxit hỗn hợp là chì
metaplombat Pb2O3 (hay PbO.PbO2), chì orthoplombat Pb3O4 (hay 2PbO.PbO2).
6
Monooxit PbO là chất rắn, có hai dạng: PbO có màu đỏ và PbO có mqàu
vàng. PbO tan chút ít trong nước nên Pb có thể tương tác với nước khi có mặt
oxi. PbO tan trong axit và tan trong kiềm mạnh.
Đioxit PbO2 là chất rắn màu nâu đen, có tính lưỡng tính nhưng tan trong
kiềm dễ dàng hơn trong axit. Khi đun nóng PbO2 mất dần oxi biến thành các oxit,
trong đó chì có số oxi hoá thấp hơn:
290 320oC 390 420oC 530 550oC
PbO2 Pb2O3 Pb3O4 PbO
(nâu đen) (vàng đỏ) (đỏ) (vàng)
Lợi dụng khả năng oxi hoá mạnh của PbO2 người ta chế ra acquy chì.
Chì orthoplombat (Pb3O4) hay còn gọi là minium là hợp chất của Pb có các số oxi
hoá +2, +4. Nó là chất bột màu đỏ da cam, được dùng chủ yếu là để sản xuất
thuỷ tinh pha lê, men đồ sứ và đồ sắt, làm chất màu cho sơn (sơn trang trí và sơn
bảo vệ cho kim loại không bị rỉ).
Pb(OH)2 là chất kết tủa màu trắng. Khi đun nóng, chúng dễ mất nước biến
thành oxit PbO.
Pb(OH)2 cũng là chất lưỡng tính.
Khi tan trong axit, nó tạo thành muối của cation Pb2+:
Pb(OH)2 + 2HCl = PbCl2 + 2H2O
Khi tan trong dung dịch kiềm mạnh, nó tạo thành muối hiđroxoplombit:
Pb(OH)2 + 2KOH = K2[Pb(OH)4]
Muối hiđroxoplombit dễ tan trong nước và bị thuỷ phân mạnh nên chỉ bền
trong dung dịch kiềm dư.
Tác hại của chì đối với sức khỏe con người:
7
Trong cơ thể người, chì trong máu liên kết với hồng cầu, và tích tụ trong xương.
Khả năng loại bỏ chì ra khỏi cơ thể rất chậm chủ yếu qua nước tiểu. Chu kì bán
rã của chì trong máu khoảng một tháng, trong xương từ 2030 năm (WHO,1995
trích trong Lars Jarup, 2003) [32]. Các hợp chất chì hữu cơ rất bền vững độc hại
đối với con người, có thể dẫn đến chết người (Peter Castro & Michael, 2003)
[39].
Những biểu hiện của ngộ độc chì cấp tính như nhức đầu, tính dễ cáu, dễ
bị kích thích, và nhiều biểu hiện khác nhau liên quan đến hệ thần kinh. Con
người bị nhiễm độc lâu dài đối với chì có thể bị giảm trí nhớ, giảm khả năng
hiểu, giảm chỉ số IQ, xáo trộn khả năng tổng hợp hemoglobin có thể dẫn đến
bệnh thiếu máu (Lars Jarup, 2003) [32]. Chì cũng được biết là tác nhân gây ung
thư phổi, dạ dày và u thần kinh đệm. Nhiễm độc chì có thể gây tác hại đối với
khả năng sinh sản, gây sẩy thai, làm suy thoái nòi giống (Ernest & Patricia, 2000)
[29].
1.1.4. Đồng (Cu)
Đồng là kim loại màu quan trọng đối với công nghiệp và kĩ thuật, khoảng
trên 50% lượng đồng khai thác hàng năm được dùng sản xuất dây dẫn điện, trên
30% được dùng chế tạo hợp kim. Ngoài ra, do có khả năng dẫn nhiệt tốt và chịu
ăn mòn, đồng kim loại còn được dùng chế tạo thiết bị trao đổi nhiệt, sinh hàn và
chân không, chế tạo nồi hơi, ống dẫn dầu và dẫn nhiên liệu. Một số hợp chất
của đồng được sử dụng làm chất màu trang trí mỹ thuật, chất liệu trừ nấm mốc
và cả thuốc trừ sâu trong nông nghiệp.
Tác hại của đồng đối với sức khoẻ của con người:
Đồng được xem là một trong những nguyên tố cần thiết đối với sự phát triển của
con người, tuy nhiên sự tích tụ đồng với hàm lượng cao có thể gây độc cho cơ
thể. Cumings (1948) trích trong WHO (1998) phát hiện đồng thực sự là tác nhân
độc.
8
Đồng là nguyên tố vi lượng cần thiết trong cơ thể người, có nhiều vai trò
sinh lí, nó tham gia vào quá trình tạo hồng cầu, bạch cầu và là thành phần của
nhiều enzym. Đồng tham gia tạo sắc tố hô hấp hemoglobin. Các nghiên cứu y
học cho thấy khi nồng độ đồng cao hơn mức cho phép một số người có dấu hiệu
mắc bệnh do đồng lắng đọng trong gan, thận, não như bệnh về thần kinh
schizophrenia. Ngược lại khi nồng độ đồng quá thấp, cơ thể phát triển không
bình thường, đặc biệt là với trẻ em. (Roberts, 1999) [40]
Mọi hợp chất của đồng đều là những chất độc, khoảng 30g CuSO 4 có khả
năng gây chết người. Nồng độ an toàn của đồng trong nước uống đối với con
người dao động theo từng nguồn, khoảng 1,5 2mg/l. Lượng đồng đi vào cơ thể
người theo đường thức ăn mỗi ngày khoảng 2 4mg/l.
1.1.5. Thủy ngân (Hg)
Các dạng thủy ngân:
+ Thủy ngân nguyên tố: không độc, trơ và được đào thải nhanh.
+ Thủy ngân dạng hơi: rất độc, có thể đi theo đường hô hấp vào phổi rồi vào
máu, vào não rồi gây độc.
+ Thủy ngân dạng muối vô cơ HgCl2, Hg2Cl2 ít tan, ít độc vì là ở dạng hợp chất
không tan.
+ Ion thủy ngân (Hg2+): độc nhưng khó vận chuyển qua màng sinh học của tế
bào.
Tác hại của thủy ngân đối với sức khỏe con người:
Khi thủy ngân kết hợp với các hợp chất hữu cơ và bị biến đổi bởi các vi
khuẩn và vi sinh vật trong nước và trầm tích hình thành các hợp chất khác nhất là
metyl thủy ngân rất độc, bền và tích tụ trong chuỗi thức ăn (Peter & Michael,
2003) [39]. Trong môi trường biển, hệ vi sinh vật có thể chuyển nhiều hợp chất
thủy ngân vô cơ thành metyl thủy ngân và hợp chất này dễ dàng phóng thích từ
trầm tích vào nước, sau đó có thể tích tụ trong các sinh vật sống (Clark và cộng
sự, 1997) [27]. Metyl thủy ngân độc hại đối với hệ thần kinh trung ương và
9
ngoại vi. Hít thở hơi thủy ngân có thể ảnh hưởng tổn hại đến hệ thần kinh, tiêu
hóa và miễm nhiễm, phổi, thận và có thể tử vong. Các muối vô cơ của thủy ngân
có thể phá hủy da, mắt, đường tiêu hóa, và có thể gây ra sự tổn hại thận nếu hấp
thụ (WHO, 1998) [49]. Thảm họa ngộ độc metyl thủy ngân (bệnh Minamata)
năm 1956 có hơn 2000 người bi ngộ độc trong số này có 43 người chết, hơn 700
người với tàn tật nghiêm trọng suốt đời (Clark và cộng sự, 1997) [27].
1.2. Các nguồn phát sinh kim loại nặng
Kim loại nặng hiện diện trong tự nhiên đều có trong đất và nước, hàm
lượng của chúng thường tăng cao do tác động của con người.. Các kim loại do
hoạt động của con người như As, Cd, Cu, Ni và Zn thải ra ước tính là nhiều hơn
so với nguồn kim loại có trong tự nhiên, đặc biệt đối với chì 17 lần (Kabata
Pendias & Adriano, 1995) [31]. Nguồn kim loại nặng đi vào đất và nước do tác
động của con người bằng các con đường chủ yếu như bón phân, bã bùn cống và
thuốc bảo vệ thực vật và các con đường phụ như khai khoáng và kỹ nghệ hay
lắng đọng từ không khí.[8]
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Cadimi: Cd hiện diện khắp nơi trong lớp vỏ của trái đất với hàm lượng trung
bình khoảng 0,1 mg/kg. Tuy nhiên hàm lượng cao hơn có thể tìm thấy trong các
loại đá trầm tích như đá trầm tích phosphate biển thường chứa khoảng 15 mg/kg.
Hàng năm sông ngòi vận chuyển một lượng lớn Cd khoảng 15000 tấn đổ vào các
đại dương (GESAMP, 1984 trích trong WHO, 1992) [48]. Hàm lượng Cd đã được
báo cáo có thể lên đến 5 mg/kgtrong các trầm tích sông và hồ, từ 0,03 đến 1
mg/kgtrong các trầm tích biển (Korte, 1983 trích trong WHO, 1992) [49]. Hàm
lượng Cadmium trung bình trong đất ở những vùng không có sự hoạt động của
núi lửa biến động từ 0,01 đến 1 mg/kg, ở những vùng có sự hoạt động của núi
lửa hàm lượng này có thể lên đến 4,5 mg/kg(Korte, 1983 trích trong WHO, 1992)
10
[48]. Tuy nhiên theo Murray (1994) [36] hàm lượng Cd trong đất hiện diện trung
bình 0,06 1,1 ppm.
Đồng được tìm thấy tự nhiên trong các khoáng như cuprite (Cu2O), malachite
(Cu2CO3.Cu(OH)2), azurite (2CuCO3.Cu(OH)2), chalcopyrite (CuFeS2), chalcocite
(Cu2S), và bornite (Cu5FeS4) và trong nhiều hợp chất hữu cơ. Ion đồng (II) gắng
kết qua ôxy đối với các tác nhân vô cơ như H2O, OH, CO32, SO42,...đối với các
tác nhân hữu cơ qua các nhóm như phenolic và carboxylic (Cotton & Wilkinson,
1989 trích trong WHO, 1998). Vì vậy hầu hết đồng trong tự nhiên phức hợp với
các hợp chất hữu cơ (Allen & Hansen, 1996 trích trong WHO, 1998) [49]. Trong
đá nham thạch đồng biến động từ 4200 mg/kg, trong đá trầm tích 290 mg/kg
(Cannon và cộng sự,1978 trích trong WHO, 1998) [49]. Sự khuếch tán đồng từ
các nguồn tự nhiên trung bình trên khắp thế giới hàng năm từ bụi được mang từ
gió 0,915 × 103 tấn, cháy rừng 0,17,5 × 103 tấn, hoạt động núi lửa 0,918 × 103
tấn (Nriagu, 1989 trích trong WHO, 1998) [49]. Đồng hiện diện tự nhiên trong
lớp vỏ trái đất với hàm lượng trung bình khoảng 60 mg/kg (Lide & Frederikse,
1993 trích trong WHO, 1998), tuy nhiên theo (Murray, 1994) [36] trong đất biến
động từ 680 ppm.
Chì: Hàm lượng chì trung bình trong thạch quyển ước khoảng 1,6x103 phần
trăm trọng lượng, trong khi đó trong đất trung bình là 103 phần trăm và khoảng
biến động thông thường là từ 0,2x103 đến 20x103 phần trăm. Chì hiện diện tự
nhiên trong đất với hàm lượng trung bình 1084 ppm (Murray, 1994) [36].
Asen: Trong tự nhiên, asen thường có mặt trong các khoáng với sắt, lưu huỳnh,
oxi, niken, đồng, v.vv…..như trình bày trong bảng 1.
Bảng 1.1. Các khoáng vật chứa asen trong tự nhiên [44]
Khoáng
As nguyên tố
Thành phần
Nơi xuất hiện
Các mạch thủy nhiệt
(hydrothermal veins)
As
11
Khoáng
Thành phần
Nơi xuất hiện
NiAs
Các lớp trầm tích
AsS
Các lớp trầm tích, thường đi kèm
với khoáng orpiment, sét, đá vôi,
các lớp trầm tích nơi có suối nước
nóng.
Orpiment
As2S3
Các mạch thủy nhiệt, các suối
nước nóng, khu vực có các sản
phẩm của quá trình thăng hoa núi
lửa.
Cobaltite
CoAsS
Các lớp trầm tích có nhiệt cao, các
lớp đá bị biến dạng
Arsenopyrite
FeAsS
Dạng khoáng chứa asen phổ biến
nhất, tồn tại nhiều trong các vùng
trầm tích chứa khoáng
Tennantite
(Cu,Fe)12As4S13
Các mạch thủy nhiệt
Enargite
Cu3AsS4
Các mạch thủy nhiệt
Niccolite
Realgar
Khoáng thứ cấp, hình thành từ quá
trình oxi hóa arsenopyrite, asen
nguyên tố và một số khoáng asen
khác
Arsenolite
As2O3
Scorodite
FeAsO4.2H2O
Khoáng thứ cấp
Annabergite
(Ni,Co)3(AsO4)2.8H2O
Khoáng thứ cấp
Hoernesite
Mg3(AsO4)2.8H2O
Haematolite
(Mn,Mg)4Al(AsO4)(OH)8
Conichalcite
CaCu(AsO4)(OH)
Khoáng thứ cấp, thải luyện kim
Khoáng thứ cấp
Như vậy, asen là nguyên tố hóa học có mặt khá phổ biến trong đất đá,
quặng khoáng, trong các trầm tích sâu dưới lòng đất.
12
Thủy ngân hiện diện và tồn tại trong tự nhiên ở nhiều dạng khác nhau: kim
loại, vô cơ và hữu cơ (metyl và etyl thủy ngân). Tất cả những dạng này có tính
độc khác nhau và có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Trong môi trường
đất, dạng cation Hg2+ hiện diện là phổ biến nhất. Sự tích tụ thủy ngân trong đất
có khuynh hướng tương quan với hàm lượng vật chất hữu cơ. Hàm lượng thủy
ngân trong tự nhiên cao nhất đã được báo cáo trong đất ngập nước và đất than
bùn. Hàm lượng thủy ngân trong đất trên thế giới trung bình 0,020,41 ppm
(Murray, 1994) [36]. Nồng độ thủy ngân trong nước đại dương trung bình 0,001
0,004 μ/l (Olafsson, 1983 trích trong Bryan & Langston, 1992) [26] và nồng độ Hg
gia tăng gần các cửa sông chịu ảnh hưởng từ công nghiệp (Baker, 1977 trích
trong Bryan & Langston, 1992).
1.2.2. Công nghiệp
Sự gia tăng tích lũy kim loại trong môi trường không chỉ từ các nguồn tự
nhiên, mà còn từ hoạt động công nghiệp của con người. Việc đốt cháy các nhiên
liệu hóa thạch làm giải phóng khoảng 20 loại kim loại độc hại quan trọng vào môi
trường bao gồm asen, beri, cađimi, chì, và niken (Goyer, 1996) [27]. Các sản phẩm
công nghiệp và việc sử dụng các vật liệu công nghiệp có thể chứa hàm lượng cao
các nguyên tố kim loại độc hại. Ví dụ, thủy ngân được sử dụng để sản xuất clo và
soda trong công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, công nghiệp sản xuất pin, bóng
đèn huỳnh quang, công tắc điện, sơn và các sản phẩm nông nghiệp, thuốc chữa
răng, và dược phẩm. (Mailman, 1994) [41]
Asen: Được con người sử dụng trong ngành công nghiệp:
+ Khai thác quặng mỏ (Cu, Ni, Pb, Zn), luyện kim đưa vào môi trường một
lượng lớn arsenic. Khoảng 62000 tấn arsenic phóng thích vào môi trường
hàng năm từ các hoạt động này (Bissen & Frimmel, 2003) [23].
+ Đốt các nhiên liệu hóa thạch từ các hộ gia đình, từ các nhà máy điện.
+ Sử dụng thuốc diệt nấm, thuốc trừ cỏ, thuốc diệt côn trùng và công nghiệp
13
+ Từ khi đưa vào sử dụng DDT năm 1947 và các loại thuốc trừ sâu hữu cơ
khác có chứa các hợp chất arsenic hữu cơ (Bissen & Frimmel, 2003) [23].
Cađimi: Một sản phẩm phụ của việc khai khoáng kẽm và chì, là một chất gây ô
nhiễm môi trường quan trọng. Nó được sử dụng rất nhiều trong sơn, thuốc
nhuộm, ắc quy, và chất dẻo. Ngoài ra nó còn được sử dụng trong chất chống ăn
mòn thép, sắt, đồng, đồng thau và các hợp kim khác. Các ứng dụng chủ yếu của
Cd trong trong công nghiệp như: lớp mạ bảo vệ thép, chất ổn định trong PVC,
chất tạo màu trong plastic và thủy tinh, và trong hợp phần của nhiều hợp kim là
một trong những nguyên nhân phóng thích Cd vào môi trường.[7] Hàm lượng của
Cd trong phân lân biến động khác nhau tùy thuộc vào nguồn gốc của đá
phosphate. Phân lân có nguồn gốc từ đá phốt phát Bắc Carolina chứa Cd 0,054
g/kg, phân lân có nguồn gốc từ đá Sechura chứa hàm lượng Cd 0,012 g/kg, trong
khi đó phân lân có nguồn gốc từ đá phosphate Gafsa chứa 0,07 g/kg (Bolan và
cộng sự, 2003) [24].
Chì: Được sử dụng trong pin, trong bình ăcqui, trong một số dụng cụ dẫn điện.
Một số hợp chất chì được thêm vào trong sơn, thủy tinh, đồ gốm như chất tạo
màu, chất ổn định, chất kết gắn.[7] Các sản phẩm thải từ ứng dụng của chì nếu
không được tái chế hợp lý thải vào môi trường làm gia tăng lượng kim loại độc
hại này trong môi trường. Ngoài ra một số hợp chất chì hữu cơ như tetraetyl
hoặc tetrametyl chì được thêm vào trong xăng đặc biệt ở những quốc gia đang
phát triển.
Thủy ngân: Nguồn do hoạt động của con người: đến từ các nhà máy điện đốt
than; các lò đốt rác thải; những nơi khai thác thủy ngân, vàng, đồng, kẽm, bạc;
các hoạt động luyện kim; thải bỏ các nhiệt kế và từ đốt rác thải y tế. Riêng chất
thải từ các thiết bị y tế có thể phóng thích chiếm khoảng 5% thủy ngân trong
nước thải (WHO, 1998) [49].
1.2.3. Các sản phẩm nông nghiệp
14
Các kim loại nặng có trong các sản phẩm phân bón bao gồm cađimi, crom,
đồng, mangan, molipden, niken và kẽm. Các nguồn chính của asen trong môi
trường là từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các sản phẩm bảo vệ thực vật khác.
Chì và asen bên cạnh việc sử dụng trong công nghiệp nó còn được sử dụng trong
thuốc trừ sâu. Thuốc diệt nấm có chứa thủy ngân cũng góp phần làm ô nhiễm
môi trường. Cuối cùng, rất nhiều các kim loại này tích lũy trong đất nông nghiệp
dẫn đến tạo ra sự nguy hiểm đối với thực vật và động vật. [1],[3].
1.3. Ảnh hưởng của kim loại nặng đến sinh vật
Ô nhiễm môi trường do tính độc hại của kim loại nặng gây mất cân bằng
sinh thái làm suy giảm nhiều quần thể sinh vật đã được tìm thấy ở nhiều quốc
gia trên thế giới. The Severn Estuary là một trong những con sông lớn nhất ở Anh
là nơi ở và sinh sản của nhiều loài cá. Nhiều thập kỉ qua, sông này đã phải hứng
chịu nhiều ô nhiễm kim loại nặng như chì, cadmium và nhiều nguyên tố khác từ
nhiều nguồn khác nhau (Owens, 1984 trích trong WHO, 1992)[48]. Những ảnh
hưởng của ô nhiễm này có thể là một trong những nguyên nhân gây suy giảm
quần thể cá. Quần thể cá ở sông Severn Estuary đã gia tăng trở lại khi mức độ ô
nhiễm môi trường nước giảm (Potter và cộng sự, 2001)[40]. Nhiều nghiên cứu
về ảnh hưởng ô nhiễm kim loại trong vùng phụ cận của nơi tinh luyện chì lớn
nhất thế giới tại Port Pirie nước Úc đã cho thấy rằng 20 loài cá và giáp xác đã bị
biến mất hoặc giảm số lượng (Ward & Young, 1982 trích trong Bryan &
Langston, 1992) [26]. Khi sinh vật sống trong môi trường bị ô nhiễm, khả năng
tích tụ các chất ô nhiễm trong cơ thể chúng là rất cao nhất là ô nhiễm kim loại,
gây nguy cơ cho sức khỏe của người tiêu thụ chúng thông qua chuỗi thức ăn. Ohi
và cộng sự (1974) trích trong WHO (1985)[49] đã xác định mức độ chì trong máu,
trong xương đùi và trong thận của chim bồ câu được thu thập từ những vùng
nông thôn và những vùng đô thị ở Nhật. Kết quả cho thấy rằng mức độ chì cao
nhất trong xương đùi của chim bồ câu với giá trị trung bình biến động từ 16,5
15
đến 31,6 mg/kg ở vùng đô thị. Trong khi đó giá trị trung bình 2,0 và 3,2 mg/kg ở
vùng nông thôn.
Những năm gần đây, ảnh hưởng nghiêm trọng của As đối với sức khỏe
con người cũng đã được báo cáo ở Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh. Ước tính có
đến hàng triệu người có nguy cơ bị ngộ độc do ngộ độc As. Việt Nam có khoảng
10 triệu người ở đồng bằng sông Hồng, 500 ngàn đến 1 triệu người ở ĐBSCL bị
ngộ độc mãn tính do uống nước giếng khoan có chứa arsen (Berg và cộng sự,
2007) [21]. Tương tự, sự tích tụ Cd trong gan và thận của động vật chăn thả ăn
cỏ ở Úc và New Zealand gây ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm thịt trong nước
và xuất khẩu ra nước ngoài (Robert và cộng sự, 1994, McLaughlin và cộng sự,
2000) [35].
1.4. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới
Ô nhiễm kim loại ở môi trường biển đã gia tăng trong những năm gần đây
do dân số toàn cầu gia tăng và sự phát triển công nghiệp (Arellano và cộng sự,
1999 trích trong Susana và cộng sự, 2005) [18]. Ô nhiễm kim loại nặng ở nhiều
vùng cửa sông, vùng ven biển trên thế giới đã được biết từ lâu bởi tính độc hại
đe dọa đến sự sống của sinh vật thủy sinh, gây nguy cơ cho sức khỏe của con
người.
Ô nhiễm Pb và Zn là một trong những điều đáng quan tâm do ảnh hưởng
độc hại của chúng lên hệ sinh thái tại các cửa sông ở Úc, với hàm lượng rất cao
1000μg/g Pb, 2000 μg/g Zn có thể tìm thấy trong các trầm tích bị ô nhiễm (Irvine
& Birch, 1998 trích trong McFarlane & Burchett, 2002) [35]. Bryan và cộng sự
(1985) trích trong Bryan & Langston (1992) [26] đã xác định hàm lượng chì vô cơ
trong trầm tích cửa sông ở Anh biến động từ 25 μg/gtrong khu vực không bị ô
nhiễm đến hơn 2700 μg/gtrong cửa sông Gannel nơi nhận chất thải từ việc khai
thác mỏ chì. Hàm lượng của các hợp chất chì này có lẽ có nguồn gốc do sử dụng
xăng dầu pha chì. Tương tự như Pb, hàm lượng As cũng đã được xác định ở
16
nhiều vùng cửa sông, vùng ven biển trên thế giới. Hàm lượng As trong trầm tích
cửa sông đã được xác định từ 5 μg/g ở cửa sông Axe đến lớn hơn 1000 μg/g trong
các cửa sông Restronguet Creek, Cornwall nơi nhận nước thải từ các khu vực
khai thác quặng mỏ kim loại (Langstone, 1985 trích trong Bryan & Langston,
1992) [26].
Hàm lượng Cd cũng được xác định ở Anh tại các cửa sông không bị ô
nhiễm với hàm lượng 0,2 μg/kg, tại các cửa sông bị ô nhiễm nặng hàm lượng này
có thể lên đến 10 μg/g (Bryan & Langston, 1992) [26]. Sông Deule ở Pháp là một
trong những con sông bị ô nhiễm rất nặng do hứng chịu chất thải từ nhà máy
luyện kim. Hàm lượng kim loại trong trầm tích sông này rất cao (480 mg/kg)
(Neda và cộng sự, 2006) [37]. Hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích tại vùng
cửa sông, vùng ven biển trên thế giới nơi có rừng ngập mặn cũng đã được xác
định từ ít bị ô nhiễm cho đến ô nhiễm nặng. Tam & Wong (1995) [43] đã xác định
hàm Pb trong trầm tích rừng ngập mặn Sai Keng, Hong Kong với hàm lượng 58,2
μg/g Zheng & Lin (1996) [51] đã xác định hàm lượng Pb và Cd trong trầm tích
rừng ngập mặn Avicennia marina, vịnh Shenzhen với hàm lượng tương ứng 28,7
μg/g và 0,136 μg/g tương ứng. Theo Breemen (1993), Astrom & Bjorklund (1995)
[20], Sundstrom và cộng sự (2003) [24], Hoa và cộng sự (2004) [30] đã chỉ ra rằng
đất phèn là nguồn phóng thích kim loại nặng gây ô nhiễm nguồn nước. Khi đất
phèn tiềm tàng tiếp xúc với ôxy do hiện tượng tự nhiên hoặc do thoát nước nhân
tạo, pyrite bị ôxy hóa tạo ra acid sulfuric làm hạ thấp pH. Khi pH <4 các proton
được phóng thích tấn công các khoáng sét, hòa tan một số kim loại mà nồng độ
của chúng có thể vượt xa nồng độ trong các loại đất không phèn (Trần Kim Tính,
2004) [30].
1.5. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng ở Việt Nam
17
Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và
khu công nghiệp, cộng thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và biến chế trên toàn
quốc. Vấn đề ô nhiễm đang là vấn đề nan giải đối với Việt Nam.
Trong số các KLN xuất hiện trong các thủy vực với một lượng lớn phải
kể đến Asen (As), Cadimi (Cd), đồng (Cu), thủy ngân (Hg), Mangan (Mn), chì
(Pb)… Các kim loại trên và muối của chúng là những chất độc hại và là chất khá
bền vững hay khó phân hủy sinh học. Những kim loại này có chủ yếu trong nước
thải công nghiệp của các ngành liên quan tới kim loại như: công nghiệp mạ, hóa
chất, sản xuất pin, cơ khí… Nước thải công nghiệp chứa hàng loạt các chất thải
rắn, chất hữu cơ và vô cơ, các muối KLN. Các dạng tồn tại và hàm lượng của
các chất ô nhiễm có trong nước thải tùy thuộc vào loại hình công nghiệp, quá
trình sản xuất, tính hiện đại của máy móc. [8]
Tác giả Trịnh Thị Thanh và cộng sự (1993) đã chỉ ra hầu hết các ngành
công nghiệp của Hà Nội đều sản sinh ra các kim loại nặng độc hại tùy theo loại
hình và quy trình sản xuất. [13],[14],[15]
Bảng 1.2. Thành phần một số kim loại nặng có trong các ngành công
nghiệp tại Hà Nội
Các ngành
As Cd Cr Cu Hg Mn
CN luyện kim đen x
CN luyện kim
x
màu
CN dệt
CN thực phẩm,
giải khát
CN da
CN thủy tinh
CN gốm
x
x
x
S
x
e
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
i
x
Pb
x
x
x
N
x
x
x
x
x
18
x
x
x
x
Zn
x
x
CN nhựa
Sx thuốc trừ sâu
x
Sx hóa chất hữu
x
cơ
Sx hóa chất vô cơ x
Sx phân bón
x
Sx chất tẩy rửa
x
Sx sơn, bột màu
x
Sx thuốc nhuộm
x
Mạ kim loại
Sx pin, acquy
x
Sx diêm
Sx vật liệu nổ
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
(Nguồn trích dẫn: Trịnh Thị Thanh, 1993)[13]
đội ngũ quản lý, công nhân trong nhà máy.
Năm 2009, các tác giả Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp khi nghiên cứu sự
tích lũy kim loại nặng Cadmium và chì của loài hến Corbicula sp. tại vùng cửa
sông thành phố Đà Nẵng. Với thực tế phát triển công nghiệp mạnh mẽ trong
nhiều năm trở lại đây tại Đà Nẵng thì nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng của thủy
vực này là rất cao. Thực tế là từ phân tích ANOVA cho thấy hàm lương Cd tại khu
vực sông Hàn: 2,66 ± 1,55 ppm, cao hơn và khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05) so với
khu vực cửa sông Cu Đê: 1,41 ± 0,75 ppm [7]
Do cấu tạo địa chất, nhiều vùng ở nước ta nước ngầm bị nhiễm asen.
Khoảng 13,5% dân số Việt Nam (1015 triệu người) đang sử dụng nước ăn từ
nước giếng khoan, rất dễ bị nhiễm asen. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước
hiện có khoảng hơn 1 triệu giếng khoan, trong đó nhiều giếng có nồng độ asen
cao hơn từ 2050 lần nồng độ cho phép (0.01mg/l), ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ, tính mạng của cộng đồng.Tại châu thổ sông Hồng, những vùng bị nhiễm
nghiêm trọng nhất là phía Nam Hà Nội, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định,
Ninh Bình, Thái Bình và Hải Dương. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cũng phát
19
hiện nhiều giếng khoan có nồng độ asen cao nằm ở Đồng Tháp và An Giang.
[17].
Kết quả phân tích và đánh giá việc tận dụng nước thải để nuôi cá ở một
số ao đầm vùng Thanh Trì, Hà nội năm 2009 – 2010 của tác giả Lê Thu Hà
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên được công bố như sau:
+ Hàm lượng KLN trọng thịt cá có mối tương quan rõ rệt đối với hàm lượng
KLN trong nước ao nuôi. Các ao hồ nuôi cá ở Đông Mỹ, Tứ Hiệp và Yên Sở đều
dẫn nước trực tiếp từ các kênh nước thải của sông Tô Lịch và Kim Ngưu. Các
con sông này hoàn toàn chứa nước thải công nghiệp chưa qua xử lý của các nhà
máy sản xuất lớn tại Hà Nội với rất nhiều chất độc hại, đặc biệt là KLN.
+ Cá nuôi tại hồ đối chứng (Hồ Mạc ở Cúc Phương, Ninh Bình) an toàn trong sử
dụng làm thực phẩm vì hàm lượng KLN của 4 kim loại phân tích đều nằm trong
giới hạn cho phép.
+ Cả 3 loài cá nuôi tại 3 ao hồ nghiên cứu đều có hàm lượng Pb vượt quá giới
hạn an toàn thực phẩm.
+ Hàm lượng Cu trong thịt cả 3 loài cá nuôi tại các ao hồ nghiên cứu đều nằm
trong giới hạn cho phép.
+ Đối với hàm lượng Cd và Hg trong thịt cá thì có sự khác nhau lớn giữa các loài
và giữa các ao nghiên cứu.
+ Cá Trôi tích tụ KLN Pb, Hg, Cu cao hơn so với cá Rô phi, và cá Rô phi tích tụ
nhiều hơn cá Chép. Ngược lại cá Chép tích tụ KLN Cd cao hơn cá Trôi và cá Rô
phi.
+ Sự khác nhau về đặc điểm sinh học, sinh trưởng và tập tính kiếm mồi là
nguyên nhân của sự chênh lệch này.
+ Sự khác biệt về hàm lượng KLN trong thịt cá tại các ao hồ nghiên cứu so với
cá ở ao đối chứng. Cá nuôi tại các ở xã Đông Mỹ, Tứ Hiệp và Yên Sở có hàm
20
lượng KLN cao hơn, các KLN một mặt ức chế hoạt động của các enzym trong
con đường tân tạo protein do đó làm giảm hàm lượng protein trong thịt cá. Mặt
khác, khi tích lũy với nồng độ cao chúng sẽ liên kết với phân tử protein và làm
kết tủa protein khiến cho các protein không thể tác dụng với thuốc thử nữa, do đó
kết quả hàm lượng protein đo được cũng giảm.
Nghiên cứu sự phân bố và ảnh hưởng của kim loại nặng trong hồ Tây của
tác giả Lưu Lan Hương, Nguyễn Thị Thanh Nga và Bùi Thị Hoa – Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN đã cho kết quả như sau :
+ Hàm lượng các kim loại nặng phân bố trong các thành phần khác nhau của hệ
sinh thái hồ là khác nhau cao nhất trong trầm tích tiếp đến là trong các động vật
đáy, thực vật thủy sinh ngập nước, thực vật nổi, các loài cá là thấp nhất ở trong
nước.
+ Kim loại nặng có hàm lượng cao nhất trong các thàn phần của hồ là Fe, tiếp đó
là Mn, Zn, Cu, Pb, Cr, Ni, As và cuối cùng là Cd và Hg.
+ Nhìn chung hàm lượng của các kim loại nặng trong nước hồ Tây chưa cao hơn
so với tiêu chuẩn nước mặt Việt Nam. Nhưng hàm lượng của hầu hết các kim
loại nặng trong trầm tích và trong thực vật thủy sinh đều cao hơn tiêu chuẩn cho
phép của Việt Nam và nước ngoài. Một số kim loại nằng Hg, As trong trầm tích
ở một vài vị trí đã ở mức gây ảnh hưởng xầu.
+ Hàm lượng Pb, As trong động vật đáy (trùng trục, trai, ốc vặn…) là cao so với
tiêu chuẩn của Việt Nam và nước ngoài. Còn hàm lượng của các kim loại khác
trong động vật thủy sinh đều nằm trong phạm vi cho phép.
+ Tuy nhiên hai kim loại có độc tính cao là Pb và Cd đều có hàm lượng khá cao
trong các loài cá của hồ Tây, vì vậy khi người dân nơi đây sử dụng cá làm thức
ăn cần hết sức cẩn trọng.
21
CHƯƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Hồ Trúc Bạch, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Hồ Trúc Bạch là một hồ thuộc quận Ba Đình, thủ đô Hà Nội, Việt Nam,
nguyên là một phần hồ Tây. Hồ rộng 242191.278 m 2 (hơn 24,2 ha) và có tọa độ
địa lý là: vĩ tuyến: 21o03'10'' B, kinh tuyến: 105o50'20'' Đ.
22
Hình 2.1. Vị trí hồ Trúc Bạch
Hồ Trúc Bạch vốn là một phần của hồ Tây, nằm ở góc Đông Nam của hồ,
đến năm 1620 hồ được phân ra với hồ Tây nhờ đê Cố Ngự (hay còn gọi là Cổ
Ngư), chính là đường Thanh Niên ngày nay. Ngoài đường Thanhh Niên, hồ còn
được bao quanh bởi các phố Trấn Vũ, Trúc Bạch với rất nhiều nhà hàng, khách
sạn…Hiện nay hồ do Xí nghiệp thoát nước số 1 Công ty Thoát nước Hà Nội
quản lý mực nước và Công ty cổ phần Trúc Bạch nuôi thả cá. Hồ có diện tích
nước mặt là 24 ha, mực nước mặt hồ vào mùa khô là 5,8 mét, mùa mưa là 6,2
mét.
Hồ Trúc Bạch cùng với hồ Tây, hồ Gươm và các hồ khác là những lá phổi
xanh của thành phố và là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô với rất nhiều
di tích lịch sử ven hồ như đền Quán Thánh, chùa Châu Long, đền Cẩu Nhi… Đây
là điểm tham quan của du khách trong và ngoài nước đến Hà Nội, đồng thời cũng
23
là một địa điểm du ngoạn lý tưởng của người dân, đặc biệt là giới trẻ của thủ
đô.
2.1.2. Hồ Thanh Nhàn, Đường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà
Nội
Hồ Thanh Nhàn thuộc quận Hai Bà Trưng của thành phố Hà Nội, hồ
được cải tạo từ hồ tự nhiên cũ trong khu vực, làm cảnh quan phía Đông giáp
công viên tuổi trẻ, phía Nam giáp với đường Thanh Nhàn, hai phía còn lại giáp
với khu dân cư.
Hình 2.2. Vị trí hồ Thanh Nhàn
2.2. Thời gian nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tiến hành theo 4 đợt:
24
Đợt 1: 21 22/ 04 /2010
Đợt 2: 13 15/ 07 /2010
Đợt 3: 23 24/ 11 /2010
Đợt 4: 02 03/ 03 /2011
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của để tài là 5 kim loại nặng: Cu, Cd, Pb, Hg, As trong
một số nhóm sinh vật ở 2 hồ Trúc Bạch,Thanh Nhàn.
Các sinh vật nghiên cứu là cá rô phi (Oreochomic mossambicus), cá trôi Cá Trôi
Ấn Độ (Labeo rohita), cá mè trắng (Hypophthalmichthys molitrix), động vật nổi
(zooplankton), thực vật nổi (Phytoplankton),ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata),
ốc vặn (họ Thiaridae)
2.4. Phương pháp nghiên cứu.
2.4.1. Phương pháp hồi cứu.
Thu thập, phân tích và xử lý các thông tin có liên quan, như thông tin về các
kim loại nặng trong nước, trầm tích, sinh vật của các công trình đã công bố trong
nước và nước ngoài, các thông tin kinh tế, xã hội, sản xuất của khu vực quanh 2
hồ nghiên cứu.
2.4.2. Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa
Mẫu nước được lấy ở 3 tầng: Tầng mặt, tầng giữa, tầng đáy, trộn theo tỉ lệ
bằng nhau, cố định bằng axit HNO3 đậm đặc, đựng trong chai nhựa PE.
Mẫu bùn được lấy ở tầng đáy, lấy ở các điểm nghiên cứu sau đó trộn đều,
đựng trong túi nilon chuyên dụng.
Mẫu sinh vật: Được thu bằng các dụng cụ thu mẫu.
Các chai lấy mẫu nước hồ được rửa sạch, rửa lại bằng nước của điểm thu
mẫu và được dán nhãn ghi đầy đủ các chi tiết về địa điểm, ngày giờ thu mẫu.
25