PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, đất nước ta đang từng bước gia nhập vào thị
trường khu vực và thế giới, thiết lập mối quan hệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực
với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
mọi mặt của đời sống xã hội. Cùng với sự thay đổi từng ngày, từng giờ của đất
nước, ngân hàng cũng có những thay đổi khả quan. Đây được coi là ngành tiên
phong trong việc cải tổ, đổi mới, tạo đà cho đất nước đi lên. Hệ thống Ngân
hàng Việt Nam được đổi mới phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã thúc đẩy nền kinh
tế tăng trưởng mạnh mẽ. Ngành ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, là một bộ phận không thể thiếu giúp cho sự vận động hàng
hóa, tiền tệ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho sự
phát triển kinh tế của nước nhà. Nền kinh tế càng phát triển, tốc độ chu chuyển
vốn càng nhanh thì đòi hỏi ngân hàng phải tiến bộ để đáp ứng với yêu cầu cấp
thiết đặt ra trong mỗi giai đoạn sao cho có hiệu quả nhất, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh chóng, ổn định.
Đặc biệt, sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, tài chính ngân hàng là
một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất. Các ngân hàng nước ngoài,
tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau đã và đang xâm nhập vào thị
trường Việt Nam một cách mạnh mẽ. Và như thế, sức ép cạnh tranh đối với các
ngân hàng nội địa cũng tăng lên. Về phía ngân hàng Việt Nam, sẽ gặp phải khó
khăn thách thức mới, cần phải tăng tốc, nâng cao năng lực cạnh tranh để không bị
thua thiệt ngay trên chính “sân nhà”. Đây cũng chính là động lực để ngành phát
triển nhanh hơn, bền vững hơn. Mặt khác, tình hình tài chính thế giới tiếp tục có
những diễn biến phức tạp: tăng trưởng kinh tế chậm lại, thị trường tài chính toàn
cầu, thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, đặc biệt là khu vực đồng Euro vẫn
1
bất ổn, nợ công lan rộng, lạm phát toàn cầu tăng cao. Cùng với ngân hàng nhà
nước, các ngân hàng thương mại với nhiều biện pháp đã cố gắng khắc phục
những khó khăn trên, gây ra một sự cạnh tranh mạnh mẽ chưa từng có giữa các
ngân hàng trong thời gian qua. Trong môi trường cạnh tranh đó, khách hàng luôn
là nhân tố quyết định cho sự tồn tại của ngân hàng. Ngân hàng nào dành được sự
quan tâm và lòng trung thành của khách hàng thì ngân hàng đó sẽ tồn tại và phát
triển. Vì vậy, chiến lược kinh doanh hướng đến khách hàng luôn là chiến lược
quan trọng hàng đầu của các ngân hàng hiện nay. Các ngân hàng cần phải đặc
biệt chú trọng tới tất cả các yếu tố của sản phẩm dịch vụ ngân hàng để ngày
càng hoàn thiện và nâng cao hơn nữa, nhằm đem lại sự hài lòng cao nhất cho
khách hàng.
Là một đơn vị thành viên (Chi nhánh cấp I) của ngân hang Đâu t
̀
̀ ư va phat
̀ ́
triên Viêt Nam, ngân hàng Đ
̉
̣
ầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế, được cấp phép
thành lập và hoạt động theo Quyết định số 69/QĐNH5 ngày 27/03/1993 của
NHNN và Công văn số 621CV/UBND ngày 14/07/1993 của UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế. Cũng như những ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống, mặc dù
gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ những ngân hàng khác trên địa
bàn và những biến động phức tạp của kinh tế trong nước và thế giới, Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế vẫn luôn nỗ lực hết mình để phục vụ
khách hàng một cách chu đáo nhât, lam cho uy tín c
́ ̀
ủa ngân hàng trong lòng khách
hàng ngày càng tăng. Tuy nhiên, măc du đa co nhiêu cô găng nh
̣
̀ ̃ ́
̀ ́ ́
ưng sự hai long cua
̀ ̀
̉
khach hang đôi v
́
̀
́ ơi cac dich vu cua ngân hang vân ch
́ ́ ̣
̣ ̉
̀
̃ ưa cao. Do đo, đ
́ ể đáp ứng
yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng, ngân hàng đã và đang dần hoàn thiện
các sản phẩm dịch vụ nhất là các sản phẩm tín dụng để có thể trở thành người
bạn đồng hành và người hỗ trợ khách hàng trên bước đường thành công đúng
như câu khẩu hiệu của ngân hàng Đầu tư và phát triển: “Chia sẻ cơ hội, hợp tác
thành công”.
2
Vơi mong mu
́
ốn góp một phần sức mình vào trong quyết tâm đó, trong thời
gian thực tập tại ngân hàng, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Đánh giá sự hài
lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thừa Thiên Huế” để thực hiện luận văn tốt nghiệp với hi vọng có thể
giúp cho thương hiệu của ngân hàng Đầu tư và phát triển trở thành sự lựa chọn
tín nhiệm của khách hàng khi tiếp cận với hệ thống ngân hàng tại Thừa Thiên
Huế.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu mức độ hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín
dụng cá nhân của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiện Huế, từ đó đề
xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng, cải
thiện khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
* Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ tín dụng của ngân
hàng và sự hài lòng của khách hàng.
* Phân tích tình hình tín dụng cá nhân của Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Thừa Thiên Huế trong 3 năm từ 2009 – 2011 để thấy được thực trạng của hoạt
động này.
* Khảo sát và đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ tín dụng
cá nhân của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế.
* Đề xuất những giải pháp, kiến nghị định hướng nhằm nâng cao sự hài
lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín dụng cá nhân của ngân hàng Đầu tư và
phát triển Thừa Thiên Huế.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống các phương pháp nghiên cứu trong phân
tích sự hài lòng của khách hàng với sự kết hợp giữa phân tích định tính (phỏng
vấn chuyên gia) và phương pháp định lượng (phương pháp chỉ số thống kê,
phương pháp phân tích nhân tố).
3.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.2.1. Số liệu thứ cấp
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo thống kê trong hoạt động
ngân hàng, đặc biệt là bảng cân đối kế toán, các báo cáo tổng kết hoạt động kinh
4
doanh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế, Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam. Các tài liệu này chủ yếu được sử dụng để phân tích đặc
điểm chung và thực trạng tín dụng cá nhân của Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Thừa Thiên Huế.
3.2.2. Số liệu sơ cấp
Dựa trên kết quả tổng hợp tài liệu liên quan, bảng câu hỏi điều tra được
xây dựng để thu thập ý kiến khách hàng. Bảng câu hỏi điều tra được thiết kế
như sau: phần đầu là giới thiệu và mục đích của đề tài nghiên cứu nhằm tạo
thiện cảm với khách hàng nhằm dễ dàng thu thập được thông tin; phần tiếp theo
là thông tin cá nhân của khách hàng; phần chính của bảng hỏi được thiết kế với
các câu hỏi Likert gồm 5 mức độ theo thứ tự tăng dần từ 1 (Rất không đồng ý)
đến 5 (Rất đồng ý) để thu thập thông tin về sự hài lòng của khách hàng sử dụng
dịch vụ tín dụng cá nhân của ngân hàng, và phần cuối cùng của bảng hỏi là các
câu hỏi mở nhằm thu thập những đề xuất, kiến nghị của khách hàng về dịch vụ
tín dụng cá nhân của ngân hàng. Bảng hỏi được thiết kế rõ ràng và có hướng dẫn
cụ thể tránh để khách hàng không hiểu nội dung hoặc trả lời sai.
Phiếu điều tra được gửi cho những khách hàng đang sử dụng các dịch vụ
tín dụng cá nhân của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế. Số phiếu
phát ra là 400 phiếu. Phương pháp chọn mẫu được sử dụng là phương pháp chọn
mẫu thuận tiện phi xác suất.
3.3. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập thông tin từ các chuyên gia,
chuyên viên có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh tế, ngân hàng trên địa bàn
nhằm có những luận cứ cơ bản làm cơ sở tiền đề thuyết phục về mặt khoa học
và thực tiễn của địa phương để đề xuất ra những giải pháp phù hợp, có tính khả
thi.
3.4. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
5
Đối với các số liệu thứ cấp: số liệu thứ cấp thu thập được tổng hợp và
kiểm tra tính xác thực trước khi sử dụng. Các số liệu thứ cấp được tính toán theo
phương pháp phân tích kinh tế và phân tích kinh doanh để thấy rõ thực trạng hoạt
động kinh doanh cũng như hoạt động tín dụng cá nhân của ngân hàng.
Đối với số kiệu sơ cấp: toàn bộ bảng hỏi điều tra sau khi hoàn thành được
phân loại, mã hóa, làm sạch và kiểm tra tính phù hợp bằng các công cụ tương
ứng của phần mềm SPSS. Trong quá trình xử lý số liệu sơ cấp, để kiểm định độ
tin cậy của thang đo, đề tài sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra sự
chặt chẽ và tương quan giữa các biến. Phương pháp phân tích thống kê mô tả
được sử dụng để phân tích toàn bộ số liệu. Phương pháp phân tích nhân tố
(Factor Analysis) được sử dụng để nhóm tập hợp biến nghiên cứu (Items) thành
các nhân tố mới dựa vào giá trị Eigenvalue (giá trị Eigenvalue lớn hơn 1) và hệ số
tải nhân tố factor loading (hệ số tải nhân tố lớn hơn hoặc bằng 0.5) [20]. Bên
cạnh đó, để đảm bảo tính vững chắc và đáng tin cậy của phương pháp phân tích
nhân tố, cần đảm bảo hai điều kiện sau: thứ nhất, tỉ lệ số quan sát và số biến
phải lớn hơn hoặc bằng 0.5 [20]; thứ hai, hệ số tương quan của các biến trong
từng nhân tố phải lớn hơn hoặc bằng 0.3 [23]. Để tạo ra số nhân tố ít nhất và có
thể giải thích được mức phương sai cao nhất, đề tài sử dụng phương pháp xoay
Varimax.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng là khách hàng cá nhân sử dụng dịch
vụ tín dụng cá nhân của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế và các
phòng giao dịch trên địa bàn.
6
+ Thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 01/2012 đến tháng 06/2012.
Phiếu điều tra bắt đầu thực hiện vào tháng 03/2012. Sử dụng số liệu phân tích,
đánh giá tình hình tín dụng cá nhân qua các năm 2009, 2010 và 2011.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài tiến hành đánh giá sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín
dụng cá nhân của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế, làm rõ các yếu
tố tác động và mức độ tác động của các yếu tố đến sự hài lòng của khách hàng, từ
đó có những biện pháp thích hợp để ngày càng hoàn thiện các dịch vụ của ngân
hàng, tiến tới nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh trong tình hình khó
khăn hiện nay. Các giải pháp và kiến nghị đưa ra trong luận văn nhằm đem đến cho
khách hàng sự hài lòng cao nhất khi sử dụng các sản phẩm tín dụng cá nhân của
ngân hàng.
6. Kết cấu của đề tài
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trình bày lí do lựa chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu. Tóm tắt bố cục của đề tài.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Trong phần này bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Dịch vụ tín dụng cá nhân và sự hài lòng của khách hàng
Trình bày những vấn đề cơ bản về dịch vụ ngân hàng, tín dụng , sự hài
lòng của khách hàng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.
Chương 2: Sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín dụng cá
nhân của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế
Tổng quan về ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế.
Phân tích thực trạng dịch vụ tín dụng cá nhân tại ngân hàng.
Phân tích sự tác động của các yếu tố đến sự hài lòng của khách hàng.
7
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng sử
dụng dịch vụ tín dụng cá nhân của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa
Thiên Huế
Từ kết quả nghiên cứu và kiến thức có được, trình bày các giải pháp
nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ tín dụng cá nhân của
ngân hàng Đầu tư và phát triển Thừa Thiên Huế.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận của đề tài nghiên cứu. Đề xuất các kiến nghị đối với các đối
tượng liên quan nhằm thực hiện tốt giải pháp cho nội dung nghiên cứu.
8
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. DỊCH VỤ TÍN DỤNG VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH
HÀNG
1.1. DICH VU
̣
̣
1.1.1. Khái niệm dịch vụ
Dịch vụ trong kinh tế học, được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa
nhưng là ở dạng phi vật chất.
Philip Kotler cho rằng: “Dịch vụ là mọi hành động và kết quả mà một bên có
thể cung cấp cho bên kia, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu một cái
gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất
[8]”.
Nguyễn Văn Thanh lại cho rằng: “Dịch vụ là một hoạt động lao động sáng
tạo nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và làm đa dạng hóa, phong phú hóa,
khác biệt hóa, nổi trội hóa… mà cao nhất trở thành những thương hiệu, những
nét văn hóa kinh doanh và làm hài lòng người tiêu dùng để họ sẵn sàng trả tiền
cao hơn, nhờ đó kinh doanh có hiệu quả hơn [14]”.
Lưu Văn Nghiêm cho rằng: “Dịch vụ là một quá trình hoạt động bao gồm
các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa người cung cấp
với khách hàng hoặc tài sản của khách hàng mà không có sự thay đổi quyền sở
hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của
sản phẩm vật chất [12]”.
Đứng trên góc độ hàng hóa, dịch vụ là hàng hóa vô hình mang lại chuỗi giá
trị, thỏa mãn một nhu cầu nào đó của thị trường.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt, có nhiều đặc trưng riêng mà các
hàng hóa hiện hữu không có. Dịch vụ có bốn đặc điểm khác biệt với các hàng
9
hóa thông thường, đó là: tính vô hình, tính không đồng nhất, tính không thể tách
rời và tính không thể cất giữ. Chính những đặc điểm này làm cho dịch vụ trở nên
khó định lượng và không thể nhận biết bằng mắt thường được.
1.1.2.1. Tính vô hình
Dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất, không có hình dáng cụ thể,
không thể sờ mó, cân đong đo đếm một cách rõ ràng như đối với các sản phẩm
vật chất hữu hình. Khi mua sản phẩm vật chất, khách hàng có thể yêu cầu kiểm
định chất lượng sản phẩm trước khi mua, nhưng sản phẩm dịch vụ thì không thể
tiến hành đánh giá như thế. Vì dịch vụ có tính vô hình nên không có “hàng mẫu”
và cũng không thể “dùng thử” như sản phẩm vật chất. Chỉ có thể thông qua việc
sử dụng dịch vụ, khách hàng mới có thể cảm nhận và đánh giá chất lượng dịch
vụ một cách đúng đắn nhất.
1.1.2.2. Tính không đồng nhất
Đặc điểm này còn được gọi là tính khác biệt của dịch vụ. Theo đó, việc
thực hiện dịch vụ thường khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố như cách thức
phục vụ, nhà cung cấp dịch vụ, người phục vụ, thời gian thực hiện, lĩnh vực
phục vụ, đối tượng và địa điểm phục vụ. Mặt khác, cùng một loại dịch vụ lại có
nhiều mức độ thực hiện từ thứ cấp, phổ thông đến cao cấp. Vì vậy, việc đánh
giá chất lượng dịch vụ hoàn hảo hay yếu kém khó có thể xác định dựa vào một
thước đo chuẩn mà phải xem xét đến nhiều yếu tố liên quan khác trong từng
trường hợp cụ thể.
1.1.2.3. Tính không thể tách rời
Tính không thể tách rời của dịch vụ thể hiện ở việc khó phân chia dịch vụ
thành hai giai đoạn rạch ròi là giai đoạn sản xuất và giai đoạn sử dụng. Dịch vụ
thường được tạo ra và sử dụng đồng thời. Điều này không đúng với hàng hóa vật
chất; hàng hóa vật chất thông thường sau khi được sản xuất ra sẽ nhập kho, phân
10
phối qua nhiều nấc trung gian mua bán, rồi sau đó mới được tiêu dùng. Đối với
sản phẩm hàng hóa, khách hàng chỉ sử dụng được ở giai đoạn cuối cùng, còn đối
với dịch vụ, khách hàng đồng hành trong suốt hoặc một phần của quá trình tạo ra
dịch vụ.
1.1.2.4. Tính không thể lưu trữ
Dịch vụ không thể cất trữ, lưu kho rồi đem bán như hàng hóa thông
thường. Có thể ưu tiên thực hiện dịch vụ theo thứ tự trước sau nhưng không thể
đem cất trữ dịch vụ sau đó đem ra sử dụng vì dịch vụ thực hiện xong là hết,
không thể để dành cho việc tái sử dụng hay phục hồi lại. Vì vậy, dịch vụ là sản
phẩm được sử dụng ngay khi tạo thành và kết thúc ngay sau đó.
1.1.3. Dịch vụ ngân hàng
Bản thân ngân hàng là một dạng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ,
thu phí của khách hàng, được xét thuộc nhóm ngành dịch vụ. Hoạt động ngân
hàng không trực tiếp tạo ra sản phẩm cụ thể, nhưng với việc đáp ứng các nhu
cầu của dịch vụ về tiền tệ, về vốn, về thanh toán… cho khách hàng, ngân hàng
đã gián tiếp tạo ra các sản phẩm dịch vụ trong nền kinh tế.
Đứng trên góc độ thoả mãn nhu cầu khách hàng thì có thể hiểu: “Dịch
vụ ngân hàng là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân hàng
tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhất định của khách hàng trên
thị trường tài chính [5]”.
Luật các tổ chức tín dụng (2010) tại khoản 12 điều 4 nêu rõ: “Hoạt động
ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các
nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán
[11]”. Nói cách khác, dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về
vốn, tiền tệ, thanh toán… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhằm đáp ứng
nhu cầu kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản… và ngân hàng
thu chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy.
11
Trong xu hướng phát triển của ngành ngân hàng tại các nền kinh tế phát
triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài
chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân
loại và tuỳ theo trình độ phát triển của từng ngân hàng.
Hiện nay có hai quan niệm về dịch vụ ngân hàng. Một số ý kiến cho rằng,
các hoạt động sinh lời của ngân hàng thương mại ngoài hoạt động cho vay thì
được gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm này phân định rõ hoạt động tín dụng,
một hoạt động truyền thống và chủ yếu trong thời gian qua của các NHTM, với
hoạt động dịch vụ. Sự phân định như vậy trong xu thế hội nhập và mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính hiện nay cho phép ngân hàng thực thi chiến lược tập
trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt động phi tín
dụng.
Còn quan điểm thứ hai cho rằng, tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một
ngân hàng thương mại đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại
hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Quan
niệm này phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, trong phân tổ các ngành kinh
tế, ngân hàng là ngành được phân tổ trong lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, tín dụng có
thể xem là một hoạt động dịch vụ của ngân hàng.
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Cụm từ tín dụng: “Credit” xuất phát từ gốc Latinh là “Credo”, có nghĩa là
tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng là một phạm trù kinh tế. Nó ra đời, tồn tại và phát
triển cùng với phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ra đời là một tất
yếu, khách quan của nền kinh tế xã hội. Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời rất
lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất khi định nghĩa về tín dụng.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “Tín dụng là một phạm trù
kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ
này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá
12
cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Đến kỳ hạn trả nợ
người đi vay có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có
kèm hoặc không kèm một khoản lãi [15]”.
Trong bộ Tư bản, Các Mác cho rằng: “ Tín dụng dưới hình thái biểu hiện
của nó là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người
khác một số tư bản nào đó dưới hình thái hàng hoá hoặc được đánh giá thành một
số tiền nhất định. Số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời gian
đã được ấn định [2]”.
Các nhà nghiên cứu kinh tế quan niệm rằng: tín dụng được coi là quan hệ
lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả gốc
lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm
trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức
nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật
cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền
hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu
hồi…
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuy ển nh ượ ng quy ền s ử d ụng v ốn t ừ
ngân hàng cho khách hàng trong m ột th ời h ạn nh ất định với một khoản chi
phí nhất đị nh [9]”.
Luật Các tổ chức tín dụng đã được bổ sung, sửa đổi năm 2010 quy định cụ
thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của tổ chức tín dụng như sau: “Hoạt
động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy
động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách
hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác [11]”.
Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn, phát sinh bao gồm cả hoạt động
đi vay và cho vay. Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín
dụng, đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân
13
hàng, các tổ chức tín dụng với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo
nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt
động khá rộng rãi và đa dạng, việc phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dựa
vào các tiêu thức phân loại khác nhau ta có các hình thức tín dụng khác nhau.
1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Dựa trên tiêu thức này, tín dụng được chia thành ba loại:
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng, được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Loại hình tín dụng này ít rủi ro cho
ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng
thường có khả năng dự tính được những biến động đó. Tín dụng ngắn hạn bao
gồm chiết khấu, thấu chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại
tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, hoặc xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm. Loại tín
dụng này được sử dụng để cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây
dựng các nhà máy mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống,
bến cảng, sân bay…). Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do thời
gian dài, khó lường trước được những biến động có thể xảy ra.
1.2.2.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng
Dựa trên tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là hình thức cấp tín dụng phục
vụ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh. Nó
14
được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại.
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức cấp tín dụng (cho vay) để đáp ứng
nhu cầu như mua sắm nhà cửa, các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thông thường của đời sống. Đối với hình thức tín dụng
này, ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả nợ và thu nhập của khách hàng mà
ít quan tâm đến việc sử dụng khoản tín dụng có hiệu quả hay không do đó
loại tín dụng này có mức độ rủi ro cao hơn. Hạn mức tín dụng tiêu dùng chủ
yếu căn cứ vào thu nhập bình quân của người đó.
1.2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Dựa trên tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
Cho vay có bảo đảm: Là hình thức cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): Là hình thức cho vay không có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
1.2.2.4. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Dựa trên tiêu thức này, tín dụng được chia thành bốn loại:
Cho vay: Là loại hình thông dụng và phổ biến nhất trong hoạt động tín
dụng ngân hàng, nó có nghĩa là ngân hàng cho khách hàng vay tiền để phục vụ
cho những mục đích khác nhau của khách hàng. Cho vay có các loại như sau:
+ Thấu chi: “Là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng theo đó ngân
hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách
hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh và đời sống [4]”.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Thông thường khách hàng sử dụng
15
vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ
hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là nguồn vốn từ ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
+ Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả
kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tín dụng tối đa mà ngân hàng cấp cho khách hàng.
+ Cho vay luân chuyển: Là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho doanh
nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ (gốc và lãi) khi doanh nghiệp thu tiền bán
hàng.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả làm nhiều lần gốc và lãi trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài
trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán phù
hợp với khả năng trả nợ của từng khách hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Phần lớn các ngân hàng áp dụng hình thức cho vay trực tiếp; tuy nhiên bên cạnh
đó, hiện nay phần lớn các ngân hàng đều phát triển thêm hình thức này.
Chiết khấu thương phiếu (Commercial paper discounting) : Thương
phiếu là một công cụ tài chính được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán
chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (người thụ
hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (người phải
trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết
khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương
phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường ký với khách hàng hợp
đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên
ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra chất lượng của thương
16
phiếu và thực hiện chiết khấu. Vì tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân
hàng nên tính an toàn của chiết khấu thương phiếu tương đối cao. Mặc khác,
NHTM có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp.
Cho thuê tài sản (thuê mua): hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay
để khách hàng tự mua tài sản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khách hàng
không đủ (hoặc chưa đủ điều kiện) để vay vốn. Để mở rộng tín dụng, NHTM sẽ
mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê. Vì tài sản
cho thuê thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán
hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả được nợ, điều này sẽ giảm
bớt thiệt hại cho ngân hàng.
Bảo lãnh: Là sự cam kết của ngân hàng dưới hình thức văn bản về việc
ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh có ba bên: bên được bảo
lãnh, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa là ngân
hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là bên được bảo lãnh và người
nhận bảo lãnh là bên thứ ba. Bảo lãnh ngân hàng ngoài việc tạo sự tin tưởng cho
đối tác còn đem lại sự thuận tiện cho kế hoạch kinh doanh của khách hàng.
1.2.3. Lãi suất tín dụng
Lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong
một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng là giá mà người vay phải trả
để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ.
Lãi suất tín dụng của ngân hàng có tính nhạy cảm rất cao, đặc biệt nó có
tác động rất nhanh đến đối tượng vay vốn. Vì vậy, việc áp dụng lãi suất linh
hoạt, hợp lí và đúng đắn có vai trò rất quan trọng trong việc kích thích đầu tư của
đơn vị kinh doanh, đồng thời đảm bảo công bằng cho các ngành kinh tế, tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
17
Mức lãi suất tín dụng do TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy
định của NHNN về lãi suất tín dụng tại thời điểm kí kết hợp đồng tín dụng. Tổ
chức tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất tín dụng cho
khách hàng biết.
1.2.4. Tín dụng cá nhân
“Tín dụng cá nhân là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao
cho đối tượng khách hàng cá nhân một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thỏa thuận, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi [13]”.
Trong thực tế, tín dụng cá nhân là hoạt động cho vay vốn đối với các cá
nhân, hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của cá
nhân, hộ cá thể cũng như tiêu dùng phục vụ đời sống.
Dịch vụ tín dụng cá nhân có vai trò ngày càng quan trọng trong xã hội hiện
đại, thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, tín dụng cá nhân xét trên lĩnh vực kinh doanh góp phần tăng
nguồn vốn, bổ sung cho hoạt động kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình.
Thứ hai, tín dụng cá nhân xét trên lĩnh vực tiêu dùng được kỳ vọng sẽ góp
phần hỗ trợ cải thiện đời sống của nhiều người dân, kích thích tiêu dùng, gián
tiếp góp phần tháo gỡ khó khăn trên thị trường bất động sản và các hoạt động
thương mại khác, cũng như tạo cơ hội để các ngân hàng phát triển lĩnh vực bán
lẻ.
Thứ ba, tín dụng cá nhân góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa
phát triển. Trong nền kinh tế thị trường các cá nhân, hộ gia đình không thể tiến
hành tổ chức sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ nguồn vốn tín dụng cá
nhân, các chủ thể kinh tế không những bảo đảm quá trình sản xuất kinh doanh
được tiến hành bình thường, liên tục mà còn mở rộng kinh doanh.
Thứ tư, tín dụng cá nhân nói riêng và tín dụng nói chung góp phần ổn định
tiền tệ, ổn định giá cả. Trong khi thực hiện chức năng thứ nhất là tập trung và
phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu
18
thông trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong dân cư, làm giảm áp lực lạm
phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Đồng thời, tín dụng cũng cung cấp
vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức sản xuất kinh doanh, làm cho
sản xuất ngày càng phát triển đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội,
góp phần làm ổn định thị trường giá cả trong nước. Từ đó, góp phần ổn định đời
sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội.
1.3. SỰ HAI LONG CUA KHACH HANG
̀
̀
̉
́
̀
1.3.1. Quan niệm về sự hài lòng
Có rất nhiều nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng với nhiều bài luận và
công trình của nhiều tác giả, trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
này.
Sau khi khách hàng thực hiện hành vi mua, tiến hành tiêu dùng hay loại bỏ,
họ có thể đánh giá kết quả của quyết định mua. Nếu đánh giá thuận lợi, nghĩa là
nếu nhu cầu hay mục đích của khách hàng được đáp ứng sau thì họ sẽ cảm thấy
hài lòng và ngược lại. Sự hài lòng có thể gắn liền với cảm giác tin tưởng, hạnh
phúc, khuây khỏa, háo hức và sung sướng. Sự hài lòng là tình cảm nảy sinh khi
người tiêu dùng đánh giá thuận lợi hay cảm thấy hài lòng với một quyết định
[10].
Cụ thể hơn, sự hài lòng của khách hàng là sự phản hồi tình cảm, cảm
nhận của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở so sánh sự khác
biệt giữa những gì họ nhận đuợc so với mong đợi trước đó [24],[27].
Trên quan điểm đó, Kotler và Keller cho rằng: sự hài lòng là mức độ của
trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được
từ sản
phẩm với những kỳ vọng của người đó. Theo đó, sự hài lòng có ba cấp độ: nếu
nhận thức của khách hàng nhỏ hơn kỳ vọng thì khách hàng cảm nhận không hài
lòng; nếu nhận thức bằng kỳ vọng thì khách hàng cảm nhận hài lòng; nếu nhận
thức lớn hơn kỳ vọng thì khách hàng cảm nhận rất thỏa mãn hoặc thích thú [21].
19
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng sự hài lòng của khách hàng
luôn gắn liền với những yếu tố như: tình cảm, thái độ đối với nhà cung cấp dịch
vụ; mong đợi của khách hàng về khả năng đáp ứng nhu cầu của nhà cung cấp;
kết quả thực hiện dịch vụ (các giá trị do dịch vụ mang lại); ý định sẵn sàng tiếp
tục sử dụng dịch vụ.
1.3.2. Nhân tố quyết định sự hài lòng của khách hàng
Mang lại sự hài lòng cho khách hàng trong một môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt là một công việc khó. Để có thể làm hài lòng khách hàng một
cách hiệu quả, cần thiết phải hiểu được những nhu cầu và mong muốn của họ.
Điều này đúng với bất kỳ một doanh nghiệp nào dù nhỏ, trung bình hay một công
ty đa quốc gia lớn. Điều này cũng đúng trong tiếp thị công nghiệp cũng như trong
tiếp thị tiêu dùng. Sự hài lòng cao độ của khách hàng là những gì mà một công ty
cần phấn đấu đạt được. Đó là cách tốt nhất để thu hút và giữ được khách hàng.
Sự trung thành của khách hàng chỉ có thể có được với một sự hài lòng cao bởi vì
chúng tạo ra một sự ưa thích về mặt tình cảm, một điều còn đang thiếu trong sự
hài lòng thông thường chỉ tạo ra một sự trung thành hạn chế, nghĩa là có thể có
sự thay đổi về hàng hoá và người cung cấp. Những khách hàng được hài lòng cao
cũng ít quan tâm hơn đến vấn đề giá cả. Một trong những chìa khoá trong quá
trình đạt được sự hài lòng của khách hàng là vấn đề tiếp thị về mối quan hệ với
khách hàng, nghĩa là phải xây dựng những mối quan hệ chặt chẽ với tất cả
những người có lợi ích nhằm mang lại những giá trị dài hạn cho khách hàng, dẫn
đến sự hài lòng về lâu dài của khách hàng. Sự hài lòng của khách hàng là một
trạng thái tâm lý kích thích nảy sinh khi khách hàng tiếp nhận sản phẩm, dịch vụ.
Như vậy, có những nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng. Đặc biệt
đối với dịch vụ ngân hàng thì các nhân tố đó là chất lượng dịch vụ và giá cả dịch
vụ.
1.3.2.1. Chất lượng dịch vụ
a. Khái niệm chất lượng dịch vụ
20
Vấn đề về chất lượng vốn đã phức tạp đối với các sản phẩm hữu hình, lại
càng phức tạp hơn đối với các dịch vụ. Chất lượng gồm hai yếu tố, khách quan
và chủ quan, chất lượng khách quan là chất lượng liên quan với các thành phần
của sản phẩm và dịch vụ, chất lượng chủ quan được tạo thành bởi sự thỏa mãn
của người tiêu dùng thông qua sự nhận thức, sự chờ đợi trước khi tiêu dùng dịch
vụ và những thuộc tính mà người tiêu dùng gán cho sản phẩm dịch vụ.
Những sản phẩm dịch vụ có đặc điểm vô hình (không thể cân đo đong đếm
và rất khó kiểm soát chất lượng), không đồng nhất (thay đổi từ khách hàng này
sang khách hàng khác, từ người cung cấp này sang người cung cấp khác, từ thời
điểm này tới thời điểm khác), không thể tách rời (nhất là những dịch vụ có hàm
lượng lao động cao) và không thể cất trữ. Đánh giá chất lượng dịch vụ không dễ
dàng, cho đến nay còn rất nhiều tranh cãi giữa các lý thuyết cũng như các nhà
nghiên cứu trong việc định nghĩa, đánh giá chất lượng dịch vụ.
Theo Lưu Văn Nghiêm: “Chất lượng dịch vụ là mức độ hài lòng của khách
hàng trong quá trình cảm nhận, tiêu dùng dịch vụ, là dịch vụ tổng hợp của doanh
nghiệp mang lại chuỗi lợi ích và thoả mãn đầy đủ nhất giá trị mong đợi của
khách hàng trong hoạt động sản xuất cung ứng và phân phối dịch vụ ở đầu ra
[12]”.
Parasuraman và cộng sự cho rằng: “ Chất lượng dịch vụ được xem như
khoảng cách giữa mong đợi về dịch vụ và nhận thức của khách hàng khi sử dụng
dịch vụ [25]”. Đặc điểm chính của chất lượng dịch vụ là nó không bao giờ có
sẵn trước và bao giờ cũng có tính tương đối.
b. Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng
Chất lượng dịch vụ là nhân tố tác động lớn nhất đến sự hài lòng của
khách hàng [17],[19]. Nếu nhà cung cấp dịch vụ mang đến cho khách hàng những
sản phẩm có chất lượng thỏa mãn nhu cầu của họ thì doanh nghiệp đó đã bước
đầu làm cho khách hàng hài lòng.
21
Do đó, muốn nâng cao sự hài lòng khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ
không còn cách nào khác hơn là phải nâng cao chất lượng dịch vụ. Nói cách khác,
chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có quan hệ tương hỗ chặt chẽ
với nhau (positive relationship). Trong đó mối quan hệ đó, chất lượng dịch vụ là
cái được tạo ra trước và sau đó quyết định đến sự hài lòng của khách hàng. Mối
quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này là vấn đề mấu chốt trong hầu hết các
nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng. Trong nghiên cứu về mối quan hệ
giữa hai yếu tố này, Spreng và Mackoy (1996) cũng chỉ ra rằng chất lượng dịch
vụ là tiền đề của sự hài lòng khách hàng [26].
Theo Oliver (1999), tuy có quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng chất lượng
dịch vụ và sự hài lòng khách hàng có sự khác biệt nhất định thể hiện ở những
khía cạnh sau: Thứ nhất, các tiêu chí đo lường chất lượng dịch vụ mang tính cụ
thể trong khi sự hài lòng khách hàng có liên quan đến nhiều yếu tố khác ngoài
chất lượng dịch vụ như giá cả, quan hệ khách hàng, thời gian sử dụng dịch vụ…
Thứ hai, các đánh giá chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào việc thực hiện
dịch vụ (service delivery) như thế nào nhưng sự hài lòng khách hàng lại là sự so
sánh giữa các giá trị nhận được và các giá trị mong đợi đối với việc thực hiện
dịch vụ đó.
Thứ ba, nhận thức về chất lượng dịch vụ ít phụ thuộc vào kinh nghiệm
với nhà cung cấp dịch vụ, môi trường kinh doanh trong khi sự hài lòng của khách
hàng lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố này hơn [24].
Việc tìm hiểu sự khác biệt này sẽ giúp chúng ta hạn chế được sự nhầm
lẫn giữa việc xác định các nhân tố quyết định chất lượng dịch vụ và các nhân tố
tác động đến sự hài lòng khách hàng.
b. Mô hình 5 khoảng cách chất lượng dịch vụ SERVQUAL
Mô hình SERVQUAL do Parasuraman và cộng sự (1985) xây dựng và phát
triển [25]. Dựa theo mô hình, chất lượng dịch vụ được đánh giá dựa vào năm
khoảng cách. Mô hình này được sử dụng phổ biến bởi tính cụ thể, chi tiết và
22
công cụ đánh giá luôn được tác giả cùng đồng nghiệp kiểm định và cập nhật. Sơ
đồ 1.1 trình bày mô hình 5 khoảng cách (khác biệt) dùng để đánh giá chất lượng
dịch vụ.
Thông tin từ các
nguồn khác nhau
Trải nghiệm
Nhu cầu cá nhân
trước đây
Dịch vụ mong đợi
Khoảng cách
D5ịch vụ tiếp nhận
Khoảng cách 1
Khách hàng
Nhà cung cấp
Dịch vụ chuyển giao
Khoảng cách 4
Khoảng cách
3
Thông tin đến
khách hàng
Chuyển đổi cảm nhận
thành yêu cầu chất
lượng
Khoảng cách
2
Nhận thức của công
ty về kỳ vọng của
khách hàng
Sơ đồ 1.1: Mô hình 5 khoảng cách chất lượng dịch vụ
Trong đó:
Khoảng cách 1: Khác biệt giữa sự mong đợi của khách hàng và sự hiểu
biết của nhà cung cấp về mong đợi của khách hàng. Sự hiểu biết này sẽ tác động
lên cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ.
23
Khoảng cách 2: Nhà cung cấp truyền đạt sai hoặc không truyền đạt được
kỳ vọng của khách hàng thành quy trình, đặc tính chi tiết chất lượng dịch vụ.
Những nguyên nhân cơ bản chi phối khoảng cách này chia làm 3 nhóm:
* Nhóm nguyên nhân về nguồn lực: lực lượng lao động, kỹ năng lao động,
công cụ, trang thiết bị, các tài nguyên khác.
* Nhóm nguyên nhân bắt nguồn từ thị trường: quy mô nhu cầu, sự biến
động của nhu cầu, mùa vụ tiêu dùng hoặc khó khăn về nguồn lực, sự thay đổi
trong đặc điểm nhu cầu làm cho thuộc tính dịch vụ khác với sự nhận biết của
nhà cung cấp đối với sự mong đợi của khách hàng.
* Nhóm nguyên nhân b ắ t ngu ồn t ừ các nhà cung cấp: Các nhà cung
cấ p không đ ị nh h ướ ng ch ấ t l ượ ng d ịch v ụ theo s ự mong đợ i củ a khách hàng
mà theo ch ủ quan c ủa h ọ. H ọ xác đị nh các chỉ tiêu chấ t lượ ng dị ch vụ dự a
trên võ đoán ch ủ quan. S ự bàng quan c ủa các nhà cung cấp cũng là yế u tố
tạ o nên kho ả ng cách nêu trên.
Khoảng cách 3: Sự khác biệt giữa đặc tính chi tiết chất lượng dịch vụ
được nhận biết tới quá trình thực tế, phân phối tới khách hàng. Mặc dù có thể có
sự chỉ dẫn để thực hiện các dịch vụ được tốt và đối xử với khách hàng đúng
đắn, tuy nhiên chưa hẳn đã có những dịch vụ chất lượng cao. Các nhà cung cấp
đều thừa nhận rằng các nhân viên cung cấp dịch vụ có tác động rất lớn đến chất
lượng dịch vụ mà khách hàng cảm nhận được. Quá trình chuyển giao dịch vụ của
các nhân viên không đồng đều và không thể chuẩn hóa được. Do vậy, khoảng
cách giữa những đặc tính, chi tiết chất lượng dịch vụ của ngân hàng với quá trình
phân phối nó sẻ ảnh hưởng đến sự đánh giá về chất lượng dịch vụ nhận được
của khách hàng.
Khoảng cách 4: Sự khác biệt giữa dịch vụ thực tế phân phối và cung cấp
với những thông tin mà khách hàng nhận được qua hoạt động truyền thông về
dịch vụ đó. Phương tiện quảng cáo và những phương tiện truyền thông khác của
ngân hàng về dịch vụ sẽ ảnh hưởng tới mong đợi của khách hàng. Nếu sự mong
24
đợi giữ vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận chất lượng dịch vụ của khách
hàng thì nhà cung cấp không nên hứa hẹn nhiều bằng giao tiếp mà phải phân
phối nó trên thực tế. Hứa hẹn nhiều hơn thực tế cung cấp sẽ làm tăng mong đợi
ban đầu và giảm đi sự nhận biết chất lượng khi lời hứa không được thực hiện.
Truyền thông không những tác động lên sự mong đợi của khách hàng mà
còn tác động đến sự tiếp nhận của họ đối với dịch vụ được phân phối. Nói cách
khác, những điều không thống nhất giữa phân phối và giao tiếp bên ngoài (truyền
thông) dưới dạng phóng đại những lời hứa hoặc thiếu thông tin về phân phối
dịch vụ có thể tác động tới sự tiếp nhận chất lượng dịch vụ của khách hàng.
Khoảng cách 5: Sự khác biệt giữa dịch vụ mong đợi và dịch vụ thực tế
nhận được. Vấn đề mấu chốt là đảm bảo chất lượng dịch vụ; những giá trị
khách hàng nhận được trong hoạt động chuyển giao phải đạt được hoặc vượt
quá những gì mà khách hàng chờ mong.
Tóm lại, việc đánh giá chất lượng dịch vụ cao hay thấp phụ thuộc vào
khách hàng đã nhận được dịch vụ thực tế như thế nào trong bối cảnh họ mong
đợi những gì. Chất lượng mà khách hàng cảm nhận được trong một dịch vụ là
một chức năng của cỡ và hướng của khoảng cách giữa dịch vụ nhận được và
dịch vụ mong đợi
Khoảng cách 5 là tổng của 4 khoảng cách trên, hay nó chính là sai lệch
giữa dịch vụ nhận được và kỳ vọng của khách hàng
KC5 = F(KC1, KC2, KC3, KC4)
c. Thang đo chất lượng dịch vụ SERVQUAL và SERVPERF
Mô hình năm khoảng cách là mô hình tổng quát, mang tính chất lý thuyết
về chất lượng dịch vụ. Để có thể thực hành được, Parasuraman và cộng sự đã cố
gắng xây dựng thang đo dùng để đánh giá chất lượng trong lĩnh vực dịch vụ, theo
ông bất kỳ dịch vụ nào chất lượng cũng được khách hàng cảm nhận dựa trên 10
thành phần sau: 1. Tin cậy (reliability), 2. Đáp ứng (responseveness), 3. Năng lực
phục vụ (competence), 4. Tiếp cận (assess), 5. Lịch sự (courtesy), 6. Thông tin
25