1
TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG TỪ GÓC NHÌN
TRẦN THUẬT
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian trôi qua, tác phẩm của Khái Hưng và của Tự lực văn
đoàn (TLVĐ) là một trong nhiều hiện tượng văn học được nhìn nhận,
đánh giá lại, càng ngày càng khách quan khoa học hơn. Tuy vậy, vẫn
phải tìm thêm hướng tiếp cận, phương pháp, thao tác nghiên cứu mới
để sáng tác của cá nhân ông cũng như văn đoàn của ông đầy đủ, thỏa
đáng hơn.
Mặt khác, việc nghiên cứu sáng tác của Khái Hưng, lâu nay mới
chỉ tập trung nhiều vào tiểu thuyết mà chưa chú ý đến đúng mức đến
các mảng sáng tác khác của ông, nhất là truyện ngắn, đồng thời chưa
đặt từng bộ phận sáng tác ấy trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau,
cũng như sự tác động qua lại giữa sáng tác của Khái Hưng với sáng
tác của các nhà văn trong cùng văn đoàn. Đã đến lúc phải có những
nghiên cứu bổ sung và khắc phục sự khiếm khuyết này: cần phải
“đánh giá lại”, “định vị” tiểu thuyết truyện ngắn của Khái Hưng trong
văn xuôi TLVĐ theo những hướng tiếp cận cũng như trong những mối
quan hệ chưa được chú ý đến.
Một trong những hướng tiếp cận có triển vọng là ứng dụng
nghiên cứu loại hình từ lý thuyết tự sự học để xem xét văn xuôi nghệ
thuật của Khái Hưng trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ. Theo hướng đó,
chúng tôi chọn đề tài: “Tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng từ góc
nhìn trần thuật” để thực hiện luận án tiến sĩ này.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án đề xuất hướng tiếp cận đặc điểm, phong cách sáng
tác văn xuôi tự sự của Khái Hưng theo hướng loại hình hóa mô thức
trần thuật.
Mô tả đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng theo thể
tài và các mô thức trần thuật chủ yếu.
2
Khẳng định vị trí, đóng góp của Khái Hưng đối với sự phát
triển văn xuôi TLVĐ nói riêng và của văn xuôi Việt Nam hiện đại
trước 1945 nói chung.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mục Lịch sử nghiên cứu vấn đề tổng hợp, đánh giá tình hình
nghiên cứu theo các góc độ dưới đây:
Về đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn đối với tiến trình phát
triển của văn học dân tộc
Về tình hình nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật Khái Hưng
trong bối cảnh TLVĐ
Về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
từ góc nhìn trần thuật
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ – được nhìn chủ yếu từ góc nhìn trần
thuật – luận án tập trung khảo sát 14 thiên tiểu thuyết và 67 truyện
ngắn của Khái Hưng thời Tự lực văn đoàn. Đây là các tác phẩm đã
đăng báo Phong hóa, Ngày nay và sau in thành sách, tái bản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dưới ánh sáng của lý thuyết tự sự học, trong khi thực hiện đề
tài, luận án vận dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp nghiên cứu loại hình, phương pháp hệ thống, phương
pháp xã hội học, phương pháp liên ngành, phương pháp thống kê, so
sánh... trong đó đặc biệt phương pháp nghiên cứu loại hình và phương
pháp thống kê, so sánh được xem là các phương pháp chủ đạo.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Người viết khảo sát một cách nhất quán đặc điểm trần thuật
của tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng. Cách xem xét này giúp ta
hình dung được toàn bộ đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết, truyện
ngắn của Khái Hưng không phải như một tổng số các đặc điểm rời
rạc, mà như một chỉnh thể thống nhất các nét độc đáo xuyên suốt nội
dung và hình thức các tác phẩm. Trên cơ sở nhận diện đúng các kiểu
3
mô thức trần thuật trong truyện ngắn tiểu thuyết c ủa ông, có cái nhìn
mới mẻ, thỏa đáng về những đóng góp nghệ thuật của ông.
7. Đóng góp mới của đề tài
Thực hiện đề tài này, luận án có thể mang lại những đóng góp
mới sau đây:
Mô tả đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái
Hưng theo ba thể tài tiểu thuyết và mô thức trần thuật chủ yếu.
Khái quát một số nét độc đáo có giá trị thẩm mĩ trong sáng tác
văn xuôi Khái Hưng nói chung, phong cách kiến tạo, tổ chức
diễn ngôn trần thuật của ông nói riêng..
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án triển khai thành 3
chương:
Chương 1. Văn xuôi Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn và việc
nghiên cứu tiểu thuyết truyện ngắn của ông từ góc nhìn trần thuật
Chương 2. Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng nhìn
từ mô thức trần thuật
Chương 3. Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng nhìn
từ phong cách kiến tạo diễn ngôn trần thuật.
4
CHƯƠNG 1. VĂN XUÔI KHÁI HƯNG TRONG TỰ LỰC VĂN
ĐOÀN VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN
CỦA ÔNG TỪ GÓC NHÌN TRẦN THUẬT
1.1 Nhìn chung về tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng trong bối
cảnh văn xuôi TLVĐ
1.1.1. Trước tác của Khái Hưng – một sự nghiệp phong phú, đa
dạng
Khái Hưng là người có sức sáng tạo dồi dào và có thành tựu nổi
bật trên nhiều thể loại. Không kể một đôi lần làm thơ, vẽ tranh, sức
sáng tạo chủ yếu của Khái Hưng tập trung vào nghệ thuật ngôn từ.
Ngoài sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện viết cho thiếu nhi,
Khái Hưng đồng thời cũng là người soạn kịch, viết xã luận, chính
luận,… với nhiều bút danh.
1.1.2. Những thăng trầm, khác biệt trong tiếp nhận văn chương
Tự lực văn đoàn và văn chương của Khái Hưng
Xu hướng chung trong nghiên cứu đánh giá văn chương TLVĐ
vài ba thập niên gần đây là: Một mặt, các nhà nghiên cứu chia sẻ
những đánh giá thỏa đáng trong các công trình bài viết của học giả
từng được công bố trước 1945 hoặc ở miền Nam 19541975. Mặt
khác, vận dụng các lý thuyết phương pháp tiếp cận văn học hiện đại
để đọc lại, phát hiện lại giá trị văn chương của TLVĐ ở cả hai cấp
độ: cấp độ nhóm tác giả (văn đoàn) và cấp độ tác giả, tác phẩm cụ
thể.
Những định kiến chủ quan, thậm chí, cả lối quy chụp xã hội học
dung tục, dần được khắc phục, để từng bước trả lại các giá trị, địa vị
vốn có cho văn chương TLVĐ trong bối cảnh hiện đại hóa văn học
19321945 và trong văn mạch văn học dân tộc.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ, để khắc phục tình trạng thăng
trầm, khác biệt, thậm chí trái ngược trong nhận định đánh giá Khái
Hưng cũng như với TLVĐ, và để có được một tiếng nói có nhiều
điểm chung như ngày nay, giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam
5
(miền Bắc và miền Nam, trong nước và ngoài nước, thế hệ trước và
thế hệ sau,…) đã phải đi một chặng đường rất dài.
1.2. Vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết,
truyện ngắn Khái Hưng dưới ánh sáng của lý thuyết tự sự học
1.2.1. Tự sự học và việc ứng dụng tự sự học vào nghiên cứu
truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
Tự sự học ngày hôm nay rất phát triển và hết sức bề bộn, với
nhiều khái niệm, nhiều bình diện, cấp độ khác nhau. Riêng phương
thức trần thuật thường được xem xét như là một chiến lược kể
chuyện được thực hiện trong văn bản nghệ thuật. Những năm gần
đây, chuyên ngành này ngày càng phát triển, đặc biệt, nhiều tác giả có
xu hướng gắn nghiên cứu tự sự học trong quan hệ với văn hoá, với
đặc tính dân tộc,... Nhìn chung các nghiên cứu tự sự học ở Việt Nam
hiện nay tập trung nhiều vào giới thiệu lý thuyết. Những lý thuyết ấy
tuy mới là phác hoạ nhưng khá chi tiết và chuyên sâu giúp người
nghiên cứu quan tâm tới tự sự học. Chúng giúp ta thấy được phần nào
tính phong phú, phức tạp, cũng như khó khăn thách thức trong hướng
tiếp cận này trong nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam, nghiên cứu
Khái Hưng, văn xuôi TLVĐ. Dầu sao đây vẫn là một hướng tiếp cận
triển vọng, một cánh cửa chỉ mới vừa mở ra.
1.2.2. Giới hạn về thành tựu nghiên cứu nghệ thuật trần
thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng và sự cần thiết
khơi mở những hướng đi mới
Việc nghiên cứu, đánh giá văn xuôi nghệ thuật của Khái Hưng,
nhất là lĩnh vực tiểu thuyết, truyện ngắn, nhìn từ góc nhìn trần thuật
học, hầu như chưa có nhiều những công trình nghiên cứu thật sự
chuyên sâu.
Tuy nhiên, qua thu thập tài liệu, chúng tôi có thể thấy được
những đóng góp của các nhà nghiên cứu đi trước về nghệ thuật trần
thuật trong văn Khái Hưng, ở phương diện: cốt truyện kết cấu, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật (gồm: điểm nhìn trần
thuật, giọng điệu trần thuật, nhịp điệu trần thuật) và đặc trưng ngôn
ngữ nghệ thuật, hình tượng người kể chuyện. Những công trình
6
nghiên cứu, bài báo khoa học này, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù độ
đậm nhạt khác nhau, đều có những đóng góp đáng ghi nhận trong việc
tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của Khái Hưng.
Tuy vậy, dễ dàng nhận thấy các thành tựu nói trên vẫn chưa tạo
nên một bước chuyển về chất, những bước đột phá thật sự trong
nghiên cứu loại hình tiểu thuyết nói chung, trần thuật nói riêng.
1.3. Lý thuyết tự sự học trong nghiên cứu tiểu thuyết và hướng
tiếp cận loại hình hóa mô thức trần thuật trong tiểu thuyết
truyện ngắn Khái Hưng – những ứng dụng và giới hạn
1.3.1. Nguyên nhân của sự bất cập trong nghiên cứu loại hình
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Do có một số đặc điểm vận động nội tại riêng trong quá trình
hình thành phát triển của xu hướng tiểu thuyết TLVĐ trong đó có tiểu
thuyết Khái Hưng, các nhà nghiên cứu thường không hẹn mà gặp khi
thực hiện các công trình chuyên khảo liên quan đến tiểu thuyết TLVĐ
của họ: nhu cầu và ý hướng phân loại (loại hình hóa) theo tinh thần
nghiên cứu loại hình. Các nhà nghiên cứu, từ góc nhìn, chủ kiến, mức
độ quan tâm riêng của mình thường đề xuất một hướng phân loại
trong công trình của họ.
1.3.2. Nguyên tắc phân loại của phương pháp nghiên cứu loại
hình
Cụ thể, từ nhận xét, đánh giá của số đông các nhà nghiên cứu
phê bình văn xuôi TLVĐ, có thể rút ra mấy điểm thống nhất sau đây
có ích cho loại hình hóa tiểu thuyết truyện ngắn Khái Hưng (trong văn
xuôi TLVĐ): Thứ nhất, về quá trình, cũng như tiểu thuyết TLVĐ nói
chung, tiểu thuyết Khái Hưng nói riêng vận động theo ba chặng
đường vừa tiếp nối vừa khác biệt, vừa đa dạng, phong phú, vừa thống
nhất trên nét lớn. Thứ hai, về tư tưởng và cảm hứng, tuy giữa ba
chặng có biến đổi, khác biệt, song điều cốt lõi, bất biến trong tư
tưởng, cảm hứng của cả ba chặng vẫn là sự ý thức về cá nhân dựa
trên nền tảng đề cao chủ nghĩa cá nhân. Thứ ba, về tính chất, đặc
trưng, tiểu thuyết Khái Hưng có đủ các yếu tố chủ quan và khách
7
quan, hướng nội và hướng ngoại, lãng mạn và hiện thực, minh chứng
luận đề và phân tích tâm lý.
Như thế, ý thức cá nhân là bất biến, các biểu hiện cụ thể sinh
động mang tính lịch đại của nó là khả biến. Theo đó việc tập trung
khám phá con người tâm lý – con người bên trong con người là một
tiêu chí loại hình hóa quan trọng bất biến. Dựa trên tiêu chí bất biến
này ta đi tìm cái khả biến cũng tức là tìm các dấu hiệu khu biệt loại
hình. Cái khả biến ấy chính là đây: các hình thức chính biểu hiện mâu
thuẫn xung đột làm nên kịch tính, độ căng của tiểu thuyết Khái Hưng
cũng như tiểu thuyết Nhất Linh trong bối cảnh bất đồng và đấu tranh
tư tưởng ý thức hệ, giành chiến thắng cho Âu hóa của đời sống đô thị
tiền hiện đại. Đó là con người cá nhân đấu tranh với thách thức của
hoàn cảnh, của dục vọng thông thường để theo đuổi lý tưởng – cơ sở
hình thành, phát triển loại hình tiểu thuyết lý tưởng (Hồn bướm mơ
tiên, Gánh hàng hoa,…). Là con người cá nhân “tân tiến” đấu tranh với
những ràng buộc “Nho phong” cổ hủ của đại gia đình và của các “nội
tướng”, “gia trưởng” độc đoán, vô hồn, vô cảm để thực thi quyền tự
do cá nhân trong tình yêu, hôn nhân mưu cầu hạnh phúc và/ hoặc lựa
chọn một lối sống, theo đuổi một lý tưởng – là cơ sở hình thành, phát
triển loại hình tiểu thuyết luận đề (Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân,
Gia đình, Thừa tự…). Là con người cá nhân đa nhân cách, vừa đắc ý
vừa hoang mang trong cuộc phiêu lưu tinh thần để tự khẳng định,
khám phá, thử thách cái tôi bản ngã của mình với biết bao lưỡng lự,
băn khoăn – là cơ sở để hình thành, phát triển loại hình tiểu thuyết
tâm lý (Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa,…).
1.3.3. Loại hình hóa mô thức trần thuật trong nghiên cứu tiểu
thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
Nghiên cứu loại hình (loại hình hóa) tiểu thuyết là một hướng đi
khá mới mẻ, triển vọng, tuy rằng đây cũng là một hành trình mà nhà
nghiên cứu phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức. Vận dụng
phương pháp loại hình hóa theo nguyên tắc, trên cơ sở khảo sát kỹ đối
tượng nghiên cứu, chúng tôi đề xuất danh mục loại hình thể tài tiểu
8
thuyết của Khái Hưng trong bối cảnh văn xuôi TLVĐ gồm ba nhóm
loại hình như sau:
1) “Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”: Hồn bướm mơ tiên,
Gánh hàng hoa,…
2) “Tiểu thuyết tục lụy và hành động”: Nửa chừng xuân, Gia
đình, Thừa tự,…
3) “Tiểu thuyết tâm lý”: Đời mưa gió, Đẹp, Thanh Đức.
Xét riêng về phương thức trần thuật, cũng bằng thao tác loại
hình hóa nhưng theo “mô thức trần thuật”, luận án giả định rằng: có
thể tìm kiếm các mô thức trần thuật tương ứng với các nhóm loại
hình hay loại hình tiểu thuyết nêu trên. Chẳng hạn, sẽ có: Mô thức
trần thuật Tiền luận đề (ứng với “Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”),
mô thức trần thuật Luận đề (ứng với “Tiểu thuyết tục lụy và hành
động”), mô thức trần thuật Hậu luận đề (ứng với “Tiểu thuyết tâm
lý”),…
TIỂU KẾT
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI
HƯNG NHÌN TỪ MÔ THỨC TRẦN THUẬT
2.1. Mô thức và mô thức trần thuật trong tiểu thuyết, truyện
ngắn Khái Hưng từ cái cái nhìn loại hình hóa
2.1.1. Nghiên cứu loại hình và loại hình hóa mô thức trần thuật
trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
Trước hết cần xác định khái niệm mô thức và mô thức trần
thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn nói chung. Nghĩa thứ nhất – mô
thức (paradigm) – được hiểu và sử dụng như khái niệm hệ hình.
Nghĩa thứ hai – mô thức (paradigm) – hiểu như một cách tiếp cận đối
tượng, hay một dạng thức, hình mẫu làm chuẩn, nhằm tiếp cận đối
tượng hoặc giải quyết vấn đề.
Ở cấp độ thứ nhất, mô thức – hiểu theo nghĩa hệ hình – là một
thuật ngữ khoa học. Thuật ngữ này – paradigm – bắt đầu được sử
9
dụng trong ngành vật lý học rồi dịch chuyển vào các chuyên ngành
khoa học xã hội (triết học, ngôn ngữ học, mĩ học, văn hóa học, xã hội
học, nghiên cứu văn học,…). Trong lĩnh vực khoa học xã hội các
trường hợp này người ta thường dùng hệ hình: Hệ hình tiền hiện đại,
hệ hình hiện đại, hệ hình hậu hiện đại. Nhưng cũng có người vẫn
dịch là mô thức. Ví dụ: “Khoa học và Mô Thức Luận của Thomas
Kuhn” (Đinh Thế Phong, Tia sáng).
Ở cấp độ thứ hai, theo nghĩa rộng, mô thức (paradigm) được
hiểu như là cách thức (hay một mô hình, hình mẫu) tiếp cận đối
tượng. Từ đây, tác giả luận án sử dụng khái niệm mô thức theo nghĩa
này để khảo sát, khái quát đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết,
truyện ngắn Khái Hưng.
Khái niệm mô thức trần thuật, theo đó, được hiểu như là cách
thức tiếp cận đối tượng, chuyển tải nội dung tự sự, hoặc được hiểu
như hình mẫu tổ chức trần thuật trong tác phẩm văn xuôi hư cấu
(fiction).
Ở cấp độ thứ hai, theo nghĩa rộng, mô thức (paradigm) được
hiểu như là cách thức (hay một mô hình, hình mẫu) tiếp cận đối
tượng. Từ đây, tác giả luận án sử dụng khái niệm mô thức theo nghĩa
này để khảo sát, khái quát đặc điểm trần thuật trong tiểu thuyết,
truyện ngắn Khái Hưng.
Khái niệm mô thức trần thuật, theo đó, được hiểu như là cách
thức tiếp cận đối tượng, chuyển tải nội dung tự sự, hoặc được hiểu
như hình mẫu tổ chức trần thuật trong tác phẩm văn xuôi hư cấu
(fiction).
2.1.2. Các mô thức trần thuật cơ bản trong tiểu thuyết của
Khái Hưng
Thể tài, được hiểu là hình thức, thể loại của tác phẩm nghệ
thuật được xác định bằng đề tài hoặc bằng những đặc trưng khác
về chủ đề, phong cách. Người ta thường nói đến các thể tài tiểu
thuyết: lịch sử dân tộc, thế sự, đời tư.
Tiểu thuyết TLVĐ hầu như chỉ tập trung vào hai mảng đề tài:
thế sự và đời tư, với những biểu hiện đặc thù trong phương thức tự
sự: hoặc tự sự theo hình thức nghiêng về minh giải luận đề, hoặc tự
10
sự theo hình thức nghiêng về thám hiểm, phân tích tâm lý; và, giữa hai
cực ấy, có một trung gian, trung chuyển: tiểu thuyết luận đề tâm lý.
Nhìn trên nét lớn, văn xuôi tự sự TLVĐ, cụ thể là xu hướng tiểu
thuyết TLVĐ, bao gồm tiểu thuyết Khái Hưng, quy vào ba thể tài:
tiểu thuyết tiền luận đề (hay tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng), tiểu
thuyết luận đề (hay tiểu thuyết tục lụy và hành động), tiểu thuyết hậu
luận đề (hay tiểu thuyết tâm lý). Trong đó, tiểu thuyết luận đề (tục
lụy và hành động) được xem như một thể tài giữ vị thế trung tâm,
tiểu thuyết tiền luận đề (hay tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng) được
xem là thể tài khởi đầu, tạo đà vận động, còn tiểu thuyết hậu luận đề
(hay tiểu thuyết tâm lý) thì có thể xem là hệ quả mang tính bước
ngoặt, điểm đỉnh trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi hư cấu Việt
Nam. Theo đó, giữa ba thể tài và mô thức trần thuật có những mối liên
hệ kế thừa, chuyển hóa khá tinh tế phức tạp.
Có thể chia tiểu thuyết Khái Hưng thành các mô thức sau:
Mô thức Tiền Luận đề (“Tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng”)
Tiểu thuyết trần thuật theo mô thức luận đề, trong văn nghiệp
của Khái Hưng, xuất hiện ở chặng đầu văn xuôi TLVĐ (19321934)
với Nửa chừng xuân (1933), và nở rộ, bội thu ở chặng giữa văn xuôi
TLVĐ (19351937) với Dưới bóng tre xanh (1935), Những ngày vui
(1936), Gia đình (19361937), Thoát ly (19371938), Thừa tự (1938).
Cùng với mô thức trần thuật này trong sáng tác của Nhất Linh là
Đoạn tuyệt (19341935), Lạnh lùng (19351936),… Và, đến chặng
cuối văn xuôi TLVĐ (19381942) thì chuyển sang mô thức khác – mô
thức hậu luận đề (hay mô thức tâm lý).
Mô thức luận đề (“Tiểu thuyết tục lụy và hành động”)
Trong số tác phẩm của Khái Hưng, thuộc mô thức trần thuật này
là các tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên (19321033), Gánh hàng hoa
(viết chung với Nhất Linh,1933), Trống mái (19351936).
Mô thức hậu luận đề (“Tiểu thuyết tâm lý”)
Mô thức này bắt đầu khá sớm với một sáng tác chung giữa Nhất
Linh và Khái Hưng ở chặng đầu: Đời mưa gió (Nhất Linh – Khái
Hưng, 1934). Đến chặng cuối văn xuôi TLVĐ (19381942), khi mô
11
thức luận đề đi vào chặng “hậu”, mô thức trần thuật hậu luận đề
(hay mô thức tâm lý) chiếm lĩnh kĩ thuật chủ đạo trên văn đàn, đồng
thời đưa nghệ thuật tiểu thuyết TLVĐ đạt điểm đỉnh. Trong sáng tác
của Khái Hưng là các tiểu thuyết Đẹp (19391940), Băn khoăn
(1942). Trong sáng tác của Nhất Linh, Bướm trắng (19381939) – một
tác phẩm có thể được xem là độc sáng không chỉ trong văn chương
TLVĐ.
Xu hướng hỗn dung thể tài và mô thức trần thuật trong tiểu
thuyết của Khái Hưng
Sau khi miêu tả phân tích từng mô thức trần thuật như trên, cũng
cần lưu ý đến một thực tế: Xu hướng hỗn dung thể tài và mô thức
trần thuật trong tiểu thuyết của Khái Hưng. Xu hướng này có những
tác động đến mô thức trần thuật trong tiểu thuyết của Khái Hưng.
2.1.3. Các mô thức trần thuật chủ yếu trong truyện ngắn của
Khái Hưng
Nhìn chung chất luận đề trong sáng tác truyện ngắn của Khái
Hưng ở cả hai chặng đường (19321935 và 19351940) thường hoặc
nhạt hơn hoặc kín đáo hơn so với chất luận đề trong sáng tác của
Nhất Linh rất nhiều.
Các khuynh hướng thể tài truyện ngắn Khái Hưng nhìn chung,
có sự tiệm cận với loại hình thể tài và mô thức trần thuật trong tiểu
thuyết của ông:
Truyện ngắn thiên về khuynh hướng luận đề
Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích xã hội
Truyện ngắn thiên về khuynh hướng phân tích tâm lý
Truyện ngắn có khuynh hướng hỗn hợp
2.2. Dấu ấn cái tôi tác giả trong tiểu thuyết, truyện ngắn của
Khái Hưng qua mô thức trần thuật
2.2.1. Người kể chuyện và cái tôi tác giả
2.2.1.1. Người kể chuyện
Người kể chuyện trong tác phẩm là một người hư cấu hoặc có
thật mà văn bản tự sự thể hiện thông qua hành vi và ngôn ngữ của anh
ta tạo thành. Nhìn chung, người kể chuyện thực hiện nhiệm vụ trần
12
thuật, truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận,… những vấn đề được mô tả
hoặc được kể trong tác phẩm. Thông thường, người ta chia người kể
chuyện trong tác phẩm tự sự thành hai dạng chủ yếu: người kể
chuyện lộ diện (ngôi thứ nhất) và người kể chuyện ẩn tàng (ngôi thứ
ba).
Người kể chuyện là chủ thể của những lời kể trong tác phẩm.
Chủ thể đó là một nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra để dẫn
dắt, gợi mở hay sắp đặt câu chuyện được kể trong tác phẩm bằng
một chỗ đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ sáng tạo của nhà văn.
Tuy nhiên, sự tương quan giữa cái chủ quan và khách quan trong cấu
trúc hình tượng người kể chuyện rất phức tạp bởi nó luôn biến đổi
dẫn đến sự chuyển đổi “điểm nhìn” thường xuyên. Theo cách hiểu
này, luận án khảo sát, nhận xét về đặc điểm của “người kể chuyện”
trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng.
2.2.1.2. Cái tôi tác giả
Người kể chuyện là một trong ba loại nhân tố mang tiếng nói,
thái độ, quan điểm của tác giả trong quá trình kể. Tuy nhiên, nhận biết
cá tính/cái tôi tác giả trong tác phẩm tự sự cũng không hề đơn giản,
trừ tự truyện – nơi có sự thống nhất khá rõ giữa tác giả và người kể
chuyện. Tuy nhiên, về mặt nguyên tắc, ngay cả ở tự truyện, không
bao giờ có sự đồng nhất, trùng khít giữa người kể chuyện và tác giả.
Lý do nằm ở chỗ: Tư tưởng của tác giả bao giờ cũng lớn hơn, mang
tính khái quát hơn tư tưởng của người kể chuyện.
Dưới lớp vỏ nghệ thuật ngôn từ, nhà văn luôn cố gắng ẩn giấu
cái tôi của chính mình. Việc tạo khoảng cách ấy thực chất chỉ là ngụy
trang cho quan điểm của tác giả. Có lẽ cái tôi tác giả được thể hiện
qua hai dấu hiệu chính: Một là, “đối tượng câu chuyện kể”, nghĩa là
câu chuyện kể về ai, về cái gì; và hai là, “hình tượng người kể
chuyện”. Trên tinh thần này, chúng tôi sẽ soi chiếu vào các tiểu
thuyết, truyện ngắn của Khái Hưng để thấy được diện mạo cái tôi tác
giả như thế nào.
13
2.2.1.3. Hình tượng người kể chuyện và cái tôi tác giả trong
tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
Trong tác phẩm văn học của Khái Hưng, cần xem xét ngoài
phần thái độ chủ quan được thừa hưởng của tác giả, người kể
chuyện mang trong mình cả một phần nội dung khách quan của thế
giới được phản ánh vào tác phẩm, phần nội dung khách quan đó
thường thể hiện một loại hình thái độ phản ứng với thực tại điển
hình cho thời đại, được nhà văn tái hiện và miêu tả lại trong tác phẩm
của mình. Theo cách hiểu này, luận án khảo sát, nhận xét về sự kết
hợp của “người kể chuyện” và “cái tôi tác giả” trong tiểu thuyết,
truyện ngắn Khái Hưng.
2.2.2. Dấu ấn của cái tôi tác giả trong tiểu thuyết, truyện
ngắn Khái Hưng
Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tác của mình đều phải trăn trở
đi tìm tiếng nói riêng cho tác phẩm của mình. Qua toàn bộ văn phẩm
của mình, Khái Hưng đã bộc lộ được cái tôi tài hoa, nghệ sĩ và trí
thức. Có thể thấy dấu ấn của cái tôi tác giả Khái Hưng thể hiện qua:
“đối tượng câu chuyện kể” thông qua những nhân vật lý tưởng, thế
giới nghệ thuật quen thuộc, và “hình tượng người kể chuyện” với xu
hướng tư tưởng, nghệ thuật.
2.2.2.1. Dấu ấn của cái tôi tác giả qua những nhân vật lý
tưởng
Bóng dáng của cái tôi ấy được thể hiện qua những nhân vật lý
tưởng, như: nhà văn, nhà báo, nhà họa sĩ, nghệ sĩ, hoặc có khi là
những nhân vật thanh niên tân thời, có tinh thần âu hóa, với nhiều ước
vọng, hoài bão trong cuộc sống.
14
Miêu tả những nhân vật này, nhà văn để cho nhân vật phát biểu
về lẽ sống, về cuộc đời, về văn chương, về gia đình, tình yêu, đả phá
những lề lối, hủ tục phong kiến ràng buộc con người cá nhân, hoặc
nguyện vọng đem đến những cải cách tốt đẹp cho dân quê ở “chốn ao
tù nước đọng”. Qua những diễn ngôn ấy ta có thể ghi nhận được
phần nào bóng dáng, tâm hồn tác giả.
Chúng ta còn thấy rằng, bóng dáng của cái tôi lý tưởng Khái
Hưng đôi khi xuất hiện ở hình thức nhân vật nữ, tuy rằng gián tiếp
hơn, khó thấy hơn.
Qua một số diễn ngôn nhân vật, những con người mới đại diện
cho thời đại mới, ta thấy cái tôi tác giả hiện hữu thông qua cái tôi nhân
vật, giống như con người mới.
2.2.2.2. Dấu ấn của cái tôi tác giả qua thế giới nghệ thuật
quen thuộc
Thế giới nghệ thuật tác giả tạo ra trong tác phẩm luôn thể hiện
đậm nét cái tôi tác giả. Thế giới nghệ thuật ấy bao gồm: thế giới
nhân vật, thế giới cảnh quan, thế giới đồ vật, thế giới thiên nhiên,
thời tiết, mùa màng, đến cả những cảnh trăng lên, cảnh mặt trời mọc,
hay cảnh lá rụng… đều cho thấy sự tài hoa, sức sáng tạo nghệ sĩ của
cái tôi tác giả.
Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Khái Hưng khá đa dạng.
Nhân vật chính trong tác phẩm thường là những nhà văn, nhà báo, nhà
nghệ sĩ, hoặc là những thanh niên tràn đầy tinh thần Âu hóa mới mẻ.
Với hệ thống những nhân vật này, Khái Hưng muốn cổ vũ cho cái tôi
cá nhân, cho nếp sống Âu hóa bằng những rung động mãnh liệt của
mình. Họ là những trí thức trẻ, con những ông Án, bà Phán, ông Tuần,
15
bà huyện nhưng trong mắt gia đình thì họ là những “nghịch tử”, không
theo nề nếp gia phong Nho giáo ngàn đời xưa. Với những Ngọc, Mai,
Chương, Tuyết, Lộc,… nhà văn muốn thể hiện khát vọng tự do yêu
đương, tự do kết hôn, bởi với ông, điều đó đồng nghĩa với tinh thần
văn minh, tiến bộ.
Đối nghịch với những nhân vật văn minh, tiến bộ, là hệ thống
những nhân vật phụ với đầy rẫy những thành kiến cổ hủ. Các nhân
vật kiểu này, có thể xem là “âm bản” của cái tôi tác giả.
2.2.2.3. Dấu ấn của cái tôi tác giả thể hiện qua xu hướng tư
tưởng và xu hướng nghệ thuật
Nhà văn Khái Hưng đã có cùng quan điểm về cải cách xã hội với
các nhà văn TLVĐ, vì thế tác phẩm của ông luôn cổ vũ cho cái mới,
cái tiến bộ mạnh mẽ của xã hội. Nếu như Hoàng Đạo có Con đường
sáng, Nhất Linh có Đời mưa gió, Đoạn tuyệt… thì Khái Hưng có Gia
đình, Thoát ly, Thừa tự, Những ngày vui,… Cùng với các bạn văn đồng
chí hướng với mình, nhà văn Khái Hưng đã ôm ấp khát vọng cải cách
nông thôn theo tinh thần văn minh khoa học phương Tây, cải thiện đời
sống cho dân cày, tạo ra sự công bằng xã hội, hạn chế sự phân biệt
giữa giàu – nghèo, cổ súy cái mới, giải phóng cái tôi khỏi sự kềm tỏa
của lễ giáo phong kiến… Mặt khác, dấu ấn cái tôi Khái Hưng còn thể
hiện đậm nét qua các cách hành văn, giọng điệu, kết cấu và các
phương tiện nghệ thuật… để nhằm tạo ra hiệu quả nghệ thuật cho
tác phẩm. Đó là một thứ văn đậm chất An Nam, trong sáng, uyển
chuyển, linh hoạt, giàu hình ảnh, nhạc điệu, là một tấm gương phản
chiếu rõ nét cá tính sáng tạo rất riêng, rất độc đáo của nhà văn.
16
TIỂU KẾT
17
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN KHÁI
HƯNG NHÌN TỪ PHONG CÁCH KIẾN TẠO DIỄN NGÔN TRẦN
THUẬT
3.1. Phong cách kiến tạo diễn ngôn theo mô thức trần thuật trong
tiểu thuyết truyện ngắn của Khái Hưng
3.1.1. Diễn ngôn trần thuật và việc nghiên cứu diễn ngôn trần
thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
3.1.1.1. Diễn ngôn trần thuật – “tấm thảm ngôn từ”
Nghiên cứu lời văn nghệ thuật tiểu thuyết, truyện ngắn cần
thấy được rằng, một mặt, diễn ngôn nghệ thuật trong tác phẩm, xét
cho cùng, chính là sự phản ánh thế giới hiện thực, thế giới tinh thần
của con người trong tư cách một “diễn ngôn”; mặt khác, diễn ngôn
nghệ thuật trong tác phẩm không bao giờ xuất hiện ngẫu nhiên, rời
rạc, mà luôn được kiến tạo trong một cấu trúc mang tính hệ thống
chặt chẽ và tính chỉnh thể cao. Trong một văn bản nghệ thuật, giữa
các chuỗi câu nối tiếp của ngôn ngữ luôn có sự “mắc vào nhau”, đan
bện vào nhau một cách có nghĩa lý, nhằm thể hiện ý tưởng chung của
cấu trúc, đồng thời thực hiện chức năng chuyên biệt của từng lớp
diễn ngôn.
Một văn bản trần thuật thường bao gồm hai thành phần diễn
ngôn: diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật.
Diễn ngôn của người kể chuyện bao gồm các lớp: diễn ngôn kể, diễn
ngôn miêu tả, diễn ngôn bình luận. Diễn ngôn của nhân vật bao gồm
các lớp: diễn ngôn đối thoại, diễn ngôn độc thoại. Văn bản nghệ
thuật của tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn như một tấm thảm ngôn
từ. Đó là một “cấu trúc ngôn từ động”, thường được tiểu thuyết gia
tạo lập nên trong một trạng thái tinh thần phức tạp, đầy hưng phấn và
mẫn cảm. Việc tết dệt, đan bện các lớp, các đơn vị, thành phần diễn
ngôn khác nhau thành văn bản nghệ thuật hoàn chỉnh, rõ ràng, luôn
luôn gắn liền với các dụng tâm, dụng ý, dụng công nào đó. Và tác
phẩm được hoàn thành giống hệt một kì công.
18
Công việc của người nghiên cứu diễn ngôn nghệ thuật trong
tiểu thuyết, truyện ngắn, vì thế, là khám phá, phát hiện các dụng tâm,
dụng ý, dụng công của tác giả trong và qua sáng tạo văn bản – một
thứ văn bản không chỉ tồn tại như một “trạng thái hiện hữu tĩnh”, mà
còn như một “trạng thái hiện hữu động”.
3.1.1.2. Về việc nghiên cứu diễn ngôn trần thuật trong tiểu
thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
Nếu hiểu phong cách nghệ thuật là những nét độc đáo có giá trị
thẩm mỹ, thì phong cách kiến tạo diễn ngôn của Khái Hưng bộc lộ
trên hai bình diện: 1) Những nét kết tinh thẩm mỹ trong diễn ngôn
trần thuật tiểu thuyết, truyện ngắn, và 2) Các kiểu lựa chọn, kiến tạo,
tổ chức các lớp ngôn từ tự sự.
3.1.2. Mấy đặc điểm nổi bật của diễn ngôn trần thuật trong
tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
Diễn ngôn trần thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn, Khái Hưng
đã tạo được một tương quan mới có tính nghệ thuật giữa diễn ngôn
người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật.
Từ kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi tập trung, mô tả, luận
giải một số đặc điểm dưới đây:
Xu hướng phong cách hóa diễn ngôn của người kể chuyện;
Vị thế của đối thoại, độc thoại và việc phát huy chức năng
giao tiếp, trần thuật cho diễn ngôn của nhân vật;
Tương tác thẩm mĩ và hòa phối tự nhiên giữa các thành phần,
đơn vị diễn ngôn trong cấu trúc trần thuật;
Tiết tấu, nhịp điệu trần thuật linh hoạt, hợp lý trong dòng chảy
ngôn từ hay mạch vận động của diễn ngôn;
Độ “căng”, “chùng” tự nhiên, phù hợp với yêu cầu trần thuật
đối với diễn ngôn trong truyện ngắn và diễn ngôn trong tiểu thuyết.
3.1.2.1. Xu hướng phong cách hóa diễn ngôn của người kể
chuyện
Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn, tiểu thuyết
Khái Hưng thường được phong cách hóa một cách rõ rệt. Đó không
phải là kiểu diễn ngôn mực thước trung tính của người kể chuyện
19
trong truyện cổ tích hay truyện trung đại mà luôn mang phong cách
ngôn ngữ của ai đó, tức là một kiểu diễn ngôn được “phong cách hóa”.
Nghiên cứu về sự phong cách hóa trong tiểu thuyết, truyện ngắn
Khái Hưng, thấy rằng, lời người kể chuyện trong truyện ngắn được
phong cách hóa rõ nét hơn trong tiểu thuyết. Lời người kể chuyện
trong truyện ngắn Khái Hưng được tổ chức khá phức tạp: chồng chất
nhiều tầng bậc, đan xen pha trộn nhiều thứ tiếng nói (ngôn ngữ bên
trong, ngôn ngữ bên ngoài); tiếng nói tác giả, tiếng nói người kể
chuyện, tiếng nói nhân vật thứ ba vô hình… Đây là một sự cách tân
mới mẻ, hiện đại của văn phong Khái Hưng, theo xu hướng phong
cách hóa độc đáo. Người đọc không dễ tách bạch đoạn nào trong lời
người kể chuyện là đích thực tiếng nói của tác giả, đoạn nào đích
thực là tiếng nói nội tâm nhân vật.
3.1.2.2. Coi trọng vị thế của đối thoại, độc thoại và phát huy
chức năng giao tiếp, trần thuật cho diễn ngôn của nhân vật
Diễn ngôn của nhân vật – bao gồm cả đối thoại, độc thoại, đặc
biệt là đối thoại – chiếm một địa vị xứng đáng, nếu không nói là ưu
trội trong trần thuật tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng.
Không mấy khó khăn để nhận ra rằng đối thoại và độc thoại
chiếm tỉ lệ từ cao đến rất cao trong diễn ngôn của nhân vật tiểu
thuyết, truyện ngắn, của Khái Hưng, nhất là khi so sánh với diễn ngôn
cùng loại trong tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh.
Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu định lượng khá tỉ mỉ trên
văn bản một số tiểu thuyết của Khái Hưng để có được số liệu so
sánh, đối chiếu trên một vài phương diện của diễn ngôn trần thuật,
nhìn từ mô thức trần thuật.
3.1.2.3. Tạo tương tác thẩm mĩ và hòa phối tự nhiên giữa các
thành phần, đơn vị diễn ngôn trong cấu trúc trần thuật
Trong cấu trúc trần thuật, diễn ngôn của người kể chuyện, diễn
ngôn của nhân vật (với các lớp diễn ngôn: kể, tả, bình luận; đối
thoại, độc thoại) luôn tạo ra được những tương tác thẩm mĩ tích cực
và khá hiệu quả.
20
Diễn ngôn của người kể chuyện trong tác phẩm của Khái Hưng
có đặc điểm nổi bật là bình dị, song mượt mà, mềm mại, linh hoạt và
giàu chất họa, chất nhạc lẫn chất thơ; các diễn ngôn này thường đảm
nhiệm chức năng tạo bối cảnh, tâm thế cho những cuộc thoại, những
lời thoại trong sáng, ngọt ngào tươi vui trong diễn ngôn của nhân vật.
Trên thực tế, nhà văn sử dụng vai trò điều phối tương tác diễn
ngôn ấy ở mức nào, theo cách nào thì còn tùy thuộc vào sở trường, sở
đoản, ý đồ nghệ thuật riêng của mỗi người trong từng ngữ cảnh trần
thuật cụ thể. Như trên đã nêu, trong trường hợp Thạch Lam, nhà văn
thường để cho các nhân vật trong tác phẩm của mình ở trong bóng tối,
nghĩ ngợi, ít khi hành động, rất ít nói thành lời. Văn Thạch Lam là văn
của cảm giác. Nên ít đối thoại là có lý do của nó. Còn trong văn của
Khái Hưng, sự hòa phối của diễn ngôn đối thoại, độc thoại nội tâm ở
các nhân vật đậm đặc hơn. Nhờ đó mà Khái Hưng đã tái hiện một
cách khá sinh động chân dung của nhiều loại người qua ngôn ngữ
nhân vật.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng văn bản diễn ngôn của Khái
Hưng với việc sử dụng linh hoạt và phối hợp các giọng điệu diễn
ngôn đã tạo nên tính chất đa thanh, đa giọng, tạo nên những âm hưởng
cần thiết, phù hợp với từng nội dung phản ánh trong tác phẩm.
3.1.2.4. Tiết tấu, nhịp điệu trần thuật linh hoạt, hợp lý
trong dòng chảy ngôn từ hay mạch vận động của diễn ngôn
Trong sáng tác, Khái Hưng thích chia tách diễn ngôn trần thuật
trong tác phẩm thành nhiều tiểu đoạn. Điều này cho thấy văn Khái
Hưng là văn theo lối văn của Pháp: mạch lạc và khúc chiết (gãy gọn,
sáng rõ). Trong từng câu văn thì tinh tế, trong phân đoạn thì mạch lạc,
thoáng, gọn. Do vậy, tạo ra nhiều khoảng trống, có khả năng gợi dư
vị…
3.1.2.5. Tạo độ “căng”, “chùng” tự nhiên, phù hợp với yêu
cầu trần thuật
Thực tế sáng tác và sự nghiệp văn chương của Khái Hưng cho
thấy nhà văn luôn biết cách tạo độ “căng” tự nhiên cho diễn ngôn
21
truyện ngắn, đồng thời, cũng biết chủ động phối hợp độ “căng”,
“chùng” phù hợp đối với diễn ngôn tiểu thuyết của mình.
3.2. Từ mô thức trần thuật đến cách lựa chọn, tổ chức các lớp
diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng
3.2.1. Mô thức trần thuật và việc tổ chức diễn ngôn của người kể
chuyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn của Khái Hưng
Lý thuyết về diễn ngôn nói chung và diễn ngôn trần thuật nói
riêng, ngày nay, đã có nhiều thành tựu cần được ứng dụng. Trong luận
án này chúng tôi sử dụng một số thành tựu lý thuyết diễn ngôn trần
thuật của G. Genette nói riêng và của các nhà cấu trúc luận nói chung.
Ở phần này, chúng tôi lần lượt xem xét đặc điểm cấu trúc của
các lớp diễn ngôn nêu trên trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng,
cũng như cách thức nhà văn tạo sự hòa phối giữa chúng, để tạo nên
văn bản tác phẩm đạt được dụng ý nghệ thuật của mình, mang lại
nhận thức thẩm mỹ và sự thích thú nơi người đọc.
3.2.1.1. Lời kể trong diễn ngôn của người kể chuyện
Nghiên cứu từ góc độ mô thức trần thuật, luận án sẽ đi sâu tìm
hiểu một yếu tố được xem là có tầm quan trọng đó là lời kể. Thực ra,
tìm hiểu lời kể với ý nghĩa là tìm hiểu “phong cách ngôn ngữ với
những nét độc đáo có giá trị thẩm mĩ trong lựa chọn, sử dụng ngôn từ”
của tiểu thuyết TLVĐ là việc không đơn giản. Hơn nữa, đây là lời kể
tiểu thuyết, truyện ngắn nên cần được tiếp cận từ góc độ trần thuật
học.
Lời kể là kiểu lời trần thuật thường chiếm số lượng lớn và có
vai trò quan trọng giúp người trần thuật tổ chức một cấu trúc tự sự.
Nội dung truyện về cơ bản được hoàn chỉnh theo mạch trần thuật của
những người tham gia kể chuyện. Thông thường, lời kể của người
trần thuật tồn tại dưới hai hình thức: lời khách quan của người kể
chuyện giấu mặt và lời chủ quan của người kể chuyện ngôi thứ nhất.
Cả hai loại lời này đều có thể được “phong cách hóa” tức là làm cho
nó mang đậm dấu ấn chủ thể của người nắm giữ diễn ngôn. Việc kể
chuyện trong tính liên tục của sự kiện hay dừng lại miêu tả và/hoặc
cho nhân vật độc thoại, phân tích, tự phân tích tâm lý nhân vật theo
22
như cách tổ chức của Khái Hưng tạo ra đặc điểm sắc thái riêng của
từng mô thức diễn ngôn trần thuật.
3.2.1.2. Lời miêu tả trong diễn ngôn của người kể chuyện
Cùng với lời kể, lời miêu tả cũng khá phổ biến trong diễn ngôn
của người kể chuyện. Tả là vẽ lại hình hài của vật chất qua con mắt
của người kể. Nó hỗ trợ đắc lực cho việc kể và làm cho câu chuyện
được kể, con người được kể sống động, hấp dẫn hơn.
Trong văn chương của Khái Hưng, lời tả có một giọng điệu
riêng, tạo ra một phương thức diễn đạt mới so với những tiểu thuyết
trước đó. Đặc biệt, điều đáng nói là nếu như trong chặng đường đầu
(với mô thức Tiền luận đề trong tiểu thuyết tình cảm và lý tưởng) ông
nổi tiếng như một nhà văn có ngòi bút thi vị qua các đoạn tả phong
cảnh thiên nhiên, thì đến các chặng sau (với mô thức trần thuật Luận
đề, Hậu luận đề), Khái Hưng lại cho thấy một ngòi bút tả thực rất
chân thật, sinh động.
3.2.1.3. Lời bình luận, phân tích và trữ tình ngoại đề trong
diễn ngôn của người kể chuyện
Người kể chuyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại với tư
cách người mang quan điểm, tư tưởng, thái độ của nhà văn hướng tới
người đọc, khi cần, có thể dùng những lời bình luận để trực tiếp bày
tỏ thái độ về một vấn đề hay một sự kiện nào đó trong cuộc sống.
Lời bình luận thể hiện thái độ cảm thông, đồng tình của người kể
chuyện với các sự kiện đồng thời, lời bình luận còn mang sắc thái mỉa
mai, đả kích, phê phán...
Hình tượng người kể chuyện hiện hữu trong diễn ngôn bình
luận với sự tinh tế, từng trải của tác giả Khái Hưng có khả năng tăng
cường sự sáng rõ hay gây nhiễu chủ đề một cách chủ ý qua bình luận.
3.2.2. Mô thức trần thuật và việc tổ chức diễn ngôn của nhân vật
trong tiểu thuyết, truyện ngắn của Khái Hưng
3.2.2.1. Đối thoại và tần suất diễn ngôn đối thoại theo mô
thức
Đối thoại trong truyện ngắn Khái Hưng
23
Diễn ngôn đối thoại trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại bao
gồm đối thoại giữa từng cặp nhân vật và đối thoại giữa rất nhiều
nhân vật với nhau. Trong đó, diễn ngôn đối thoại đa nhân vật chiếm
một tỉ lệ thấp, thường xuất hiện trong các cuộc trò chuyện đám đông
trong gia đình, hay không gian đàm thoại công cộng.
Trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng, hình thức diễn ngôn
song thoại chiếm dung lượng lớn hơn nhiều các diễn ngôn đa thoại.
Với đặc điểm mang dấu ấn riêng của từng nhân vật tham gia đối
thoại, các diễn ngôn song thoại đem lại nhiều hiệu quả nghệ thuật
khác nhau. Qua diễn ngôn song thoại, các nhân vật tự bộc lộ tâm tư,
tình cảm, khát vọng, tính cách, phẩm chất, đạo đức của bản thân.
Đối thoại trong tiểu thuyết Khái Hưng
Đối thoại cũng thường chiếm tỉ lệ lớn trong đa số tiểu thuyết
của Khái Hưng và dựng đối thoại là một sở trường vượt trội của ông.
Trong truyện ngắn Khái Hưng, đối thoại đã chiếm mật độ cao, trong
tiểu thuyết của ông mật độ càng cao.
Hình thức đối thoại nhân vật của ông khá đa dạng, biến hóa,
mang tính hành động và thường giàu kịch tính; tiết tấu nhịp điệu trần
thuật ít khi bị chùng lại mà thường được đẩy nhanh hơn.
3.2.2.2. Độc thoại và tần suất diễn ngôn độc thoại theo các
mô thức trần thuật
Diễn ngôn độc thoại là “lời phát ngôn của nhân vật nói với
chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt
động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của
nó”. Độc thoại nội tâm giúp nhân vật tự bộc bạch hết tất cả những gì
người trần thuật khó nói hoặc không thể nói hết. Đó là những suy tư,
trăn trở, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn và những lo toan thầm kín về
bản thân hay về người khác….
Độc thoại trong tiểu thuyết Khái Hưng được kiến tạo theo hai
dạng: độc thoại ngoại hiện thành lời và độc thoại ngầm trong tâm trí.
3.2.2.3. Những tương tác trong sự điều phối, chia tách diễn
ngôn theo chủ ý của tác giả người kể chuyện
24
Giữa các lớp diễn ngôn – diễn ngôn của người kể chuyện, diễn
ngôn của nhân vật – trong tiểu thuyết, truyện ngắn Khái Hưng thường
có sự tương tác mạnh mẽ, hiệu quả. Tuy nhiên trong tiểu thuyết hay
truyện ngắn cũng thế, Khái Hưng thường xuyên duy trì tốt vai trò điều
phối của tác giả đối với văn bản trần thuật.
Khi triển khai hầu hết các tiểu mục trên đây của chương 3, luận
án luôn cố gắng sử dụng khá thường xuyên thao tác thống kê, so sánh
khá tỉ mỉ, cụ thể để có thể đề xuất các luận điểm quan trọng trên cơ
sở các chứng liệu rút ra từ văn bản tiểu thuyết, truyện ngắn của Khái
Hưng.
TIỂU KẾT
KẾT LUẬN
1. Khái Hưng là một trong những nhà văn hiện đại Việt Nam có
sức sáng tạo dồi dào, tạo được cho mình một sự nghiệp văn chương
25
phong phú, đa dạng với nhiều đóng góp quan trọng vào việc hiện đại
hóa văn học Việt Nam.
2. Tìm kiếm đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Khái Hưng
từ góc nhìn trần thuật, phương pháp nghiên cứu loại hình đã giúp tác
giả luận án đúc kết tác phẩm văn xuôi của Khái Hưng theo ba mô thức
trần thuật, ứng với ba thể tài tiểu thuyết: mô thức Tiền luận đề (tiểu
thuyết tình cảm và lý tưởng), tiêu biểu là Hồn bướm mơ tiên, Gánh
hàng hoa; mô thức Luận đề (tiểu thuyết tục lụy và tranh đấu) tiêu
biểu là Nửa chừng xuân, Gia đình, Thừa tự; mô thức Hậu luận đề
(tiểu thuyết tâm lý) tiêu biểu là Đẹp, Băn khoăn. Tiền luận đề, Luận
đề, Hậu luận đề là kết quả chủ yếu của các nghiên cứu lịch đại; tiểu
thuyết tình cảm và lý tưởng, tiểu thuyết tục lụy và tranh đấu, tiểu
thuyết tâm lý là kết quả chủ yếu của các nghiên cứu đồng đại về mặt
thể tài.
3. Là một trong những nhà văn TLVĐ giàu ý chí, khao khát sáng
tạo và dồi dào năng lực sáng tạo, Khái Hưng đã kiến tạo tổ chức diễn
ngôn trần thuật trong tiểu thuyết, truyện ngắn của ông thật khéo léo,
tự nhiên, giàu tính nghệ thuật. Bởi vậy có thể nói đến một phong cách
Khái Hưng nhìn từ phương diện này.
4. Khái Hưng cùng với các nhà văn TLVĐ, bằng thực tiễn sáng
tạo nghệ thuật của mình, đã có những đóng góp quan trọng trong công
cuộc hiện đại hóa văn xuôi nước nhà.
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN