Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tóm tắt luận án tiên sĩ điều tra chống bán phá giá dưới góc độ luật so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.44 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Xu hướng chống bán phá giá đã và đang ngày càng phổ biến trong hoạt động thương mại quốc tế. Đặc
biệt là hoạt động chống bán phá giá ở các nước đang phát triển ngày càng tăng mạnh kể từ khi thành lập WTO
(1995) đến nay.
Bên cạnh đó, nhóm những quốc gia bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới
trong giai đoạn này cũng được thống kê, cụ thể như Trung Quốc (đứng đầu), sau đó là một loạt các quốc gia
như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan…
Một thực trạng đáng quan tâm ở thị trường Việt Nam. Đó là, hàng hóa xuất xứ từ các quốc gia như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan…đang chiếm hầu hết thị phần. Trong đó có rất nhiều sản phẩm
được bán với giá rẻ mạt, đã và đang từng bước bóp chết ngành sản xuất trong nước ở Việt Nam.
Như vậy, nhu cầu để hoàn thiện pháp luật về chống bán phá giá nói chung và điều tra chống bán phá giá nói
riêng là vô cùng cần thiết để bảo vệ ngành sản xuất trong nước và bảo vệ nền kinh tế đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu để đạt được các mục đích sau đây:
Thứ nhất, việc nghiên cứu có mục đích phân tích, đánh giá để chỉ ra những bất cập của pháp luật về điều tra
chống bán phá giá của Việt Nam. Từ đó, đặt ra phương hướng hoàn thiện, nêu lên những nội dung pháp luật
cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng và bảo đảm cho nền kinh tế được hoạt động lành mạnh. Bên cạnh đó, viêc hoàn thiện pháp luật về
điều tra chống bán phá giá cần phải tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO và Hiệp định ADA.
1
Thứ hai, mục đích của việc nghiên cứu là so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và
hoạt động điều tra chống bán phá giá của Hiệp định ADA, của Việt Nam, Hoa Kỳ và EU. Từ đó, các doanh
nghiệp, ngành sản xuất trong nước của Việt Nam có thể dùng tài liệu để tham khảo khi phải đối mặt với các vụ
kiện chống bán phá giá ở nước ngoài, cũng như chủ động nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá ở Việt
Nam khi nhận thấy hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài có hành vi bán phá giá ở thị trường Việt Nam.
Thứ ba, Luận án nghiên cứu vai trò của các cơ quan Chính phủ, cụ thể là Bộ Công thương trong việc phải chủ
động hỗ trợ ngành sản xuất trong nước khi có dấu hiệu về hành vi bán phá giá ở thị trường Việt Nam. Đặc biệt,
trong trường hợp cần thiết cơ quan nhà nước có thể chủ động tự khởi xướng điều tra, không nhất thiết cứ phải
chờ vào đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: (i) Nghiên cứu có hệ
thống cơ sở lý luận của chính sách pháp luật chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ, EU và pháp luật của Việt
Nam về chống bán phá giá; (ii), Nghiên cứu và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quy định
về điều tra chống bán phá giá của pháp luật Việt Nam; (iii) Nghiên cứu so sánh các mô hình pháp luật về tổ
chức và hoạt động điều tra chống bán phá giá của Việt Nam với Hiệp định ADA, Hoa Kỳ và EU; (iv) Phân tích,
đối chiếu và làm sáng tỏ thực trạng điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động điều tra chống bán phá giá nói
ở Việt Nam.
3. Phạm vi và Đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu: Luận án giới hạn ở nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến
chống bán phá giá và quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động điều tra chống bán phá giá đối với “hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam”. Nội dung phân tích quy định pháp luật về một số khái niệm liên quan đến điều tra
chống bán phá giá, cơ cấu tổ chức của cơ quan chống bán phá giá, trình tự, thủ tục điều tra chống bán phá giá
2
của Hiệp định ADA, của pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá, cũng như quy định tương ứng của pháp luật
Hoa Kỳ và EU.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận, cũng như thực tiễn về hoạt
động điều tra chống bán phá giá, cơ cấu tổ chức và hoạt động điều tra chống bán phá theo Hiệp định ADA,
pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam, của Hoa Kỳ và EU. Bên cạnh đó, một vài vụ kiện về chống bán phá
giá cũng sẽ được phân tích và đánh giá ở trong quá trình nghiên cứu.
4. Những điểm mới của luận án
Đề tài sẽ góp phần:
Thứ nhất, phân tích một số khái niệm trong điều tra chống bán phá giá như: sản phẩm tương tự, khái
niệm về chứng cứ, khái niệm về lẩn tránh thuế chống bán phá giá…Đây là những khái niệm đã được đề cập
trong Hiệp định ADA và pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng đã có đề cập hoặc chưa đề cập.
Thứ hai, luận án phân tích thực trạng pháp luật về điều tra chống bán phá giá của Việt Nam, trên cơ sở
so sánh và đối chiếu với pháp luật Hoa Kỳ, EU về chống bán phá giá, cũng như kinh nghiệm nội luật hóa pháp
luật về chống bán phá giá của các quốc gia này từ Hiệp định ADA.
Thứ ba, từ phân tích một số khái niệm trong điều tra chống bán phá giá, từ phân tích thực trạng quy
định pháp luật về điều tra chống bán phá giá của Việt Nam, Hoa Kỳ, EU và đặc biệt là trên cơ sở quy định

khung của Hiệp định ADA. Luận án đưa ra những kiến nghi nhằm cụ thể hóa các khái niệm, hoàn thiện các quy
định về điều tra chống bán phá giá cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Thứ tư, cũng từ việc nghiên cứu, so sánh và đối chiếu quy định pháp luật của Hiệp định ADA, pháp
luật về điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ, EU, Luận án sẽ cung cấp những thông tin quan trọng, có giá trị
3
tham khảo cao cho các doanh nghiệp, ngành sản xuất trong nước, nhà xuất khẩu Việt Nam khi phải đối phó với
các vụ kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ, EU.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về điều tra chống bán phá giá dưới gó
độ luật so sánh. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và giá trị thực tiễn
cao. Vì vậy, có ý nghĩa đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật về chống bán phá giá nói chung và điều tra
chống bán phá giá nói riêng, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngành sản xuất trong nước, bảo đảm sự vận
hành lành mạnh của nền kinh tế, quyền lợi của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương.
Chương1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Các câu hỏi nghiên cứu
Cụ thể có ít nhất 8 vấn đề nghiên cứu sau đây sẽ lần lượt được giải quyết trong luận án này: Khái niệm
sản phẩm tương tự; Chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá; Thủ tục nộp và rút đơn kiện chống bán phá giá;
Tư cách đại diện trong đơn kiện chống bán phá giá; Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong điều tra
chống bán phá giá; Các biện pháp cam kết trong điều tra chống bán phá giá; Bảo mật thông tin trong quá trình
điều tra chống bán phá giá; Rà soát tư pháp đối với kết quả điều tra chống bán phá giá.
Ngoài ra, còn có một số vấn đề khác cũng sẽ được đề cập và phân tích trong phần nội dung của luận án.
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu
4
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm: Phương pháp so sánh pháp luật;
Phương pháp chuyên gia; Phương pháp quan sát; Phương pháp thống kê toán học; và Một số phương pháp khác
1.2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm về sản phẩm tương tự

Có rất nhiều công trình trong và ngoài nước đã nghiên cứu về khái niệm sản phẩm tương tự, cụ thể là:
Konrad von Moltke, Reassessing‘Like Products’ Trade, Paper presented at the Chatham House Conference,
Trade, Investment and the Environment, 29 & 30 October 1998; Robert E. Hudec “Like Product”: The
Differences in Meaning in GATT Articles I and III, this article was originally published in thomas cottier &
petros mavroidis, eds., regulatory barriers and theprinciple of non-discrimination in world trade law (University
of Michigan Press 2000) p. 101-123; Nguyễn Ngọc Sơn, Luận án Tiến sỹ về Pháp luật chống bán phá giá hàng
hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, Đại học Luật TPHCM, 2010.
1.2.2. Chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá
Có khá nhiều đề tài khoa học nghiên cứu và đưa ra các hướng giải quyết cho trường hợp lẩn tránh thuế
chống bán phá giá, cụ thể như sau: Lucia Ostoni, Anti-Dumping Circumvention in the EU and the US: Is There
a Future For Multilateral Provisions Under the WTO?, Fordham Journal of Corporate & Financial Law,
Volume 10, Issue 2, 2005; Jacques Steenbergen, Circumvention of Antidumping Duties by Importation of Parts
and Materials: Recent EEC Antidumping Rules, 2001;
1.2.3. Tư cách đại diện trong đơn kiện chống bán phá giá
Liên quan đến nội dung này, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Raj Bhala, Rethinking
Antidumping Law, George Washington Journal of International Law and Economics 1-144 (1995). Ở Việt Nam
có một số công trình khoa học đã nghiên cứu đến chống bán phá giá như luận án của Nguyễn Ngọc Sơn, Đoàn
Trung Kiên cũng đã có nêu qua, nhưng chưa phân tích sâu đến các vấn đề này.
5
1.2.4. Thủ tục nộp và rút đơn kiện chống bán phá giá
Nghiên cứu vấn đề này có những tác giả sau: Russell Hillberry & Phillip McCalman, What Triggers an
Anti-Dumping Petition? Finding the Devil in the Detail, 2009; Thomas J. Prusa, Why are so many antidumping
petitions withdrawn? revised version, 1991; US International Trade Commission, Antidumping and
Countervailing duties Handbook, 2005.
1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong vụ kiện chống bán phá giá
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong pháp luật về chống bán phá giá, vấn đề này đã được
một số tài liệu nước ngoài phân tích rất đầy đủ, cụ thể như sau: WTO negotiations on the agreement on anti-
dumping practices, Technical Paper June 2005; Trần Việt Dũng, Anti dumping, competition and the WTO
system implication for Vietnamese legal reform, 2007.
1.2.6. Bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá

Các tài liệu nghiên cứu về bảo mật thông tin là rất ít. Tài liệu nước ngoài có: United State International
Trade Commission, An introduction to administrative protective order practice in import injury investigations,
Publication No 3755, March 2005; Trần Việt Dũng, Anti dumping, competition and the WTO system
implication for Vietnamese legal reform, 2007; Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, 2010;
1.2.7. Rà soát tư pháp quyết định chống bán phá giá
Nghiên cứu về nội dung này bao gồm: Trần Việt Dũng, Anti dumping, competition and the WTO
system implication for Vietnamese legal reform, 2007; Nguyễn Ngọc Sơn, Luận án Tiến sỹ, Pháp luật chống
bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, 2010.
1.2.8. Quy định về các biện pháp cam kết
6
Các tác giả đã nghiên cứu đến nội dung này bao gồm: Michael O. Moore: VERs and Price
Undertakings under the WTO, 2007; Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và
cơ chế thực thi tại Việt Nam, Đại học luật Tp Hồ Chí Minh, 2010; Đoàn Trung Kiên, Luận án Tiến sỹ: Pháp
luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà
Nội, 2010.
Kết luận chương 1
Trong chương một, luận án đã giải quyết được các vấn đề liên quan đến tính cấp thiết của để tài nghiên
cứu, cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu và tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Thứ nhất, nội dung tính cấp thiết của đề tài, luận án đã nêu lên được xu hướng của hoạt động chống bán
phá giá trên thế giới, đặc biệt là sau khi thành lập WTO đến nay hoạt động chống bán phá giá đã trở nên phổ
biến hơn ở các quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Argentina…Bên cạnh đó, số liệu thống kê cũng cho
thấy sản phẩm xuất khẩu từ những quốc gia bị kiện nhiều hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan, Đài Loan…đang chiếm thị phần rất lớn tại thị trường Việt Nam, một số sản phẩm của Việt Nam đã bị
chiếm mất thị phần bởi giá rẻ từ sản phẩm của các quốc gia này (ví dụ: thép xây dựng). Điều đó cho thấy, sự
cần thiết phải nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về chống bán phá nói chung và điều tra chống bán phá giá nói
riêng là vô cùng cần thiết, nhằm phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước cũng như bảo vệ cho
nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh và bền vững.
Thứ hai, cơ sở lý thuyết của đề tài, luận án đã thể hiện được nội dung của những vấn đề liên quan đến
quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án. Liên quan đến câu hỏi nghiên cứu, tác giả đã đưa ra một số vấn đề

mà luận án cần phải giải quyết. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu…cũng đã được đề cập cụ thể.
7
Thứ ba, về nội dung tổng quan tình hình hình nghiên cứu, như đã trình bày ở phần câu hỏi nghiên cứu,
tác giả chỉ phân tích tổng quan về các công trình khoa học trong nước và trên thế giới có liên quan đến nội dung
các vấn đề đã đặt ra ở phần câu hỏi nghiên cứu, cụ thể liên quan đến các vấn đề: Khái niệm về sản phẩm tương
tự;Khái niệm về chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá; Tư cách đại diện trong đơn kiện chống bán phá giá;
Thủ tục nộp và rút đơn kiện chống bán phá giá;Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong vụ kiện chống
bán phá giá; Bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá; Quy định về các biện pháp cam kết
Chương 2: Những vấn đề lý luận về phá giá và chống bán phá giá
2.1. Khái niệm, phân loại hành vi và tác động của bán phá giá
2.1.1. Khái niệm bán phá giá
Khi nghiên cứu về chủ đề bán phá giá, có rất nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Các chuyên gia kinh
tế có những lý giải dưới góc độ kinh tế, các chuyên gia pháp lý có cách lý giải dưới góc độ pháp luật và các
chuyên gia ngôn ngữ đương nhiên lại có cách hiểu riêng… Tuy nhiên, điểm chung của các học giả khi định
nghĩa về bán phá giá là đều nói đến “sự phân biệt giá giữa các thị trường khác nhau”.
2.1.2. Phân loại bán phá giá
Bán phá giá được các nhà nghiên cứu phân ra nhiều loại, với các tiêu chí và các cách phân loại khác
nhau, bao gồm: Phân loại bán phá giá theo Hiến chương Havana; Phân loại bán phá giá căn cứ vào động cơ
và mục đích; và một số biến tướng của bán phá giá.
2.1.3. Ảnh hưởng của bán phá giá đối với nền kinh tế
Ảnh hưởng của bán phá giá đối với nền kinh tế bao gồm: Tác động tích cực và tiêu cực của bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu đến nền kinh tế của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu
2.2. Chống bán phá giá và một số khái niệm trong điều tra chống bán phá giá
2.2.1. Chống bán phá giá
8
Mục đích của việc đánh thuế chống bán phá giá là nhằm phục hồi sự tăng trưởng của ngành sản xuất
trong nước, ổn định thị trường bị thiệt hại bởi do hàng hóa nhập khẩu bán phá giá gây ra.
Tuy nhiên, vấn đề là khi nước nhập khẩu hạn chế được khối lượng hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia bị
đánh thuế thì sẽ dẫn đến hiện tượng tăng sản lượng nhập khẩu từ quốc gia thứ ba. Mức độ chuyển hướng hoạt

động nhập khẩu sản phẩm tương tự từ nước thứ ba sẽ cho thấy hiệu quả của việc áp dụng biện pháp chống bán
phá giá của nước nhập khẩu. Thuế chống bán phá giá sẽ làm giảm khối lượng nhập khẩu sản phẩm tương tự từ
một số quốc gia nhất định và làm tăng giá đối với loại hàng hóa nhập khẩu.
2.2.2. Tác động của chính trị đối với chống bán phá giá
Qua nghiên cứu, hiện nay một số công trình đã chứng minh được sự tác động của chính trị đối với
chống bán phá giá. Vận động hành lang là một hình thức rất phổ biến đối với các bên khi tham gia vụ kiện
chống bán phá giá.
2.2.3. Một số khái niệm trong điều tra chống bán phá giá
2.2.3.1. Thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước
Thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước bao gồm: Gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất
trong nước; đe dọa gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và gây chậm trễ cho việc hình thành
ngành sản xuất trong nước
2.2.3.2. Mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá giá với thiệt hại vật chất của ngành sản xuất
trong nước
Sự liên quan giữa hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với sự thiệt hại của ngành sản xuất trong
nước. Trong đó, hành vi bán phá giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
2.2.3.3. Khái niệm ngành sản xuất trong nước
Khái niệm ngành sản xuất trong nước được dùng để chỉ ngành (hoặc tập hợp các nhà sản xuất) kinh
doanh trên thị trường bao trùm toàn bộ lãnh thổ của một quốc gia. Khi chứng minh được ngành sản xuất trong
9
nước bị thiệt hại do hàng hoá nhập khẩu được bán phá giá, khi đó ngành này đủ điều kiện để được bảo vệ bằng
hình thức đánh thuế chống bán phá giá. Bên cạnh đó, Hiệp định ADA còn cho phép cả ngành sản xuất tại một
khu vực thị trường (một phần lãnh thổ của một nước) hay còn gọi là ngành sản xuất vùng (regional industry).
2.2.3.4. Khái niệm sản phẩm nội địa tương tự
Phân tích về “sản phẩm tương tự” thì cần phải giải thích từ “tương tự” là như thế nào, không thể áp
dụng khái niệm “tương tự” mà không chỉ ra các đặc tính để “cấu thành” sự “tương tự”. Để so sánh được “sản
phẩm tương tự” cần phải xác định được các tiêu chí mà tính tương tự có thể đo được, đó là các tiêu chí về đặc
tính vật lý….
2.2.3.5. Khái niệm về chứng cứ
Chứng cứ được hiểu là những thông tin mà cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, tức là các thông tin được

yêu cầu cung cấp thông qua bảng câu hỏi và các tài liệu liên quan để chứng minh rằng những câu trả lời của
bên liên quan là đúng. Bên cạnh đó, các bên liên quan có thể tự mình cung cấp thêm các tài liệu có liên quan
đến vụ kiện ngoài các thông tin mà cơ quan điều tra đã yêu cầu cung cấp.
Việc cung cấp chứng cứ là không bắt buộc đối với bên bị kiện. Tuy nhiên, nếu bị đơn không hợp tác thì
cơ quan điều tra sẽ sử dụng các “thông tin sẵn có”(Fact available – FA) để xác định mức thuế chống bán phá
giá.
2.2.3.6. Khái niệm lẩn tránh thuế chống bán phá giá
Lẩn tránh thuế chống bán phá giá là một chiến lược trong hoạt động thương mại quốc tế của các nhà
sản xuất/xuất khẩu nước ngoài khi quốc gia nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm tương
tự đó để bảo vệ ngành sản xuất trong nước.
10
Bản chất của hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá tức là nhà xuất khẩu nước ngoài che dấu nguồn
gốc xuất xứ của sản phẩm bán phá giá đối với cơ quan hải quan của nước nhập khẩu, các đối tác kinh doanh và
người tiêu dùng. Hành vi này được thể hiện ở việc nhà sản xuất nước ngoài chuyển một phần hoặc toàn bộ nhà
máy sản xuất sản phẩm tương tự từ quốc gia đang bị áp dụng thuế chống bán phá giá sang một quốc gia thứ ba
không bị đánh thuế chống bán phá giá hoặc sang chính quốc gia nhập khẩu.
Hiện thời, WTO chưa có khái niệm chung về lẩn tránh thuế chống bán phá giá. Do vậy, một số thành
viên của WTO đã ban hành các văn bản pháp lý về chống lẩn tránh thuế của mình riêng mình. EU và Hoa Kỳ là
các quốc gia đi đầu quy định về lẩn tránh thuế chống bán phá giá.
Do chưa có sự thống nhất của WTO về khái niệm chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, thì việc các
quốc gia đưa quy định này vào trong nội luật của mình là hoàn toàn chính đáng và để bảo vệ ngành sản xuất
trong nước của họ. Tuy nhiên, các quy định đơn phương có thể dẫn đến sự phản đối từ các quốc gia khác, bởi vì
ít nhất hai lý do: (i) Thứ nhất, các quy định đơn phương tạo ra sự thiếu đồng nhất trong các quy định về chống
bán phá giá; (ii) Thứ hai, các quy định ở Hoa Kỳ và EU cho thấy rằng, các quy định trong nước về chống lẩn
tránh thuế có thể mặc nhiên tạo ra cho chính quyền trong nước có cơ hội tùy tiện áp dụng thuế chống bán phá
giá mà không quan tâm có phù hợp với các quy định của WTO hay không.
Kết luận chương 2:
Trong chương hai, luận án đã khái quát được quan điểm của các học giả về bán phá giá. Mỗi học giả
đưa ra một cách định nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, quan điểm của Jacob Viner “sự phân biệt giá giữa thị
trường các quốc gia”, hay quan điểm của các học giả Hoekman, Bernard M. and Michael P. Leidy; James

Devault; Finger, J. Michael…Mặc dù mỗi định nghĩa đều có sự khác nhau về câu chữ, nhưng giữa họ có điểm
chung là nói đến “sự phân biệt giá cả giữa thị trường các quốc gia”. Bên cạnh đó, việc phân loại hành vi bán
11
phá giá theo các tiêu chí như: theo Hiến chương Havana (phá giá về giá, phá giá dịch vụ, phá giá hối đoái, phá
giá xã hội); phân loại bán phá giá theo mục đích (phá giá không thường xuyên, phá giá ngắn hạn, phá giá dài
hạn) và một số biến tướng của bán phá giá. Việc phân loại bán phá giá cho thấy không phải tất cả hành vi bán
phá giá đều tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước nhập khẩu. Thậm chí, có đôi lúc việc bán phá giá của hàng
hóa nhập khẩu đã loại bỏ được những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả ở nước nhập khẩu.
Cùng với hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu của các nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài là hoạt
động chống bán phá giá của chính phủ nước nhập khẩu. Ngoại trừ một số trường hợp các quốc gia nhập khẩu
sử dụng công cụ này để bảo hộ ngành sản xuất trong nước, thì mục đích chống bán phá giá của chính phủ nước
nhập khẩu là nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động chống bán phá
giá cũng mang lại kết quả như mong muốn, đôi lúc còn có tác động không tốt cho nền kinh tế của quốc gia
nhập khẩu.
Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, về cơ bản pháp luật chống bán phá giá đã
được quy định thống nhất bởi Hiệp định ADA, các quốc gia thành viên WTO có thể căn cứ và Hiệp định để xây
dựng nội luật của quốc gia cho phù hợp với Hiệp định. Nhiều khái niệm, quy định trong Hiệp định ADA còn để
mở cho các quốc gia quy định chi tiết. Cũng vì thế mà khi áp dụng những khái niệm, quy định này còn gây
tranh cãi, mâu thuẫn giữa các quốc gia trong các vụ kiện chống bán phá giá.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về điều tra chống bán phá giá
3.1. Cơ quan chống bán phá giá và điều kiện để điều tra chống bán phá giá
3.1.1. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của cơ quan chống bán phá giá
3.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của cơ quan chống bán phá giá
12
Hiệp định của WTO về chống bán phá giá không quy định về hình thức tổ chức cơ quan chống bán phá
giá của các quốc gia thành viên.
Mỗi quốc gia, căn cứ vào tình hình thực tế và yêu cầu trong nước để quy định hình thức tổ chức của cơ
quan chống bán phá giá. Ở Việt Nam và EU, một cơ quan có chức năng điều tra cả hành vi bán phá giá lẫn điều
tra về thiệt hại vật chất. Trong khi đó ở Hoa kỳ, cơ quan điều tra về hành vi bán phá giá độc lập với cơ quan
điều tra về thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước.

3.1.1.2. Nhiệm vụ của cơ quan chống bán phá giá
Nhiệm vụ của cơ quan chống bán phá giá bao gồm: điều tra về hành vi bán phá giá của hàng hóa nhập
khẩu và điều tra thiệt hại của ngành sản xuất trong nước và xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán
phá giá và thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước.
3.1.2. Điều kiện để điều tra chống bán phá giá
3.1.2.1. Tư cách đại diện của đơn kiện
Tư cách đại diện của đơn kiện yêu cầu điều tra chống bán phá giá, đó là tỷ lệ ủng hộ đơn kiện phải lớn
hơn tỷ lệ phản đối đơn kiện và tỷ lệ ủng hộ đơn kiện chiếm không ít hơn 25% tổng sản phẩm tương tự sản xuất
trong nước.
Đối tượng được nộp đơn khởi kiện chống bán phá giá, ngoài các nhà sản xuất trong nước, một số quốc
gia còn quy định người lao động cũng có quyền nộp đơn khởi kiện. Bên cạnh đó, khởi xướng vụ kiện theo yêu
cầu của quốc gia thứ ba cũng đã được một số quốc gia quy định, áp dụng trong thực tiễn hoạt động chống bán
phá giá.
3.1.2.2. Những thông tin cần thiết trong hồ sơ khởi kiện
13
Những thông tin liên quan trong hồ sơ khởi kiện bao gồm: các thông tin về sản phẩm nhập khẩu được
bán phá giá, sản phẩm nội địa tương tự, giá cả, bán hàng, thông tin về nguyên đơn và bị đơn, thông tin về các
bên liên quan…
3.2. Tổ chức hoạt động điều tra chống bán phá giá
3.2.1. Thủ tục điều tra chống bán phá giá
3.2.1.1. Nộp hồ sơ đề nghị điều tra
Hồ sơ đề nghị điều tra đánh thuế chống bán phá giá phải do đại diện của ngành sản xuất trong nước nộp
đến cơ quan điều tra. Trong trường hợp không có yêu cầu của ngành sản xuất trong nước nhưng có dấu hiệu về
việc bán phá giá hàng hoá nhập khẩu thì chính phủ nước nhập khẩu có quyền tự khởi xướng điều tra chống bán
phá giá. Ngoài ra, Hiệp định ADA còn cho phép điều tra chống bán phá giá theo yêu cầu của quốc gia thứ ba.
3.2.1.2. Các bên liên quan trong vụ kiện
Các bên liên quan trong quá trình điều tra theo quy định của Việt Nam đã khá cụ thể, chi tiết và mở rộng
hơn một vài điểm so với quy định của Hiệp định chống bán phá giá. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quy định
của Hoa Kỳ, hay một số quốc gia khác thì họ có nhiều điểm cụ thể hơn và mở rộng hơn của chúng ta. Chẳng
hạn như ở Hoa Kỳ, không chỉ các nhà sản xuất sản phẩm nội địa tương tự với sản phẩm nhập khẩu được bán

phá giá tại Hoa Kỳ hoặc Hiệp hội ngành sản xuất, mà còn bao gồm các nhà bán buôn hoặc Hiệp hội các nhà
bán buôn sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ cũng được coi là bên liên quan.
3.2.1.3. Điều tra sơ bộ
Giai đoạn điều tra sơ bộ theo quy định của pháp luật Việt Nam, Hoa Kỳ, EU đều nằm trong khung thời
gian giới hạn và quy định của Hiệp định ADA. Tuy nhiên mức độ chi tiết thì mỗi quốc gia có quy định khác
nhau.
14
3.2.1.4. Chấm dứt điều tra chống bán phá giá
Trong quá trình điều tra, vụ kiện chống bán phá giá sẽ chấm dứt điều tra trong các trường hợp sau: (1)
Tổ chức, cá nhân có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá tự nguyện rút hồ sơ; (2) Kết luận sơ
bộ khi có một trong các nội dung sau: (i) Không có bán phá giá; (ii) Biên độ phá giá không đáng kể; (iii) Khối
lượng, số lượng hoặc giá trị hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam không đáng kể; (iv) Không có thiệt hại đáng
kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
3.2.1.5. Kết luận điều tra cuối cùng.
Sau khi có kết luận điều tra sơ bộ và không có các trường hợp dẫn đến đình chỉ vụ kiện. Cơ quan điều
tra phải tiếp tục điều tra giai đoạn cuối cùng và đưa ra kết luận cuối cùng về việc hàng hóa bị điều tra có bị áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá hay không.
3.2.2. Áp dụng các biện pháp cam kết
Biện pháp “cam kết giá” do các bên thỏa thuận để nhằm tăng giá sản phẩm được bán phá giá ở thị
trường nước nhập khẩu. Mục đích là loại bỏ biên độ phá giá và thiệt hại của ngành sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, biện pháp “tự nguyện hạn chế xuất khẩu” cũng đang được một số quốc gia áp dụng cho
một số trường hợp nhất định.
3.3. Bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá và rà soát quyết định chống bán phá giá
3.3.1. Bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá
3.3.1.1. Những loại thông tin được bảo mật.
Những loại thông tin được bảo mật trong Hiệp định ADA, pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ,
EU đều quy định các thông tin liên quan đến giá trị thương mại của doanh nghiệp, liên quan đến lợi thế cạnh
15
tranh, thông tin khách hàng….Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam quy định khác hơn là các thông tin liên quan đến
bí mật quốc gia, còn các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp thì không được đề cập cụ thể.

3.3.1.2. Thủ tục bảo mật thông tin
Thủ tục bảo mật thông tin trong điều tra chống bán phá giá của Việt Nam, Hoa Kỳ và EU đều phù hợp
với Hiệp định ADA. Tuy nhiên, cách thức thực hiện cụ thể thì có sự khác nhau giữa các quốc gia.
3.3.1.3. Tiếp cận thông tin mật
Theo Hiệp định ADA, thông tin đã được bảo mật thì sẽ không được tiết lộ nếu không có sự đồng ý của
bên cung cấp thông tin. So với Hiệp định ADA, pháp luật Việt Nam và EU. Hoa Kỳ có quy định khác biệt là
thông tin đã được bảo mật có thể được tiếp cận một cách giới hạn.
3.3.1.4. Hình thức chế tài khi tiết lộ thông tin mật
Pháp luật Hoa Kỳ quy định rất cụ thể các hình thức chế tài khi tiết lộ thông tin mật. Còn ở Việt Nam thì
quy định về chế tài chưa cụ thể, còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
3.3.2. Rà soát quyết định chống bán phá giá
3.3.2.1. Rà soát Tư pháp
Thủ tục rà soát tư pháp quyết định chống bán phá giá ở Việt Nam, Hoa Kỳ và EU đều bảo đảm quy
định của Hiệp định ADA, đó là: cơ quan rà soát tư pháp độc lập với cơ quan ban hành quyết định chống bán
phá giá.
Tuy nhiên, trình tự và thủ tục quy định rà soát tư pháp ở mỗi quốc gia đều có cách thức khác nhau.
3.3.2.2. Rà soát hành chính
Các quy định về rà soát hành chính ở Hoa Kỳ, Việt Nam, EU đều tuân thủ Hiệp định ADA. Tuy nhiên,
thủ tục cụ thể ở giữa các quốc gia đều có sự khác biệt nhất định.
Kết luận chương 3:
16
Chương ba của luận án đã so sánh, phân tích các nội dung liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của cơ
quan chống bán phá giá; trình tự và thủ tục điều tra chống bán phá giá, cũng như rà soát lại các quyết định
chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định ADA, pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam, Hoa Kỳ và
EU.
Đối với cơ quan chống bán phá giá, Hiệp định ADA không quy định về tổ chức và nhiệm vụ của cơ quan
chống bán phá giá. Vấn đề này ở mỗi quốc gia có quy định riêng theo nhu cầu và tình hình thực tiễn ở mỗi
nước. Ở Việt Nam, cơ quan điều tra chống bán phá giá có thẩm quyền điều tra cả về hành vi bán phá giá của
hàng hóa nhập khẩu và thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước do hàng hóa bán phá giá gây ra. Nhiệm
vụ của cơ quan điều tra kết thúc sau khi ra kết luận cuối cùng và chuyển hồ sơ cho Hội đồng xử lý vụ việc để

quyết định. Cũng tương tự ở Việt Nam, pháp luật chống bán phá giá của EU cũng quy định Ủy ban Châu Âu
cũng có thẩm quyền để điều tra về thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước lẫn hành vi bán phá giá của
hàng hóa nhập khẩu, sau khi có kết luận điều tra cuối cùng thì sẽ chuyển hồ sơ để Hội đồng Châu Âu quyết
định. Khác với Việt Nam và EU, Hoa Kỳ quy định cơ quan có thẩm quyền điều tra về hành vi bán phá giá là
DOC, còn điều tra về thiệt hại vật chất của ngành sản xuất trong nước lại thuộc thẩm quyền của ITC. Xét về cơ
cấu tổ chức của cơ quan chống bán phá giá của mỗi quốc gia đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Trình tự, thủ tục điều tra chống bán phá giá đã được Hiệp định ADA quy định khá cụ thể: thời gian điều
tra, điều kiện để điều tra chống bán phá giá, biên độ bán phá giá không đáng kể, các bên liên quan trong vụ
kiện.v.v…Về cơ bản, pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam, Hoa Kỳ và EU đã tuân thủ đầy đủ các quy
định của Hiệp định ADA. Tuy nhiên, nếu so với Hoa Kỳ và EU thì mức độ chi tiết của pháp luật chống bán phá
giá Việt Nam còn thiếu, chưa bảo đảm thi hành (bản câu hỏi, điều tra tại chỗ, bảo mật thông tin, chứng cứ…)
Quy định pháp luật về rà soát hành chính và rà soát tư pháp đối với quyết định chống bán phá giá về cơ
bản là tuân thủ Hiệp định ADA. Đối với rà soát hành chính, pháp luật ở các quốc gia được so sánh không có sự
17
khác biệt nhau quá nhiều. Tuy nhiên, đối với rà soát tư pháp thì quy định của các quốc gia là có sự khác nhau
nhất định. Theo tinh thần của Hiệp định ADA thì cơ quan có nhiệm vụ rà soát tư pháp là do mỗi quốc gia quy
định, với điều kiện là cơ quan đó phải độc lập với cơ quan ban hành quyết định chống bán phá giá. Vì thế, mặc
dù ở các quốc gia được so sánh trong luận án đều quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xem xét lại theo
thủ tục tư pháp, nhưng ở Hoa Kỳ là do Tòa án thương mại quốc tế Hoa Kỳ(đây là Tòa án chuyên trách về
thương mại quốc tế); còn ở Việt Nam thì lại Tòa án Hành Chính (thuộc hệ thống Tòa án nhân dân); ở Châu Âu
thì có thể khởi kiện ra Tòa án một nước thành viên Châu Âu (Tòa án quốc gia) hoặc khiếu kiện trực tiếp ra Tòa
án Châu Âu (Court of First Instance-CFI).
Chương 4: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc của
GATT/WTO, các cam kết riêng của Việt Nam về gia nhập WTO và Hiệp định ADA
4.1.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều tra chống bán phá giá trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của GATT/WTO
Khi hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá, Việt Nam phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc của GATT, WTO. Trong đó có những nguyên tắc quan trọng như: Nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên
tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc Minh bạch hóa chính sách, nguyên tắc cạnh trnh công bằng, nguyên tắc mở

cửa thị trường…
4.1.1.2. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá trên cơ sở các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
Khi gia nhập WTO, ngoài những cam kết chung theo quy định của các thành viên WTO, Việt Nam phải
thực hiện các cam kết riêng khi gia nhập.
4.1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá trên cơ sở phù hợp với Hiệp định ADA
18
Hiệp định ADA là một Hiệp định khung, các quốc gia đều phải tuân thủ Hiệp định này. Trong đó có
một số điều khoản “mở”, các quốc gia được quyền quy định cho phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội, nhưng
không được trái với Hiệp định ADA.
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn.
4.1.2.1. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá xuất phát từ yêu cầu vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá phải đáp ứng được yêu cầu quản lý, vận hành
của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.1.2.2. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá phải bảo đảm được yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
4.1.2.3. Hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá xuất phát từ yêu cầu bảo vệ ngành sản xuất trong
nước, của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Mục đích chính của pháp luật chống bán phá giá là bảo vệ quyền lợi của ngành sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá phải bảo đảm được lợi ích của
người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
4.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá
4.2.1. Chính xác hóa các khái niệm pháp lý trong điều tra chống bán phá giá
4.2.1.1. Xác định rõ khái niệm sản phẩm tương tự
Việc xác định rõ khái niệm sản phẩm tương tự sẽ bảo đảm cho việc minh bach hơn, đầy đủ hơn và
chính xác hơn khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
4.2.1.2. Cụ thể hóa quy định về chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá
19

Lẩn tránh thuế chống bán phá giá đã được hiệp định ADA thừa nhận. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ
thể. Hoa Kỳ, EU đã có những quy định về chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá để bảo đảm hiệu quả áp dụng
pháp luật chống bán phá giá. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định này, vì thế cần phải quy định chống lẩn
tránh thuế chống bán phá giá để bảo đảm thực thi pháp luật chống bán phá giá được tốt hơn.
4.2.1.3. Cụ thể hóa quy định về các biện pháp cam kết
Các biện pháp cam kết đã được pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam quy định. Đối với biện pháp
cam kết giá, cần phải quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục cam kết giá và mức độ cam kết giá.
Còn với quy định thỏa thuận hạn chế xuất khẩu, hiện nay GATT đã không cho phép các quốc gia sử
dụng biện pháp này, hơn nữa Hiệp định ADA cũng không quy định biện pháp này. Vì thế, Việt Nam không nên
quy định về biện pháp này trong pháp luật chống bán phá giá.
4.2.1.4. Xây dựng tiêu chí định lượng quy định về khối lượng hàng hóa nhập khẩu và biên độ phá giá không
đáng kể
Liên quan đến nội dung này, pháp luật chống ban phá giá của Việt Nam cần phải sửa đổi ở các nội
dung sau đây: (i)Thứ nhất: Tỷ lệ hàng hóa nhập khẩu không đáng kể cho mỗi quốc gia được quy định tại điều
2.4 Pháp lệnh chống bán phá giá là “ít hơn” 3% thay cho quy định hiện thời là “không vượt quá” 3%; cũng
tương tự quy định về biên độ phá giá không đáng kể được quy định tại điều 2.3 Pháp lệnh chống bán phá giá
phải sửa đổi là “ít hơn” 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam thay cho quy định hiện thời là “không vượt
quá” 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam; (ii) Thứ hai, giới hạn thời gian để thống kê khối lượng hàng
hóa nhập khẩu phải được xác định rõ là bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày. Việc xác định rõ, cụ thể, nhằm hạn
chế sự tùy tiện của cơ quan điều tra.
4.2.1.5. Hoàn thiện khái niệm về chứng cứ trong điều tra chống bán phá giá
20
Các nội dung liên quan đến vấn đề chứng cứ cần phải hoàn thiện một số vấn đề như quy định cụ thể về
nguồn chứng cứ; Thủ tục giao nộp chứng cứ; xác minh, thu thập chứng cứ…Bên cạnh đó bản câu hỏi cũng
được kiến nghị hoàn thiện.
4.2.2. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục điều tra chống bán phá giá.
4.2.2.1. Hoàn thiện các quy định về cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của cơ quan chống bán phá giá
Theo đó, cơ quan điều tra chống bán phá giá được phép mời các chuyên gia trong các lĩnh vực liên
quan đến vụ kiện chống bán phá giá để tham gia quá trình điều tra; Quyền hạn của cơ quan điều tra là rất lớn,
trong khi không có cơ quan nào giám sát hay tư vấn độc lập cho quá trình điều tra, có thể sẽ dẫn đến sự lạm

dụng quyền lực. Vì thế, cần phải có tổ chức giám sát hoặc tư vấn độc lập để tư vấn cho cơ quan chống bán phá
giá trong một số trường hợp cần thiết.
Ngoài ra, nhiệm vụ của Hội đồng xử lý là mờ nhạt, cần phải quy định thẩm quyền của Hội đồng có
quyền quyết định nhiều hơn.
4.2.2.2. Hoàn thiện các quy định về tư cách đại diện của đơn kiện
Cần phải quy định rõ: (i) Người lao động có quyền tự khởi kiện vụ kiện chống bán phá giá hay không?.
(ii) Trong trường hợp, nếu người lao động có quyền tự khởi kiện thì cần phải quy định rõ trình tự, thủ tục để
Công đoàn thay mặt người lao động thực hiện việc khởi kiện; (iii) Trường hợp trong cùng một doanh nghiệp
mà quan điểm của chủ doanh nghiệp và người lao động đối lập nhau thì doanh nghiệp đó không được xem là
ủng hộ hay phản đối đơn kiện.
Bên cạnh đó, cần phải làm rõ vai trò của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vụ kiện và
Việt Nam phải có cơ chế để bảo vệ ngành sản xuất trong nước của các quốc gia thứ ba.
4.2.2.3. Hoàn thiện các quy định về các bên liên quan trong vụ kiện
21
Cần phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của Công đoàn và Hiệp hội người tiêu dùng khi tham
gia vụ kiện.
Bãi bỏ quy định: cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam là bên liên quan trong vụ kiện và sửa
đổi quy định tại điều 11.10 Pháp lệnh chống bán phá giá là: Chính phủ của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu
hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
4.2.2.4. Hoàn thiện các quy định về giai đoạn điều tra sơ bộ
Quy định trong điều 31, khoản 3, Nghị định 90/NĐ-CP/2005 là “sau bảy ngày làm việc…” cần phải
sửa đổi thành “trong vòng bảy ngày làm việc…”.
4.2.2.5. Hoàn thiện quy định về chấm dứt điều tra chống bán phá giá
Quy định thêm các trường hợp đình chỉ vụ kiện chống bán phá giá bao gồm cả trường hợp Bộ trưởng
rút quyết định khởi xướng điều tra, trong trường hợp Bộ trưởng tự ra quyết định khởi xướng điều tra theo quy
định tại điều 8.2 Pháp lệnh chống bán phá giá;
Quy định chi tiết hơn về trường hợp rút đơn kiện và nộp lại đơn kiện của nguyên đơn.
4.2.2.6. Hoàn thiện các quy định về rà soát tư pháp
Liên quan đến điều 26.1 Pháp lệnh chống bán phá giá, đề nghị bổ sung thêm quy định: “trong thời hạn
60 ngày, kể từ ngày Bộ trưởng Bộ thương mại ra quyêt định về áp dụng thuế chống bán phá giá, nếu các bên

liên quan đến quá trình điều tra không đồng ý thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Thương mại hoặc khởi
kiện ra Tòa án có thẩm quyền hoặc khiếu nại lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO”
Kiến nghị sửa đổi điều 26.3 pháp lệnh chống bán phá giá như sau “trường hợp quá thời hạn quy
định hoặc không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện ra Tòa án theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc khiếu nại lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.”
22
Thủ tục tố tụng để giải quyết rà soát tư pháp đối với chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ cần phải có
quy định riêng, không thể áp dụng chung đối với các tranh chấp nội địa thông thường thông qua con đường Tòa
án.
Cần thành lập một cơ quan chuyên trách về rà soát tư pháp đối với các biện pháp phòng vệ thương mại
là phù hợp đôi với tình hình hiện nay ở Việt Nam, cơ quan này có thể trực thuộc hệ thống Tòa án nhân dân
hoặc độc lập nhưng không cần phải có trụ sở ở các cấp địa phương như tòa án khác, chỉ cần trung tâm duy nhất
có trụ sở tại Hà Nội.
4.2.2.7. Hoàn thiện các quy định về bảo mật thông tin
Kiến nghị bổ sung quy định về thông tin được bảo mật nên bao gồm: các thông tin liên quan đến bí
mật thương mại, chế biến, sản xuất kinh doanh, sản lượng, bán hàng, vận chuyển, mua hàng, còn các thông
tin đến bí mật quốc gia không cần phải đưa vào quy định trong pháp luật chống bán phá giá, mà đã được điều
chỉnh bởi văn bản pháp luật liên quan đến bí mật quốc gia.
Quy định liên quan đến chế tài khi tiết lộ thông tin được bảo mật, pháp luật chống bán phá giá cần phải
quy định cụ thể các hình thức chế tài khi cơ quan chống bán phá giá hoặc các bên liên quan tiết lộ thông tin đã
được bảo mật.
4.2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam
4.2.3.1. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Hỗ trợ các doanh nghiệp, ngành sản xuất trong nước về mặt pháp lý cũng như các thông tin cần thiết để
chuẩn bị cho việc nộp đơn kiện; chủ động khởi xướng điều tra chống bán phá giá kể cả trong trường hợp không
có đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước.
4.2.3.2. Một số kiến nghị với các ngành sản xuất trong nước
23
Chủ động và đoàn kết hơn trong việc hợp tác để yêu cầu điều tra chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam.

Kết luận chương bốn:
Từ những phân tích những vấn đề lý luận và các khái niệm liên quan trong chống bán phá giá ở chương
hai và phân tích, so sánh thực trạng quy định pháp luật về điều tra chống bán phá giá ở chương ba.
Trong chương bốn, luận án đã phân tích một số nguyên nhân, hoàn cảnh kinh tế-xã hội của Việt Nam,
bối cảnh ra đời của Pháp luật chống bán phá giá, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời và nhu cầu hoàn
thiện pháp luật về điều tra chống bán phá giá để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, cũng như bảo đảm sự hoạt
động lành mạnh của nền kinh tế.
Liên quan đến nội dung đinh hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về điều tra chống bán phá giá, sự
cần thiết phải hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với các cam kết và nguyên tắc của WTO, cũng như cam kết
riêng của Việt Nam khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về điều tra
chống bán phá giá phải bảo đảm được sự củng cố và xây dựng nhà nước pháp quyền, phục vụ cho nền kinh tế
thị trường và nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất trong nước, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và lợi ích
chung của xã hội.
Từ phân tích các nội dung tại chương hai và chương ba, luận án đã chỉ ra được một số bất cập trong các
quy định pháp luật liên quan đến một số khái niệm, trình tự và thủ tục điều tra chống bán phá giá của Việt Nam,
một số điểm chưa phù hợp với Hiệp định ADA (các loại thông tin được bảo mật, quy định về cam kết tự
nguyện hạn chế xuất khẩu…), một số điểm chưa bảo đảm đủ chi tiết để thi hành (bản câu hỏi, thủ tục lấy ý kiến
của ngành sản xuất trong nước…), một số vấn đề cần phải quy định trong pháp luật chống bán phá giá (lẩn
tránh thuế chống bán phá giá, thủ tục điều tra tại chỗ…)
24
Cuối cùng là một số kiến nghị đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đầu mối là Bộ Công thương
cần phải chủ động hơn nữa trong việc hỗ trợ ngành sản xuất trong nước trong việc củng cố hồ sơ và chứng cứ
trước khi nộp đơn kiện. Đặc biệt là Bộ Công thương có thể dùng quyền của mình được quy định trong Hiệp
định ADA và Pháp lệnh chống bán phá giá để tự khởi xướng điều tra khi thấy có hành vi bán phá giá của hàng
hóa nhập khẩu.
Bên cạnh đó, ngành sản xuất trong nước cũng phải chủ động bảo vệ quyền lợi của mình, cần phải có
sự hợp tác toàn diện giữa các doanh nghiệp trong Hiệp hội ngành nghề để nhằm giảm chi phí khởi kiện, kết quả
sẽ đạt cao hơn, không nên ỷ lại hoàn toàn vào chính phủ.
Kết luận
So với lịch sử ra đời hơn 100 năm của pháp luật về chống bán phá giá ở các quốc gia công nghiệp phát

triển, chính sách và pháp luật chống bán phá giá trong thương mại quốc tế đã có những thay đổi và hoàn thiện
hơn rất nhiều. Tuy nhiên, chính sách này cũng đang tồn tại nhiều vấn đề gây cản trở hoạt động tư do thương
mại. Đối với Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá là còn rất mới mẻ, kinh nghiệm về tổ chức điều tra
chống bán phá giá chưa có, quy định pháp luật về chống bán phá giá cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu để
bảo vệ ngành sản xuất trong nước, cũng như lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Từ những khái niệm ban đầu về bán phá giá, theo nhiều quan điểm của các học giả khác nhau, và sự
hoàn thiện thành khái niệm thống nhất về bán phá giá trong Hiệp định ADA. Bên cạnh đó, sự phân loại hành vi
bán phá giá trong hoạt động thương mại quốc tế cũng đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ. Quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật về chống bán phá giá cũng đã được trình bày một cách tuần tự, những vấn đề
đã được giải quyết và những vấn đề mới phát sinh trong thương mại quốc tế chưa được giải quyết, cũng như
những tranh cãi còn chưa có hồi kết trong các cuộc đàm phán về chống bán phá giá trong WTO. Những khái
25

×