1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ:
“Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ
có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường.
Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ,
bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các
yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các
lĩnh vực tài chính tiền tệ, điện tử viễn thông, sinh học, môi trường…
còn tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế
dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn
vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế” [35, tr.182183]. Vì thế, Việt Nam
đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có
nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản cách mạng
đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt Nam bằng mọi âm
mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính
trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình đó, để góp
phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát
triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra.
Phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số
2
tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Trong thời kỳ mới, tình hình biên giới đất liền
cũng như biên giới phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được
giải quyết theo hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông
vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn trong khu vực nói chung và giữa
Việt Nam với Trung Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung
đột cả biên giới trên bộ và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn
không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên
giới phía Bắc vẫn là khu vực chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù
địch luôn tìm cách lợi dụng, chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình
hình đó, vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền
quốc gia nói chung, biên giới phía Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm
vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải phát triển kinh tế xã
hội một cách toàn diện. Có như vậy mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội
vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng an ninh trong thời kỳ mới.
Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc
luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề ra
nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế xã hội; quốc
phòng, an ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh
biên giới phía Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không
đồng bộ, điểm xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã
tác động tới mất ổn định về kinh tế xã hội; quốc phòng và an ninh không được
đảm bảo. Vì vậy, phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc vừa là yêu cầu cơ bản, lâu dài của sự
3
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho
nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do
đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm luận án tiến sỹ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu:
Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh
biên giới phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và
những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số địa phương.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ
sau:
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển kinh tế xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ ra những nội dung đã được đề cập
nghiên cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế
xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt
Nam.
+ Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc,
chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề
đặt ra trong thời kỳ mới.
+ Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên
giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
4
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế
xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía
Bắc. Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân
tố ảnh hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính trị…
Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh, kinh tế xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng,
an ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế
xã hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngày
nay, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng,
an ninh càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế xã hội ổn định
nhanh, bền vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh;
quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình,
ổn định, là tiền đề, điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo quốc phòng, an
ninh phù hợp với từng điều kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể trên từng địa
phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh
tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm
rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh; nội dung phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh
5
hưởng đến phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật
chất kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên
ngành Kinh tế quân sự Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc
phòng, an ninh là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo),
theo đó luận án nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng.
Về không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trong
đó tập trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội gắn với
đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung
vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo
vệ Tổ quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh; những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế xã
hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ
thị, nghị quyết của Bộ Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê
của các cơ quan, sở, ban, ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công
trình liên quan đến đề tài đã được công bố; kết quả điều tra khảo sát
6
nghiên cứu thực tế có liên quan đến đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn của
luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế
chính trị Mác Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết
hợp các phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so
sánh và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương
pháp đó được vận dụng vào các chương cụ thể như sau:
Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp
thống kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong
những quá trình và những hiện tượng phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ đó tách ra những cái điển
hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy
nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản
chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản
ánh những bản chất, để thấy được bản chất của vấn đề mà các công trình
khoa học, các đề tài, luận án trước đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục
nghiên cứu, kế thừa và phát triển để làm cơ sở cho nghiên cứu các chương
sau của luận án.
Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này
chủ yếu sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để hình thành các
khái niệm, phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện
7
tượng quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập
sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện
tượng và quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh mà đề tài luận án đưa ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa
học là phương pháp phân tích để thấy được những nội dung, những nhân tố
ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh.
Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo
quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên
cứu trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng
hợp, thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và
phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4:
quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.
Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội
dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt
phương pháp logic và lịch sử.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển
kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt
ra đối với phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện
nay.
8
Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội gắn
với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục
các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận
án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng
của thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
9
Nam, mà là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh
giai cấp, còn mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với
Việt Nam, phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách
quan, là sự thiết lập mối quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái
này tạo tiền đề cho phát triển cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức
và tổ chức thực hiện nội dung gắn kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì
vậy, việc khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều
kênh thông tin, đặc biệt là những công trình khoa học đã được công bố liên quan
đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp cho luận án có cơ sở khoa học trong
kế thừa, phát triển.
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam
1.1.1. Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong
thời kỳ Phong kiến
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và
trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ
khi các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó,
tiến công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT
và QP là những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và
thường xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững bảo vệ vững chắc đất
nước. Vì vậy, ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT XH gắn với đảm bảo
QP, AN đã trở thành kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế sách
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là
truyền thống quý báu của dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh
giặc ngay từ thời bình; đồng thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh
giặc, vừa lao động sản xuất; thắng giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào
10
cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn
với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất, đây là sự nhận thức về tính tất
yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức mối quan hệ chặt chẽ
giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”, “Phú quốc, binh
cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP đủ sức ngăn
ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù; QP
mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách
“Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được
biểu hiện tập trung ở những nội dung sau:
Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách
giữ nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu
biểu là kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần
và Lê Sơ; “Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường...
“Ngụ binh ư nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết
hợp quân với dân cùng xây dựng quân đội, chỉ duy trì một số lượng quân
thường trực hợp lý. Kế sách “Ngụ binh ư nông” là sản phẩm của nhận
thức coi trọng việc binh với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo
đảm sự cân đối, hợp lý giữa phát triển KT và củng cố QP, giữa xây dựng
LLVT thường trực với LLVT dự bị. Khi Bàn về kế sách “Ngụ binh ư
nông”, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá: “Chế độ binh lính của nhà Lý…
mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về quê làm
ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn nuôi lính, mà có
công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay” [63, tr.27]. Nhà sử học Phan
Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề nông là có ý phục
việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc vệ, đội
ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc vô sự
11
thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn đủ
mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến công
dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân Nguyên
cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế nào” [18, tr.8]; “Đời
Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh
cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý… binh
các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi binh
đời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không
phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không
đổi” [18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ
chế hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây
dựng LLVT phòng giữ đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ sở
phát triển KT với củng cố lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh
mạnh, lương nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ tao ra một
lực lượng hùng hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc.
Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực
lượng, khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính
sách giãn dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân
bố lại lực lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa
phục vụ cho nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện
gửi lực lượng, tích trữ lương thực trong dân để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến
tranh bảo vệ biên cương đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa
quân lính lên khai hoang lập ấp ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn.
Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ…
rất coi trọng mở mang hệ thống giao thông thuỷ, bộ như: kênh nhà Lê ở
Thanh Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa
12
phục vụ nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ
động lực lượng, phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi
chiến tranh xảy ra.
Bốn là, để chuẩn bị cho công cuộc giữ nước từ thời bình, các triều
đại phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có
tính lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là
các ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa
đảm bảo nhu cầu QP của đất nước.
Trên thực tế, từ thế kỷ XI, ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát
triển các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính
chất KT như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình,
vừa sản xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo
nhu cầu xây dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản
xuất được thuyền lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển
gần; vũ khí hạng nặng như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần
cơ song pháo” là một loại hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các
loại thuyền chiến, vũ khí rất phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các
lò thủ công gia đình cũng được quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất
các sản phẩm dân sinh đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương;
thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS
như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ
sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ khí cho các lực lượng dân binh, thổ
binh và còn đảm bảo cung ứng, sửa chữa vũ khí cho cả quân triều đình khi
chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy, các triều đại phong kiến
nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính lưỡng dụng, vừa đáp
13
ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả năng đảm bảo QP,
AN của đất nước.
1.1.2. Phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an
ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
1.1.2.1. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược
Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin về mối quan hệ KT với chiến tranh, KT với QP, kế thừa truyền
thống, kinh nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc, sự nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn
có những phát triển mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ
thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945),
xác định nhiệm vụ cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống
cho nhân dân” [26, tr.2627]. Qua Chỉ thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng
đắn mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc. Thực chất, đó là sự nhận
thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát triển KT với đảm bảo QP của Đảng,
Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn đề đảm bảo QP với phát triển KT
thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian chuẩn bị cho kháng chiến cũng
được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị QS toàn quốc của Đảng
(19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của quân đội: “Những nơi
bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt buộc phải tham
gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128129]. Khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng ra Chỉ thị “Toàn
14
quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ thị xác định: Toàn dân kháng chiến,
kháng chiến khắp nơi; mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài;
mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia sản
xuất để kháng chiến; giữ gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng
về phát triển KT với đảm bảo QP.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết Hội nghị cán bộ
Trung ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn
cứ địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến
thuật tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy
chay và QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia
sản xuất” [26, tr.180181, 185]. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ III
(15/6/1947), tiếp tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng
gia sản xuất của quân đội: “Các chính trị viên cần làm cho bộ đội hiểu
rằng tăng gia sản xuất là một nhiệm vụ quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù
trong thời kỳ này, thực hiện chức năng, nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu,
nhưng quân đội đã quán triệt và nhận thức sâu sắc nhiệm vụ sản xuất.
Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm 1951) xác định: Muốn kháng
chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng KT, tài chính, phải coi
nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây chính là những phát
triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về mối quan hệ
giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong thực hiện
chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.
15
Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng
lợi, nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2
năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12
(mở rộng), ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác
định: “Trong khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải
kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng
cố quốc phòng, nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước
nhà” [27, tr.262]. Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn
về nhiệm vụ khôi phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ
mới.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, có thể thấy
rằng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự
nhận thức hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP
xuyên suốt thời kỳ này. Nghị quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: “ Một là, tiến hành cách
mạng XHCN ở Miền Bắc. Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và
dân chủ trong cả nước” [28, tr.916]. Như vậy, đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng KT với củng cố QP trong thời kỳ chống
đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường
lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong kháng chiến chống thực dân Pháp
thành đường lối kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng, phát triển KT với tăng
cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững chắc, rộng lớn khắp cả
nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi.
1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội đến khi
tiến hành công cuộc đổi mới
16
Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất,
cả nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến
tranh giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp
KT với QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường
lối xây dựng nền KT XHCN trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Phải
kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi
với bảo vệ đất nước đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58].
Đường lối đó chỉ ra, xây dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng
thời đáp ứng cùng một lúc các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá
XHCN; mở rộng quan hệ KT với các nước, đảm bảo QP, AN thường
xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp QP với KT trong hoạt động của
quân đội tiếp tục có sự phát triển trong nhận thức của Đảng, Nhà nước.
Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ Chính trị khoá IV đã ra Nghị quyết số 250
NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”. Nghị quyết
đã xác định mục đích, nhiệm vụ KT và phương hướng nhiệm vụ căn bản
trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển biến kịp
thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều kiện mới, đất
nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.
Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu
phục vụ nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với
những khó khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm
lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế lực thù địch.
Trước tình hình đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về
kết hợp KT với QP: “Kết hợp chặt chẽ KT v ới QP, QP v ới KT, t ừng b ước
17
phát triển kinh tế quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất
nước”.
Những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước vừa có hoà
bình, vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo
đảm đời sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân
đội, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT
trong 5 năm (1981 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một
số nhiệm vụ cụ thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
công nghiệp, xây dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào,
Campuchia... đảm bảo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ QS với nhiệm vụ xây
dựng KT; ưu tiên lựa chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có
giá trị KT lớn và có quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản
lý chặt chẽ, từng bước nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc
dù từ đầu thập kỷ 80 đến cuối năm 1986, tình hình KT XH Việt Nam gặp
nhiều khó khăn, tình trạng lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì
đường lối xây dựng KT kết hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những
kết quả xây dựng KT đảm bảo cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP
trong các hoạt động của quân đội tiếp tục được duy trì, có những bước
phát triển mới.
1.1.2.3. Thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế
Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong
thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương
hướng cơ bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết
hợp KT với QP, QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có
18
dự kiến để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến
thắng. Trên cơ sở đó, Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp:
“Kết hợp trong công tác quy hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân
bố lực lượng sản xuất; xây dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế
địa phương phải nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về
kinh tế và quốc phòng trong cả nước và trong từng địa phương” [30, tr.67].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, việc phát
triển KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình
mới. Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc
phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả
nước và trên từng địa phương” [31, tr.85].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối
cảnh chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN
của đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy
hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả
kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm QP AN làm cơ sở cho những chủ
trương cụ thể” [32, tr.184].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển
đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá
trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội” [33,
tr.40]. Theo đó, Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ
19
QS Trung ương về: “Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong
thời kỳ mới, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp quân đội”. Nghị quyết số 21, 37, 39, 53 của Bộ Chính trị
(Khoá IX) về phát triển KT XH và đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng
bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc
Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung du và miền núi phía Bắc) và Nghị
quyết 54 NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát triển KT XH và đảm bảo QP,
AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020. Những định hướng cơ bản đó đảm bảo về chính trị và cơ sở khoa
học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP AN trong từng khu
vực.
Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT QP, xây dựng các khu
QP KT với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa
bàn chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”
[43, tr.110]. Đại hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp
quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư
có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34,
tr.110].
Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa
là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ
chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với
yêu cầu mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
chỉ ra những vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong
thời kỳ hội nhập quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng,
được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của
20
Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP AN, QP
AN với KT trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
KT XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82]. Tiếp đó, chiến lược phát triển KT
XH 10 năm (2011 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP với AN. Kết hợp chặt chẽ QP,
AN với phát triển KT XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch,
kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138]. Trong báo cáo chính trị Đảng
tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP, AN; QP, AN với KT trong
từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT XH; chú trọng vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện tính nhất quán, xuyên
suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP,
AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc XHCN thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường lối,
quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT XH
luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát
triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
1.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số
quốc gia trên thế giới
Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “ Một kết cấu khái niệm
nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”, [84] đã làm rõ: thứ
nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP; thứ hai, xác định các
đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và thứ ba, phát triển cấu trúc khái
21
niệm để nghiên cứu quan hệ giữa QP và phát triển KT. Theo Dr MM
Jayawardena, phần lớn các nghiên cứu đã tập trung vào mối quan hệ giữa
QP và tăng trưởng KT hoặc các yếu tố liên quan của nó chứ không phải là
phát triển KT; theo Ông, Sandler và Hartely đã khảo sát và trình bày kết
luận của nhiều nghiên cứu về khía cạnh KT vĩ mô của QP với chủ để
“Tăng trưởng KT, phát triển và chi tiêu quân sự” nhưng hầu như chưa có
bất kỳ một phân tích toàn diện nào về QP và phát triển KT. Vì vậy, trong
bối cảnh hiện nay, một nghiên cứu tổng quan về QP và phát triển KT mà
tăng trưởng KT được đưa ra xem xét là yêu cầu cần thiết. Nghiên cứu này
về cơ bản sẽ mở ra những nghiên cứu nghiêm túc cả về lý thuyết và thực
nghiệm; trong bối cảnh này, kết luận rằng những lý do chính cho những sai
sót về tri thức chủ yếu là do thiếu những nghiên cứu tổng quan toàn diện
về QP và nền KT, hoặc phát triển KT sẽ cung cấp cơ sở cho những nghiên
cứu chuyên sâu mà có thể lấp khoảng trống trong kiến thức về QP và phát
triển KT.
WolfgangPeter Zingel với tác phẩm: “An ninh quốc gia và phát triển
kinh tế: phát triển an ninh an ninh đang phát triển” [89] đã đi từ quan niệm
phát triển KT, các chỉ báo, chiến lược, sự hỗ trợ, tái cấu trúc và thay đổi; quan
niệm AN, những mối đe doạ, sự thống nhất và toàn vẹn quốc gia, sự can
thiệp, AN và lý thuyết KT, những rủi ro và sự thất bại của nhà nước trên các
lĩnh vực như: hàng hoá, dịch vụ, hạ tầng cơ sở, nhà ở, tài chính, tiền tệ, lao
động, giáo dục, y tế và các dịch vụ XH. Công trình nghiên cứu đã đưa ra các
trường hợp can thiệp của một số nước Nam và Đông Nam Á, chỉ ra những
ảnh hưởng KT và XH của sự can thiệp. Những ảnh hưởng KT của một sự
can thiệp phụ thuộc vào: thứ nhất, hoàn cảnh tại thời điểm can thiệp; thứ hai,
22
loại can thiệp; thứ ba, bối cảnh đi cùng với sự can thiệp và thứ tư, có thể
được coi là quan trọng nhất, sự chấp nhận can thiệp của nhân dân sở tại.
Trong công trình nghiên cứu của Adam Posen và Daniel K. Tarullo:
“Báo cáo của nhóm nghiên cứu về kinh tế và an ninh quốc gia” [80], các tác
giả đã đi vào làm sáng tỏ đâu là những đúng đắn và sai lầm trong tư duy hiện
nay về KT và AN quốc gia. Trong trường hợp nước Mỹ, toàn cầu hoá KT đã
làm tăng cả năng lực lẫn nguy cơ bị tổn thương của nước Mỹ. Khả năng của
Mỹ hạn chế sự dịch chuyển công nghệ và thương mại sang các nước khác bị
suy giảm so với vác thập kỷ trước; trong dài hạn sự hợp nhất và phát triển
KT quốc tế sẽ nâng cao AN quốc gia Mỹ. Một vài quan điểm sai lầm cho
rằng AN KT và quốc gia Mỹ bị đe doạ bởi sự tăng trưởng KT tương đối
nhanh hơn ở các nơi khác trên thế giới; hay toàn cầu hoá KT có nghĩa rằng các
biện pháp trừng phạt KT và các áp lực tương tự được Mỹ áp dụng sẽ có hiệu
quả hơn. Trên cơ sở phân tích đó, công trình nghiên cứu cũng chỉ ra những
thách thức chủ yếu hiện nay đối với nước Mỹ từ góc độ phát triển KT và AN
quốc gia và các nguyên tắc chủ yếu để ứng phó là sự tích hợp chính sách KT
và AN quốc gia, trong đó chính sách KT trong nước phải được thay đổi.
Cuốn sách “Kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd and Hartley
Keith [87] đã đề cập tới các nội dung: Dưới cách tiếp cận KT, QP được
coi là một loại hàng hoá công, hàng hoá công gắn với sự thất bại của thị
trường, do không có khả năng loại trừ việc sử dụng hàng hoá này nên nó
không khuyến khích thị trường sản xuất và cung cấp, trong khi cũng do
không có tính cạnh tranh nên nó cũng không có lý do hạn chế người sử
dụng (nói cách khác, chi phí cận biên cho người sử dụng là bằng không);
nói một cách đơn giản, hàng hoá công không thể đóng gói và bán trên thị
trường. Sự thất bại của thị trường sẽ dẫn đến các ngoại ứng và cần có sự
23
can thiệp của nhà nước. Công trình nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng: Khi
xây dựng một lý thuyết để hiển thị mối quan hệ giữa QP trong phát triển,
nhà nghiên cứu cần phải tính toán những tác động về mặt cung (chẳng
hạn lợi ích phát sinh thêm về mặt công nghệ, ngoại ứng tích cực) và các
yếu tố về mặt cầu (ví dụ tác động chèn ép đầu tư hoặc xuất khẩu). Một
mô hình đầy đủ có thể được đặc trưng bởi mối quan hệ phức tạp giữa
lĩnh vực QP và phần còn lại của nền KT. Trên cơ sở đó, cuốn sách đã đi
vào phân tích nhu cầu QP, việc chạy đua vũ trang, chính sách liên minh,
công nghiệp, thương mại QP… KTQP không chỉ hướng tới chi tiêu quân
sự và các cuộc đối đầu có vũ trang mà chúng còn là lợi ích được hiểu là
động lực của chi tiêu vũ trang, xung đột và các khía cạnh KT liên quan của
lĩnh vực quân sự. Sự hiểu biết đúng đắn về những động lực này chắc chắn
sẽ thúc đẩy các biện pháp kiểm soát việc sản sinh các loại vũ khí và sự bất
ổn của xung đột, từ đó đóng góp cho phúc lợi và tương lại của nhân loại.
Trong cuốn “Sách tra cứu về kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd
và Hartley Keith [88], các ông đã đi sâu vào ba vấn đề lớn: thứ nhất, chi tiêu
quân sự trên thế giới nhằm giải quyết các vấn đề xung đột, khủng bố, liên
minh quân sự và chạy đua vũ trang, thứ hai, phân tích chi tiêu QP và tăng
trưởng KT; khảo sát chi tiêu quân sự ở các nước đang phát triển, đi sâu
phân tích các mặt cụ thể của KTQP như: các mô hình khuyến khích quá
trình cung ứng QP, các vấn đề KT của nguồn nhân lực quân sự, cơ sở công
nghiệp QP, KTQP dưới giác độ nghiên cứu và phát triển, chính sách công
nghiệp trong lĩnh vực QP, tác động đến khu vực của chi tiêu QP; thứ ba,
nhìn nhận QP và KTQP trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó đi vào các nội
dung cụ thể như tổng quan vấn đề KT của xung đột, vấn đề KT chính trị
24
của gìn giữ hoà bình, chủ nghĩa khủng bố tiếp cận từ lý thuyết trò chơi và
phân tích thực chứng; KT chính trị của các biện pháp trừng phạt KT; các
vấn đề KT của chạy đua vũ trang; thương mại, công nghiệp QP và một
khảo sát về nền KT hoà bình.
Intriligator trong bài viết, “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng” [83] cho rằng: KTQP được xem xét như là một bộ phận của nền
KT gắn liền với những vấn đề liên quan đến QP, bao gồm mức độ chi tiêu
QP, cả trong tổng thể và trong bộ phần của toàn bộ nền KT; tác động của
chi tiêu QP tới sản phẩm và lao động ở cả trong nước và tác động tới các
nước khác trên trường quốc tế; các lý do cho sự tồn tại và quy mô của lĩnh
vực QP; quan hệ của chi tiêu QP tới sự thay đổi công nghệ, các hạng mục
chi tiêu QP và quan hệ giữa lĩnh vực QP với sự ổn định hoặc bất ổn định
quốc tế.
Reppy Judith trong bài viết: “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc
phòng: một bình luận” [85] đã xác định bản chất và phạm vi của KTQP trên cơ
sở hợp nhất quan niệm của Intriligator nhưng tập trung vào các đặc điểm về
mặt thể chế duy nhất của hệ thống QP và Ông cho rằng, KTQP có thể mở
rộng hơn tới mức bao gồm cả các yếu tố phi quân sự trong định nghĩa về AN
quốc gia. (ví dụ bảo vệ môi trường). Nhiều ý kiến đồng ý với Reppy rằng, các
đặc điểm về mặt thể chế duy nhất là thích hợp để hiểu KTQP. Chẳng hạn,
các hợp đồng cộng thêm phí sẽ tạo nên ý nghĩa hơn khi ai đó nhận ra rằng
người mua (ví dụ BQP) có thể sẽ cân nhắc lại lựa chọn thay đổi thông số của
một hệ thống vũ khí được đề xuất vào thời điểm cuối cùng. Một hợp đồng
cộng thêm phí sẽ chuyển rủi ro của việc thay đổi tiêu chuẩn kỹ thuật từ người
cung cấp sang người mua.
25
1.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát
triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt
Nam
1.2.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số
khu vực, tỉnh, thành phố trên cả nước
Cho tới nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN. Có thể nói, đây
là những công trình nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho chủ
trương phát triển KT XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước
ta:
Trần Xuân Trường và Nguyễn Anh Bắc, trong cuốn Vấn đề kết hợp
kinh tế với quốc phòng ở nước ta [77] đã khẳng định, vấn đề kết hợp KT
với QP là một nội dung của đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
ở nước ta, một quy luật phổ biến với mọi nước XHCN. Từ khẳng định đó,
các tác giả đã phân tích, luận chứng làm rõ mối quan hệ, vai trò ngày càng
tăng của nhân tố KT với chiến tranh và QP; đồng thời, làm rõ tính quy luật;
yêu cầu, phương thức, đặc điểm, mức độ, trình độ, nội dung kết hợp KT
với QP ở nước ta. Tác giả còn chỉ ra, để KT và QP gắn bó khăng khít với
nhau đến mức như là một, phải có sự am hiểu, thống nhất hành động của
cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân; có một hệ thống tổ chức lãnh đạo,
quản lý thống nhất dựa trên một hệ thống pháp luật đầy đủ; có cơ quan
tham mưu và cán bộ tham mưu giỏi.
Trần Thái Bình trong bài “Quan hệ giữa kinh tế và QP AN trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [8] đã xác định: Quan hệ giữa KT và
QP, AN là mối quan hệ cơ bản, được hình thành từ trong quá trình dựng