1
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của giáo dục, coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,
trong đó vấn đề đội ngũ nhà giáo được coi là khâu then chốt. Để biến các
mục tiêu giáo dục thành hiện thực, đội ngũ giáo viên chính là lực lượng
nòng cốt giữ vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chỉ thị
40/CT TW của Ban bí thư Trung ương Đảng đã đưa ra việc phải xây
dựng đội ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục một cách toàn diện với mục tiêu
chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và
coi đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến
lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục và
chấn hưng đất nước [22].
Trong hệ thống giáo dục Quốc dân, giáo dục THCS có vai trò hết sức
quan trọng, bởi đây là cấp học mang tính liên thông giữa cấp tiểu học và
cấp THPT. Giáo dục THCS có vai trò là cầu nối, là sự chuyển giao giữa
cấp học nền tảng với cấp học có chức năng định hướng nghề nghiệp
tương lai cho học sinh [20], [26].
GDTC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tương lai của mỗi con
người, nhất là với lứa tuổi học sinh cấp THCS, bởi đây là giai đoạn phát
triển quan trọng về tâm sinh lý và nhận thức xã hội. Quá trình GDTC
trong nhà trường có tác động tích cực không chỉ đối với sự phát triển thể
chất, mà còn tác động tích cực và có hiệu quả tới sự hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh. GDTC ở nhà trường THCS là môi trường giàu
2
tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước [3],
[81].
Thực tiễn của nền giáo dục Việt Nam hơn 40 năm qua đã chứng
minh những đóng góp to lớn của công tác GDTC trường học nói chung và
đội ngũ giáo viên TDTT cấp THCS nói riêng đối với sự nghiệp đào tạo thế
hệ trẻ. Giáo viên TDTT là lực lượng trực tiếp triển khai và quyết định chất
lượng, hiệu quả của chương trình môn học trong các nhà trường THCS; có
trọng trách chuyển hóa hoạt động TDTT thành phương tiện để tạo ra một
đời sống học đường lành mạnh, góp phần biến mục tiêu giáo dục của
Đảng và nhà Nước trở thành hiện thực. Vì vậy, trình độ chuyên môn và
năng lực hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ thầy, cô giáo có vị trí đặc biệt
quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục nói chung, GDTC cấp THCS nói
riêng.
Trước yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục mà Đảng
và Nhà nước đặt ra, Bộ GD&ĐT chủ trương đổi mới GDPT sau năm 2015
gồm những vấn đề cơ bản như, đổi mới từ chương trình định hướng nội
dung dạy học sang chương trình định hướng năng lực. Đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng chú trọng phát triển năng lực của học sinh.
Chuyển đổi kiểm tra, đánh giá từ chủ yếu đánh giá kiến thức và kỹ năng
sang đánh giá năng lực của học sinh. Do vậy, GDTC trường học phải có sự
đổi mới toàn diện, mà vấn đề cơ bản và trước hết là đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên TDTT theo hướng chất
lượng và hiệu quả. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và lâu
dài đến hiệu quả công tác GDTC trường học, trong đó có cấp THCS và đây
cũng là những thách thức lớn đối với khả năng đáp ứng về trình độ chuyên
môn của chính bản thân đội ngũ giáo viên TDTT cấp THCS.
3
Qui mô và chất lượng của hệ thống đào tạo, số lượng và chất lượng
chuyên môn của đội ngũ giáo viên TDTT cấp THCS những năm gần đây đã
có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Tuy nhiên, trước nhu cầu của thực tiễn
đổi mới giáo dục, chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên TDTT các
tỉnh phía Bắc đã bộc lộ những hạn chế về kiến thức và kỹ năng thực hành
các môn thể thao thuộc chương trình môn học, về tiềm lực chuyên môn và
khả năng đáp ứng yêu cầu ĐMGD, về kiến thức và kỹ năng kiểm tra đánh
giá kết quả môn học và về kiến thức và kỹ năng tự học, tự phát triển năng
lực nghề nghiệp. Điều đó đã dẫn đến hiện trạng mục tiêu và vị thế của
công tác GDTC trong nhà trường chưa được đảm bảo, chưa được phát huy
tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của xã hội, của tuổi trẻ học đường
[78].
Thực trạng đó đồng thời là nhân tố kìm hãm xu thế và cơ hội đổi
mới nội dung môn học theo hướng phù hợp với nhu cầu và năng lực của
học sinh; tạo ra tình trạng giáo viên thiếu tích cực, chủ động tham gia tiến
trình đổi mới nội dung và chất lượng dạy học, làm gia tăng khoảng cách về
chất lượng, uy tín của môn học so với các môn học khác trong mỗi nhà
trường. Vì vậy, bù đắp sự thiếu hụt về tiềm năng và phát triển tiềm năng
của giáo viên để tham gia hoạt động ĐMGD có hiệu quả là điều kiện tiên
quyết để nâng cao chất lượng GDTC trong nhà trường THCS các tỉnh phía
Bắc.
Từ những phân tích trên và xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu nhu cầu về chuyên
môn của thực tiễn giáo dục đối với giáo viên Thể dục thể thao cấp
Trung học cơ sở các tỉnh phía Bắc”.
Mục đích nghiên cứu
4
Nghiên cứu đề tài hướng tới mục đích góp phần nâng cao trình đội
chuyên môn của đội ngũ giáo viên TDTT cấp THCS các tỉnh phía Bắc trước
nhu cầu của thực tiễn giáo dục.
Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài xác định các mục tiêu:
Mục tiêu 1. Nghiên cứu nhu cầu chuyên môn, cụ thể hóa các tiêu chí
phản ánh nhu cầu của thực tiễn giáo dục đối với giáo viên TDTT cấp
THCS các tỉnh phía Bắc.
Mục tiêu 2. Đánh giá thực trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ
giáo viên TDTT cấp THCS các tỉnh phía Bắc trước nhu cầu chuyên môn
của thực tiễn giáo dục.
Mục tiêu 3. Nghiên cứu biện pháp nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu
về chuyên môn của thực tiễn giáo dục cho giáo viên TDTT cấp THCS các tỉnh
phía Bắc thông qua hoạt động đào tạo nâng cấp từ cao đẳng lên đại học;
thực nghiệm nhằm kiểm chứng hiệu quả các biện pháp.
Giả thuyết khoa học của đề tài
Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên TDTT cấp THCS các tỉnh
phía Bắc chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn ĐMGD, thực trạng đó chưa
được khắc phục có hiệu quả thông qua loại hình đào tạo nâng cấp từ trình
độ cao đẳng lên đại học.
Nếu có các biện pháp có giá trị nâng cao chất lượng loại hình đào tạo
nâng cấp đó thì năng lực hoạt động nghề nghiệp của giáo viên TDTT cấp
THCS sẽ được cải thiện một cách đáng kể.
Những đóng góp mới của đề tài
Xác định được các tiêu chí phản ánh nhu cầu chuyên môn của thực
tiễn giáo dục đối với giáo viên TDTT cấp THCS.
5
Đánh giá được thực trạng trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo
viên TDTT cấp THCS các tỉnh phía Bắc, cụ thể như: còn nhiều hạn chế về
kiến thức và kỹ năng thực hành các môn thể thao; thiếu kiến thức và kỹ
năng về xây dựng và phát triển chương trình, kiểm tra đánh giá kết quả
môn học; kỹ năng tự học và triển khai hoạt động NCKH.
Xác định được các biện pháp hướng tới quá trình đào tạo nâng cấp
từ trình độ cao đẳng lên đại học cho giáo viên TDTT cấp THCS. Kết quả
thực nghiệm đã chứng tỏ được tính khoa học và khả thi của các biện pháp
được lựa chọn, góp phần nâng cao năng lực hoạt động nghề nghiệp của
giáo viên. khắc phục có hiệu quả những tồn tại cơ bản về chuyên môn của
giáo viên do quá trình đào tạo trước đây trong các nhà trường CĐSP địa
phương, tạo tiền đề để giáo viên có thể tự nâng cao trình độ, đáp ứng yêu
cầu đổi mới tiếp theo của thực tiễn giáo dục, của đổi mới chương trình
GDPT sau năm 2015.
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo
dục
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Tư tưởng về một nền giáo dục dân tộc, khoa học, đại chúng phục
vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công cũng là thời điểm Chủ tịch
Hồ Chí Minh khai sinh cho đất nước một nền giáo dục dân tộc khoa học và
đại chúng. Ngay khi mới giành được độc lập, Người đã kêu gọi toàn dân
thực hiện nhiệm vụ trọng đại và cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt,
diệt giặc ngoại xâm. Chính phủ do Người chỉ đạo đã bắt tay ngay vào một
6
chương trình hành động với những công việc thiết thực như kêu gọi mọi
người dân tham gia học chữ quốc ngữ trong phong trào bình dân học vụ.
Tháng 9 năm 1945, Người gửi thư cho học sinh cả nước nhân ngày khai
trường. Bức thư của Người chính là cương lĩnh cho nền giáo dục mới một
nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam [30].
Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh
thành lập Ban đại học văn khoa, Bộ Giáo dục ra tuyên bố nêu rõ mục đích
của nền giáo dục Việt Nam là, tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát
triển tài năng của mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào sự
tiến hóa chung của nhân loại. Với phương pháp giáo dục mới, chú trọng
phần thực học, phần học về chuyên môn nghề nghiệp chiếm một vị trí
quan trọng giúp học sinh có lối nhận thức khoa học, phát triển tư duy sáng
tạo và óc thực tế cùng việc tổ chức nền giáo dục mới là một nền giáo dục
duy nhất chung cho toàn dân tộc [30].
Tư tưởng của Bác về việc tổ chức dạy học và giáo dục trong nhà
trường
Về công tác tổ chức dạy học và giáo dục trong nhà trường Bác đã
đưa ra một số tư tưởng chỉ đạo như, trường học phải là nơi đào tạo ra
những công dân và cán bộ tốt để trở thành những người chủ tương lai của
đất nước và giáo dục trong nhà trường phải đảm bảo mục tiêu bồi dưỡng,
giáo dục một cách toàn diện. Đối tượng giáo dục là dành cho tất cả mọi
người và nguyên tắc giáo dục phải đảm bảo tính thực tiễn, tính chủ động,
tính toàn diện và tính dân tộc. Phương pháp giáo dục phải phù hợp với từng
lứa tuổi và công việc, bên cạnh đó cũng phải sử dụng các phương pháp
khác như nêu gương, thi đua, tôn vinh, kì vọng, khích lệ và động viên. Nội
dung giáo dục phải dạy cả bốn mặt về lý luận, công tác, văn hoá và chuyên
7
môn. Cùng với đó thì phương châm giáo dục là học phải đi đôi với hành, lý
luận phải gắn liền với thực tiễn, lao động trí óc mà không lao động chân
tay chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng chỉ là trí thức một
nửa. Vì vậy, Người đã chỉ ra rằng trong lúc học lý luận phải biết kết hợp
với thực hành. Người còn cho rằng việc giáo dục ở nhà trường dù có tốt
đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả
cũng không hoàn toàn, do đó phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà
trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội [30].
Tư tưởng về xây dựng đội ngũ nhà giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nghề giáo là một nghề rất quan
trọng, rất vẻ vang, người đưa ra quan điểm, giáo dục là sự nghiệp chung
của Đảng, Nhà nước và toàn dân và những người trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ chính là những nhà giáo. Nhà giáo có nhiệm vụ rất nặng nề
nhưng đầy vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nước nhà, nhà giáo là người
chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hoá có trách nhiệm truyền
bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính…chính vì vậy Bác cũng đưa
ra những yêu cầu về phẩm chất đối với người thầy giáo là phải thật thà,
yêu nghề, đoàn kết với đồng nghiệp giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thương yêu
học sinh như con em ruột thịt của mình và phải luôn ra sức thi đua công tác
và học tập để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ [30].
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam
đồng thời cũng là một nhà giáo dục lớn của dân tộc, tư tưởng của Người về
giáo dục được thể hiện trên nhiều bình diện, những tư tưởng đó là môt bô
̣
̣
phân r
̣ ất quan trong trong kho tàng lý lu
̣
ận về giáo dục và đã trở thành mục
tiêu, nguyên lý, phương pháp, phương châm dạy và học của nền giáo dục
nước nhà.
8
1.1.2. Quan điểm đường lối của Đảng trong đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục hiện nay
Xu hướng phát triển giáo dục trên thế giới
Bước sang thế kỷ XXI thế giới có nhiều biến đổi, khoa học và công
nghệ có bước tiến nhảy vọt, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của GD&ĐT
và xu hướng toàn cầu hóa, đại chúng hóa giáo dục nên số người lao động
có trình độ cao ngày càng tăng, nền kinh tế tri thức có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển ở nhiều quốc gia [99], [100].
Để đáp ứng nhu cầu về lực lượng lao động cho nền kinh tế luôn biến
đổi, giáo dục cũng luôn phải bám sát thực tiễn, thích nghi với những thay đổi
về cơ cấu của nền kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, do
vậy hiện nay hệ thống các nền giáo dục trên thế giới cũng đang đứng trước
xu hướng toàn cầu hóa, đại chúng hóa, quốc tế hóa giáo dục, liên kết mở
rộng qui mô với các cơ sở giáo dục ở nước ngoài... Trong khi quá trình toàn
cầu hóa đã đem đến quá trình thương mại hóa song song với quốc tế hóa các
trường học, việc liên kết về chương trình và mở rộng các cơ sở đào tạo giữa
các trường trên thế giới đã trở thành một trào lưu thì quá trình đại chúng hóa
giáo dục cũng cho phép việc mở rộng phạm vi giáo dục, gia tăng các trung
tâm, cơ sở giáo dục, làm cho nhiều người có cơ hội tiếp cận, lựa chọn một
hình thức giáo dục phù hợp hơn. Cùng với các xu thế giáo dục trên còn có
một xu thế mới gắn liền với sự phát triển của công nghệ thông tin đó là môi
trường dạy và học trực tuyến. Nhờ có những bước tiến trong hệ thống mạng
Internet và viễn thông, cũng như khả năng tái sử dụng nguồn tài liệu giáo dục
được các nước tiên tiến đang và sẽ không ngừng phát triển trên các website,
viễn cảnh giáo dục từ xa thắp sáng niềm hi vọng về một quá trình toàn cầu
hóa, khi gắn với sự phát triển, có thể đem đến cho con người khả năng giải
9
quyết hầu hết các thiếu sót về kiến thức cơ bản chỉ trong vòng một thế hệ
[69], [86], [87], [98], [100], [101].
Gắn liền với các xu thế giáo dục trên thế giới hiện nay là sự ĐMGD,
đổi mới về tầm nhìn, về định hướng giáo dục, đổi mới về chương trình,
về phương pháp… và một trong những định hướng quan trọng trong việc
ĐMGD, đổi mới phương pháp dạy học ở nhiều nước được thể hiện ở tính
phân hóa trong giáo dục. Tăng cường tính phân hóa trong giáo dục nhằm
hướng tới sự phát triển năng lực ở mỗi cá nhân và dành cho người học
nhiều hơn các cơ hội lựa chọn các hình thức và nội dung học tập… [86],
[97], [102].
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 xác định
một trong ba mũi đột phá chiến lược để phát triển kinh tế xã hội đất nước
đến năm 2020 là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao và tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục quốc dân, trong đó phát triển đội ngũ giáo viên được coi là một yếu tố
quan trọng, là khâu then chốt trong đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục [23].
Nghị quyết hội nghị lần 8 BCH TW Đảng khóa XI (Nghị quyết số
29NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH
HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế đã đưa ra quan điểm chỉ đạo [24]:
GD&ĐT la qu
̀ ốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và cua toàn dân. Đ
̉
ầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong cac ch
́ ương trinh, kê hoach phat triên kinh tê xa hôi.
̀
́ ̣
́
̉
́ ̃ ̣
10
Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT là đổi mới những vấn đề lớn,
cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện, đổi mới ở
tất cả các bậc học, ngành học ...
Phát triển GD&ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiên th
́ ưć
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với
hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kêt h
́ ợp với giáo dục
gia đình va giao duc xã h
̀ ́ ̣
ội.
Phát triển GD&ĐT phải gắn với nhu câu phát tri
̀
ển kinh tế xã hội
va bao vê Tô quôc.
̀ ̉
̣ ̉
́
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông
giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo.
Chuẩn hoá, hiện đại hoá GD&ĐT.
Chu đông phat huy măt tich c
̉ ̣
́
̣ ́ ực, han chê măt tiêu c
̣
́ ̣
ực cua c
̉ ơ chê thi
́ ̣
trương, b
̀
ảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển GD&ĐT. Ưu
tiên đầu tư phát triển GD&ĐT đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính
sách...
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển GD&ĐT, đồng
thời GD&ĐT phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước.
Định hướng ĐMGD và các giải pháp phát triển giáo dục giai đoạn
2011 2020
GD&ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, quyết
định thành công công cuộc CNH HĐH đất nước do vậy, đổi mới căn bản
11
và toàn diện nền GD&ĐT được Đảng, Nhà nước coi là một yêu cầu cấp
thiết với định hướng về các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu [24]:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với đổi mới GD&ĐT, quán triệt sâu săc va c
́ ̀ ụ thể hóa cac quan điêm, m
́
̉
ục
tiêu, nhiêm vu, gi
̣
̣ ải pháp đôi m
̉ ơi căn b
́
ản, toàn diện nền GD&ĐT trong hệ
thông chính tr
́
ị, nganh GD&ĐT va toan xa hôi, t
̀
̀ ̀ ̃ ̣ ạo sự đồng thuận cao coi
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định
chất lượng GD&ĐT của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của
GD&ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyên khich t
́
́ ự hoc, t
̣ ạo cơ
sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng
lực.
Đôi m
̉ ơi căn b
́
ản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đanh
́
gia k
́ ết quả giao duc, đào t
́ ̣
ạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Đẩy mạnh phân
luồng sau THCS; định hướng nghề nghiệp ở THPT. Tiếp tục nghiên cứu
đổi mới hệ thống GDPT phù hợp vơi điêu kiên cu thê cua đât n
́
̀
̣
̣
̉ ̉
́ ươc va xu
́ ̀
thế phát triển giáo dục của thê gi
́ ơi.
́
Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bao đam dân
̉
̉
chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở
giáo dục, đao tao; coi tr
̀ ̣
ọng quản lý chất lượng.
12
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi
mới GD&ĐT. Xây dựng quy hoach, k
̣
ế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đôi ngũ
̣
nha giao va can bô quan ly giao duc g
̀ ́ ̀ ́ ̣
̉
́ ́ ̣ ắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn
hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học va trinh đô đao tao. Ti
̀ ̀
̣ ̀ ̣
ến tới tất cả
các giáo viên tiểu học, THCS, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề
nghiêp ph
̣
ải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Đôi m
̉ ơí
mạnh mẽ mục tiêu, nôi dung, ph
̣
ương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng
và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện cua nha giáo theo yêu c
̉
̀
ầu nâng cao
chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Nâng cao chât l
́ ượng, hiệu quả nghiên cứu va ̀ưng dung khoa h
́
̣
ọc,
công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Chủ động hội nhập va nâng cao hi
̀
ệu quả hợp tác quốc tế trong
giáo dục, đào tạo
Mục tiêu đến năm 2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và
toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện. Đến
năm 2020, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, THCS là 95% và 80%
thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương. Phấn
đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực.
1.2. Giáo dục trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.2.1. Vị trí, vai trò và mục tiêu của giáo dục THCS trong hệ thống giáo
dục quốc dân
Trong hệ thống giáo dục, tất cả các cấp học, bậc học là một chỉnh thể
thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên một dòng chảy liên tục
có chủ đích cho quá trình phát triển của mỗi con người. Trong chiến lược phát
13
triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, GDPT nói chung,
cấp THCS nói riêng là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân và là
cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ thống giáo dục. Chất lượng giáo dục ở
phổ thông nói chung và ở cấp THCS nói riêng có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng giáo dục dạy nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng hơn, đây chính là
nguồn gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng nguồn lực lao động
của quốc gia [26], [97].
Điều 26, Luật Giáo dục năm 2005 ghi: “Giáo dục THCS được thực
hiện trong 4 năm, từ lớp 6 đến lớp 9. Học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành
chương trình tiểu học và học sinh THCS có độ tuổi từ 11 tuổi đến 15 tuổi”.
Trong hệ thống GDPT, cấp THCS tiếp bước những cơ sở ban đầu của giáo
dục tiểu học đem lại cho học sinh những hiểu biết nhất định về lao động
và hướng nghiệp [26], [66].
Luật Giáo dục đã xác định mục tiêu của giáo dục THCS nhằm “giúp
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có
học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động”… Như vậy, giáo dục THCS phải tập trung phát
triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống
đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến
khích học tập suốt đời và bảo đảm cho học sinh có trình độ THCS (hết lớp
9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau
THCS [24], [66].
14
1.2.2. Khái quát về hệ thống trường, lớp, giáo viên và học sinh cấp
THCS
1.2.2.1. Hệ thống trường và lớp cấp THCS
Nghị quyết hội nghị lần 2 BCH Trung ương Đảng khóa VIII đã đưa ra
định hướng chiến lược về phát triển GD&ĐT trong thời kỳ CNH HĐH, với
tư tưởng chỉ đạo là thực sự coi GD&ĐT là quốc sách hàng đầu và GD&ĐT
là sự nghiệp của toàn đảng, của Nhà nước và toàn dân. Từ tư tưởng chỉ đạo
cùng các chính sách quan tâm, đầu tư cho giáo dục, GD&ĐT đã đạt được
những thành tựu quan trọng, đặc biệt là quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở
GDPT phát triển nhanh chóng và rộng khắp trên cả nước đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng tăng của nhân dân. Với chính sách xã hội hóa, giáo dục
Việt Nam đã có những điều kiện vật chất tốt hơn, chấm dứt tình trạng học
3 ca một ngày, cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ, phổ cập giáo
dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010, đến
nay hệ thống các trường THCS đã có ở hầu hết các xã hoặc liên xã trên toàn
quốc [11], [21].
Hệ thống trường, lớp cấp THCS được tổ chức dưới nhiều loại hình
trường học khác nhau, trong đó có trường công lập và ngoài công lập;
trường THCS (từ lớp 6 đến lớp 9); trường phổ thông cơ sở (từ lớp 1 đến
lớp 9) và trường trung học liên cấp (từ lớp 6 đến lớp 12). Tuy nhiên,
trường THCS được tổ chức riêng cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 chiếm
đại đa số trong hệ thống trường, lớp cấp THCS hiện nay.
Từ năm 2000 đến nay do tỷ lệ dân số tăng nhanh nhất là trong độ
tuổi đến trường nên quy mô và mạng lưới trường học cũng phát triển
mạnh. Kết quả thống kê được trình bày tại bảng 1.1 cho thấy: số trường
THCS liên tục được xây mới, năm học 2000 2001 tổng số trường THCS
15
trên cả nước là 7.733 trường, trong đó trường công lập có 7.635 trường,
trường ngoài công lập là 98 trường và tỷ lệ lớp/phòng học là 1,49. Năm
học 2003 2004 có 8.396 trường, trong đó 8.314 trường công lập, 82 trường
ngoài công lập và tỷ lệ lớp/phòng học là 1,44. Đến năm học 2011 2012
tổng số trường THCS trên cả nước là 10.797 trường, trong đó trường công
lập có 10.761 trường, trường ngoài công lập có 36 trường đạt tỷ lệ 1,41
lớp/phòng học. Như vậy sau 10 năm tổng số trường và lớp học cấp THCS
trên cả nước đã gia tăng đáng kể, từ 7.733 trường lên 10.797 trường và tỷ
lệ lớp trên phòng học đã giảm từ 1,49 xuống còn 1,41 lớp/phòng học [11].
Bảng 1.1. Hệ thống trường, lớp cấp THCS trên toàn quốc
giai đoạn từ năm học 2000 2001 đến năm học 2011 2012
Số trường
Công lập
Ngoài công lập
Tỷ lệ lớp/phòng học
2000 – 2001
7.733
7.635
98
1,49
2003 - 2004
8.396
8.396
82
1,44
2011 - 2012
10.797
10.761
36
1,41
1.2.2.2.Học sinh cấp THCS
Học sinh THCS là những học sinh đã hoàn thành chương trình tiểu
học và có độ tuổi từ 11 tuổi đến 15 tuổi , đây là lứa tuổi có sự phát triển
mạnh mẽ về nhiều mặt cả về thể chất, tâm lý và trí tuệ. Việc học tập ở
trường THCS có sự khác biệt và phức tạp hơn so với ở tiểu học, các em
chuyển sang chương trình học tập có phân môn mà mỗi môn học gồm
những khái niệm, những quy luật được sắp xếp thành một hệ thống tương
đối sâu sắc, do vậy đòi hỏi các em phải có sự tự giác và độc lập cao.
Số lượng học sinh cấp THCS từ năm học 2000 2001 đến nay có
nhiều biến động, tỷ lệ học sinh phổ thông trong độ tuổi đi học tăng nhanh
vào những năm đầu của thập kỷ mới, trong đó số học sinh cấp THCS năm
học 2000 2001 là 5.918.153 học sinh, tăng mạnh nhất vào năm học 2003
16
2004, với tổng số 6.612.099 học sinh, tuy nhiên các năm học sau số
lượng học sinh lại có chiều hướng giảm dần, đến năm học 2011 2012
chỉ còn 4.926.401 học sinh [11].
1.2.2.3. Đội ngũ giáo viên cấp THCS
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ nhà giáo đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục, Đảng, Nhà nước cùng ngành Giáo dục
luôn dành sự quan tâm đãi ngộ với các chính sách đào tạo, tuyển dụng, bồi
dưỡng dành cho đội ngũ nhà giáo. Trong chiến lược xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên giai đoạn sau năm 2010 thì việc củng cố, hoàn
thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục đủ sức thực hiện đổi mới chương trình GDPT sau
năm 2015 là một nhiệm vụ trọng tâm [41].
Bảng 1.2. Số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên THCS
trên toàn quốc từ năm học 2007 2008 đến năm học 2011 2012
Năm học
Tổng số
GV
GV/
lớp
2007-2008
2008-2009
2009-2010
2010-2011
2011-2012
312.579
313.536
313.911
312.710
311.970
1,96
2,06
2,09
2,07
2,12
Nữ
SL
210.774
210.997
216.961
211.035
213.072
Dân tộc
%
67,39
67,30
69,12
67,49
68,30
SL
20.118
22377
23.405
23.719
24.770
%
6,43
7,14
7,46
7,58
7,94
Đạt và trên
chuẩn
SL
%
304.565 97,38
305.415 97,41
308.418 98,25
309.083 98,84
309.537 99,22
Dưới chuẩn
SL
8.194
8.121
5.493
3.627
2.433
%
2,62
2,59
1,75
1,16
0,78
Như vậy, số lượng giáo viên THCS trên toàn quốc trong 5 năm gần
đây không có nhiều biến động, tại thời điểm năm học 2011 2012 là
311.970 giáo viên. Trong đó có 213.072 giáo viên nữ và 24.770 giáo viên là
người dân tộc thiểu số. Về cơ bản các trường THCS đã đảm bảo đủ số
lượng giáo viên giảng dạy và cân đối số giáo viên cho các môn học cơ bản.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng dạy kiêm nhiệm không đúng chuyên môn đào
tạo đặc biệt là các trường THCS ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người
dẫn đến chất lượng giáo dục không đảm bảo [11], [41].
17
Về chất lượng đội ngũ giáo viên THCS: theo kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thúy Hồng về thực trạng đội ngũ nhà giáo ở cấp THCS đã có sự
tăng nhanh về tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo.
Năm 2010 số giáo viên đạt chuẩn chiếm 57,6% và trên chuẩn là 40,9%, đến
năm 2012 tỷ lệ giáo viên đạt và trên chuẩn đào tạo là 99,22%, trong đó có
46% đạt trình độ trên chuẩn. Như vậy, xét về chất lượng theo chuẩn quy
định của Bộ GD&ĐT thì trình độ của đội ngũ giáo viên cấp THCS đã được
đảm bảo. Mặc dù vậy, cũng theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thúy
Hồng thì hầu hết giáo viên giảng dạy các hoạt động giáo dục như hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa
được đào tạo chuẩn và đa số các giáo viên mới chỉ đáp ứng yêu cầu ở
phương diện dạy học môn học chứ chưa đáp ứng yêu cầu về NLGD, năng
lực phát triển nghề nghiệp, năng lực tìm hiểu đối tượng, môi trường giáo
dục, năng lực phối hợp với gia đình, cộng đồng xã hội trong giáo dục học
sinh cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn
còn hạn chế [41].
1.2.3. Công tác GDTC trong nhà trường THCS
1.2.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trường học
Cấu trúc của nền TDTT Việt Nam được chia thành hai mảng rõ rệt:
TDTT quần chúng và thể thao thành tích cao. GDTC trong nha tr
̀ ường vừa
là một môn học vừa là một mặt của giáo dục toàn diện, là một bộ phận
quan trọng của TDTT quần chúng.
Đảng ta hết sức quan tâm, chăm lo sức khỏe, tương lai cho thế hệ trẻ
của đất nước. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của công tác GDTC nên
ngay sau cách mạng tháng 8 thành công, Đảng và Bác Hồ đã hết sức đề cao
vai trò của TDTT đối với sự phát triển của thế hệ trẻ và coi đây là một
nhiệm vụ cách mạng [85].
18
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII giao
trách nhiệm cho Bộ GD&ĐT và Tổng cục TDTT thường xuyên phối hợp
chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương trình giảng dạy làm cho
việc tập luyện thể dục, thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của học
sinh, sinh viên.
Chỉ thị 17/CTTW ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đến năm
2010, Ban bí thư Trung ương Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ
của công tác GDTC trường học là phải đẩy mạnh hoạt động TDTT ở
trường học, tiến tới đảm bảo mỗi trường học đều có giáo viên thể dục
chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao
chất lượng GDTC và xem đây là một tiêu chí công nhận trường chuẩn quốc
gia.
Nghị quyết 08/NQTW ngày 01.12.2011 của Bộ Chính trị về việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT đến
năm 2020 cũng chỉ rõ, đối tượng chiến lược của TDTT Việt Nam là thanh
thiếu niên, địa bàn chiến lược của TDTT Việt Nam là trường học.
Trong hệ thống các văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ cũng
quy định rất rõ ràng về công tác GDTC trong nhà trường với những điều luật
sau:
Điều 41 hiến pháp (sửa đổi năm 1992) nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quy định “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân
tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát
triển TDTT; Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường
học…’’.
Luật Thể dục, Thể thao năm 2006, điều 20 quy định “Giáo dục thể
chất là môn học chính khóa, thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp
19
kiến thức, kỹ năng vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện”. Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT là
chủ trì phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban TDTT thực hiện: xây
dựng chương trình GDTC; đào tạo bồi dưỡng giáo viên TDTT; hướng dẫn
hoạt động ngoại khoá trong hệ thống các trường học của cả nước (công
lập và ngoài công lập); quy định tiêu chuẩn đánh giá thể lực học sinh và tổ
chức hệ thống thi đấu thể thao cấp quốc gia dành cho học sinh, sinh viên
mà trọng tâm là Hội khoẻ Phù Đổng và Đại hội TDTT sinh viên toàn quốc
tổ chức 4 năm 1 lần.
Chiên l
́ ược phat triên TDTT Viêt Nam đên 2020 đã đ
́
̉
̣
́
ược Thu t
̉ ương
́
Chinh phu phê duy
́
̉
ệt bằng quyết định sô 2198/QĐTTg trong đo xac đinh
́
́ ́ ̣
nhiêm vu va giai phap phat triên TDTT tr
̣
̣ ̀ ̉
́
́
̉
ương hoc. Đê th
̀
̣
̉ ực hiên đ
̣ ược cać
nhiêm vu nay, đi
̣
̣ ̀
ểm mấu chốt là: cac c
́ ơ quan quản lý nhà nước xây dựng
ban hành và kiểm tra, giám sát các chuẩn mực về GDTC và thể thao trong
mỗi cấp học, bậc học; các tổ chức xã hội về TDTT phai s
̉ ơm đ
́ ược kiên
̣
toan, đu s
̀
̉ ức thực hiên cac hoat đông tac nghiêp vê TDTT tr
̣
́
̣
̣
́
̣
̀
ương hoc.
̀
̣
Như vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng tháng 8 thành công cho
đến nay, công tác GDTC trường học nói chung và GDTC trong nhà trường
phổ thông các cấp nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm và
coi đây là một nhiệm vụ cách mạng cao cả, là trách nhiệm to lớn vì sự phát
triển toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ.
1.2.3.2. Vị trí, vai trò của GDTC trong nhà trường THCS
GDTC trong nhà trường phổ thông nói chung và ở cấp THCS nói
riêng là một mặt của giáo dục toàn diện, giữ vị trí quan trọng và then chốt
trong chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT. Mặt khác, GDTC còn có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe và giáo dục đạo
20
đức, ý chí, nhân cách cho học sinh. GDTC ở nhà trường THCS là một môi
trường giàu tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất
nước [3], [81].
GDTC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tương lai của mỗi con
người nhất là với lứa tuổi học sinh THCS, bởi đây là giai đoạn phát triển
quan trọng về tâm – sinh lý và nhận thức xã hội của các em. Do vậy , quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của các em thông qua tác động của
GDTC chiếm vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục của nhà trường
và được thể hiện ở các mặt sau:
Tạo dựng cơ sở để phát triển toàn diện các tố chất thể lực, hoàn
thiện cả về hình thái và các chức năng của cơ thể. Hình thành hệ thống kỹ
năng, kỹ xảo vận động trong hoạt động thể dục, thể thao và trong cuộc
sống.
Thông qua hoạt động thể dục, thể thao sẽ góp phần nâng cao năng
lực nhất định về trí tuệ cho học sinh, giúp các em hoàn thành các nhiệm vụ
học tập chương trình phổ thông.
Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ ở tất cả các mặt của lứa tuổi
này, việc tích cực tham gia các hoạt động nhất là hoạt động thể dục, thể thao
sẽ có tác động mạnh mẽ đến việc rèn luyện các phẩm chất và nhân cách , đặc
biệt là hình thành lối sống lành mạnh, bổ ích, năng động, sáng tạo cho các em
trước sự thay đổi nhanh chóng của xã hội trong thời kỳ đất nước phát triển và
hội nhập quốc tế.
Lứa tuổi học đường nói chung và ở cấp THCS nói riêng là thời kỳ
thuận lợi và an toàn nhất để giáo dục, rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận
động cơ bản và thiết thực trong cuộc sống. Việc sử dụng hiệu quả các
phương tiện GDTC ở nhà trường trong giai đoạn này sẽ có tác động mạnh
21
mẽ tới quá trình hình thành và phát triển cả về hình thái, chức năng của cơ
thể lẫn các phẩm chất và nhân cách của các em [19], [54].
Như vậy, GDTC trường học có ý nghĩa vô cùng quan trọng về cả thể
chất, tinh thần và các phẩm chất như đạo đức, ý chí… đối với tuổi trẻ học
đường. GDTC trong nhà trường THCS giúp cho học sinh có được những
kiến thức và kỹ năng cơ bản để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, giúp
các em giải tỏa những căng thẳng do thiếu vận động gây nên [14].
1.2.3.3. Mục tiêu và nhiệm vụ của GDTC trong nhà trường THCS.
Mục tiêu giáo dục chỉ có thể được coi là cân đối và hài hòa khi
GDTC trở thành một thành phần, một nội dung không thể thiếu của nền
giáo dục. GDTC trường học có một ý nghĩa xã hội sâu sắc, bởi không chỉ
đem lại cho học sinh sự phát triển hài hòa về thể chất cùng các kỹ năng
vận động mà còn là sự chuẩn bị cho các em một nền tảng thể lực để thực
hiện chức năng xã hội, chức năng nghề nghiệp trong tương lai, tạo điều
kiện cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lao động xây dựng và bảo vệ tổ
quốc [1], [14].
GDTC trong trường học nói chung và ở cấp THCS nói riêng là một
nội dung bắt buộc. Tại điều 41 Hiến pháp năm 1992 và Luật Thể dục, thể
thao năm 2006 quy định GDTC là môn học chính khóa, GDTC trường học
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện [65], [67].
GDTC trường học là một bộ phận quan trọng của toàn bộ nền TDTT
quốc gia, là một mặt cơ bản trong giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Do
vậy, GDTC trường học nói chung và ở cấp THCS nói riêng có những nhiệm
vụ sau:
Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi đang trong thời kỳ phát triển
mạnh mẽ về tâm sinh lý, đa số các em đã bước vào giai đoạn “dậy thì”,
22
do vậy nhiệm vụ quan trọng của GDTC cho các em giai đoạn này là phải
thúc đẩy sự phát triển cơ thể các em một cách cân đối, hài hòa.
Giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực và tính đề kháng của cơ thể học
sinh trước những ảnh hưởng bất lợi của môi trường xung quanh.
Đảm bảo sự phát triển hợp lý các tố chất thể lực, đáp ứng yêu cầu
chương trình môn học Thể dục và đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo
lứa tuổi. Phát động phong trào tập luyện thể dục, thể thao ngoại khóa cho
học sinh dưới nhiều hình thức khác nhau kể cả việc phối hợp với lãnh đạo
và các đoàn thể tại địa phương… đặc biệt là sự tự tập luyện của các em
tại gia đình.
Trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản,
cần thiết cho các hoạt động khác nhau trong cuộc sống và rèn luyện cho các
em có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh nơi công cộng, vệ sinh tập
luyện thể dục, thể thao.
Khơi gợi hứng thú và nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao cho học
sinh đồng thời trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về TDTT và
phương pháp tập luyện để từ đó tạo cho các em thói quen rèn luyện thân
thể thường xuyên, suốt đời và một nếp sống văn minh, lành mạnh.
Như vậy, mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của GDTC cho học sinh
THCS chính là: giúp các em có sự tăng tiến về sức khỏe, thể lực. Đạt tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi và giới tính. Trang bị cho các em
những kiến thức và kỹ năng vận động cần thiết trong cuộc sống. Xây dựng
thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên, suốt đời, có lối sống lành
mạnh, tác phong nhanh nhẹn, có tinh thần tập thể, tình đoàn kết cùng các
phẩm chất đạo đức, ý chí vươn lên… Biết vận dụng những kiến thức, kỹ
23
năng đã học vào các hoạt động ở nhà trường và trong đời sống hàng ngày
[2], [14], [48], [95].
1.2.3.4. Chương trình môn học Thể dục cấp THCS
Chương trình môn học Thể dục ở trường THCS có vị trí hết sức
quan trọng và là hoạt động chủ yếu của công tác GDTC trong giáo dục toàn
diện ở nhà trường. Cũng giống như các cấp học, bậc học khác, GDTC ở
trường THCS được thực hiện dưới hai hình thức là GDTC (môn học Thể
dục) nội khóa và hoạt động thể thao ngoại khóa. Cả hai hình thức trên đều
cơ bản, thiết yếu và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm đảm bảo
chương trình và kế hoạch giáo dục trong nhà trường [2], [67].
Chương trình môn học Thể dục hiện hành (ban hành năm 2006) so
với chương trình cũ đã có nhiều tiến bộ, nội dung chương trình được lựa
chọn, đảm bảo tính lôgic và định hướng phát triển nhiều môn thể thao, phát
huy được thế mạnh các môn thể thao dân tộc trong phạm vi trường học.
Tuy nhiên, với mục tiêu lấy sức khỏe và thể lực là mục tiêu quan trọng
nhất nhưng để thực hiện thì chương trình còn bộc lộ một số hạn chế: nội
dung chương trình còn lặp lại nhiều nội dung ở cấp tiểu học về kiến thức
và kỹ năng dẫn đến nhàm chán, không phát huy được tính tích cực và sự
khám phá môn học ở học sinh. Mặt khác, phương pháp và hình thức đánh
giá, động viên kết quả học tập còn lạc hậu, đơn giản, chưa thật sự phát
huy niềm thích thú, tích cực hoạt động thường xuyên của học sinh [1], [32],
[33], [79].
Như vậy, chương trình môn học Thể dục ở trường THCS nói riêng và
ở phổ thông nói chung sau 10 năm đổi mới đã có nhiều ý kiến đánh giá của
các nhà khoa học, cán bộ quản lý về GDTC và những giáo viên trực tiếp
giảng dạy về mục tiêu, nội dung, cấu trúc nội dung chương trình… Mặc dù
chưa có những nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện nhưng có thể thấy đa
24
số đều cho rằng chương trình đã đáp ứng được yêu cầu nhất định của mục
tiêu GDPT trong bối cảnh và điều kiện thực tiễn dạy học những năm qua [2],
[32], [33], [78].
Hiện nay với xu hướng chung, các chương trình giáo dục tiên tiến trên
thế giới là hướng tới phát triển các tiềm năng và biến nó trở thành năng lực
thực sự của từng học sinh và học tập phải trở thành nhu cầu và hoạt động
thường xuyên, suốt đời của các em. Đặc biệt theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo
nhu cầu phát triển của xã hội và trong chiến lược phát triển giáo dục 2011
2020 (QĐ711/QĐTTg ngày 13/6/2012) đã xác định, trên cơ sở đánh giá
chương trình GDPT hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các
nước, thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015
theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất
trong toàn quốc, vừa phù hợp đặc thù của mỗi địa phương. Do đó, từ những
kết quả nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn về GDTC và yêu cầu đổi mới
chương trình GDPT sau năm 2015, Bộ GD&ĐT đã tổ chức nhiều hội thảo
khoa học về vấn đề này, trong đó có hội thảo khoa học quốc gia về GDTC ở
trường phổ thông Việt Nam (2013). Đây là hội thảo tập trung nhiều nhà
khoa học, cán bộ quản lý về GDTC và những giáo viên TDTT giảng dạy ở
phổ thông, với nhiều tham luận, nghiên cứu được trình bày trong đó có
những đánh giá về chương trình, sách giáo viên hiện hành và đề xuất
chương trình môn Thể dục sau năm 2015 có giá trị khoa học và thực tiễn
cao [12], [17], [97].
1.2.3.5. Khái quát về điều kiện triển khai công tác GDTC trong nhà trường
THCS
Đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu về GDTC của học sinh THCS
25
GDTC học đường với việc tác động đến cơ thể học sinh trong giai
đoạn này thông qua các bài tập hợp lý, khoa học sẽ có một ý nghĩa rất lớn
đến quá trình phát triển thể chất ở các em. Bằng những nghiên cứu của
mình, các nhà khoa học đã chứng minh, đỉnh cao sự phát triển về mặt thể
chất của mỗi con người chính là ở lứa tuổi học đường. Đây cũng là thời kỳ
thuận lợi nhất, an toàn nhất để tiếp thu các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ
bản thiết thực cho đời sống hàng ngày [2], [19], [31].
Đặc điểm về tâm lý: học sinh THCS có độ tuổi từ 11 tuổi đến 15
tuổi, đây là lứa tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt cả về thể
chất, tâm lý lẫn trí tuệ. Nhiều nhà nghiên cứu sự phát triển của lứa tuổi này
đã gọi đây là giai đoạn “tuổi khủng hoảng”, là “thời kỳ quá độ” với nhiều
diễn biến phức tạp. Diễn biến tâm lý của các em trong học tập được biểu
hiện ở nhiều mặt như về động cơ học tập, sự tập trung chú ý, khả năng
ghi nhớ, năng lực tư duy và giao tiếp [42], [70].
Ở lứa tuổi này các em đã thấy rõ sự biến đổi về thể chất và đời sống
tâm lý của mình nhưng cũng không tránh khỏi trạng thái lo âu trước những
biến đổi đó đồng thời nhu cầu thiết lập mối quan hệ với bạn bè cùng trang
lứa có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành nhân cách và phát triển tâm
lý ở các em. Trước những diễn biến phức tạp về mặt tâm lý của các em ở lứa
tuổi này, trong quá trình giáo dục nói chung và GDTC nói riêng, người giáo
viên cần quan tâm nắm vững những đặc điểm tâm lý của học sinh mới có thể
tổ chức quá trình dạy học đạt được mục tiêu như mong muốn [27], [40], [42],
[70], [95].
Đặc điểm về sinh lý: từ tuổi 11 đến tuổi 15 là thời kỳ cơ thể có những
biến đổi mạnh mẽ, quan trọng. Dưới góc độ sinh học thì đây là thời kỳ
trưởng thành sinh dục hay còn gọi là “tuổi dậy thì”. Lứa tuổi này cho thấy