HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN QUANG
TÝNH CHÝNH §¸NG CñA
§¶NG CéNG S¶N CÇM QUYÒN ë VIÖT NAM
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số
: 62 31 20 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Ngô Huy Đức
2. TS. Trịnh Thị Xuyến
Phản biện 1:.......................................................
.........................................................
Phản biện 2:.......................................................
.........................................................
Phản biện 3:.......................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Về căn bản, trong mối quan hệ của quyền lực (chủ thể ra lệnh chủ thể
phục tùng), chủ thể ra lệnh bao giờ cũng muốn dùng quyền lực của mình để ép
buộc người bị cai trị phải tuân thủ, phục tùng, làm theo các mệnh lệnh của
mình một cách vô điều kiện và tất nhiên là phải đạt được hiệu quả như ý
muốn. Ngược lại, người bị cai trị luôn có cảm giác khó chịu và có xu hướng
phản kháng, bất tuân thủ. Tuy nhiên, do đòi hỏi của sản xuất, của sự trật tự xã
hội, xã hội vẫn luôn phải tồn tại các mối quan hệ quyền lực. Như Ăngghen đã
từng khẳng định: Một quyền uy và một sự phục tùng nhất định đều do những
điều kiện vật chất làm cho trở nên tất yếu đối với chúng ta. Đây chính là mâu
thuẫn lớn nhất của quyền lực. Vấn đề đặt ra là, làm sao để những mệnh lệnh
của chủ thể quyền lực đưa ra mà người bị trị tuân thủ, nghe theo, làm theo một
cách tự nguyện và đạt được hiệu lực và hiệu quả cao? Để có được điều này,
đòi hỏi quyền lực phải có tính chính đáng. Hay nói cách khác, quyền lực, sự
cưỡng bức sẽ “dễ chịu” hơn khi nó được mọi người coi là “chính đáng”. Vì
vậy, tính chính đáng là một sự đòi hỏi cần thiết của quyền lực và đã trở thành
một trong những đối tượng trung tâm của nghiên cứu chính trị học.
Trước kia, khi tầng lớp thống trị của nhà nước thực hiện một cách rộng
rãi những đàn áp và bất công, nhân dân có thể tuân thủ những mệnh lệnh của
quyền lực chính trị từ những động cơ của lương tâm như sự sợ hãi bị trừng
phạt, sự tôn sùng cá nhân, phong tục, tập quán, tôn giáo, do gắn bó trong một
thời gian dài với một người cai trị, hay là tin vào sự ủy thác quyền lực của
Thượng đế cho người cai trị v.v.. Tuy nhiên, một tầng lớp cai trị nào đó không
thể vững bền qua thời gian trừ khi những thần dân của nó nhận ra rằng khi
những người nắm giữ quyền ra lệnh và đòi hỏi họ phải phục tùng là nhờ có
quyền lực chính đáng. Còn nếu không, nó sẽ dẫn đến những sự thay đổi về
chủ thể cai trị khi mà những thần dân đã thức tỉnh, nhận rõ được sự bất công từ
quyền lực bất chính đáng và họ đã đủ mạnh để đánh đổ chủ thể cai trị hiện
thời. Lịch sử đã chứng minh, sự biến chuyển của các chế độ chính trị, của
quyền lực có thể coi là sự thay đổi trong quan niệm về tính chính đáng chính trị.
2
Ngày nay, trong một xã hội dân chủ, tính chính đáng chính trị được coi là
một vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của thực thi
quyền lực chính trị, và cụ thể hơn là hiệu lực, hiệu quả thực thi của một mệnh
lệnh, chỉ thị phát ra từ các cơ quan quyền lực của chủ thể cầm quyền. Nếu chủ
thể cầm quyền thiếu tính chính đáng, các mệnh lệnh từ bộ máy cai trị của nó
đưa ra sẽ gặp phải sự chống đối, kháng cự từ những công dân. Và ngược lại,
chủ thể cầm quyền có được tính chính đáng cao, khi đó, nó sẽ đạt được hiệu
lực và hiệu quả cao trong thực thi quyền lực và dĩ nhiên là giữ được sự ổn định
chính trị xã hội nhằm duy trì thời gian cầm quyền. Như vậy, tính chính đáng
chính trị tạo nên sức mạnh, hiệu quả trong thực thi quyền lực của chủ thể cầm
quyền.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, tính chính đáng của
Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam đã được lịch sử chứng minh và nhân dân
thừa nhận. Tính chính đáng này có được vì dưới sự lãnh đạo và cầm quyền
của mình, Đảng đã đồng hành cùng nhân dân, cùng dân tộc đạt được nhiều
thành tựu trong việc đấu tranh vì mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vai trò lãnh đạo tuyệt đối của ĐCS Việt Nam đã
được ghi nhận trong Hiến pháp, song điều đó không đồng nghĩa với việc
không cần tăng cường, củng cố tính chính đáng của Đảng trong vị trí cầm
quyền. Ngược lại, trong bối cảnh đã có nhiều thay đổi hiện nay, đòi hỏi
Đảng cầm quyền phải không ngừng tăng cường xây dựng, phát huy tính
chính đáng của mình để đoàn kết các lực lượng trong xã hội đưa đất nước
vượt qua mọi khó khăn, thách thức để bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện
thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Trong suốt thời gian cầm quy ền đã qua, có những lúc Đảng mắc một
số sai lầm trong lãnh đạo và cầm quyền làm ảnh hưởng đến tính chính
đáng. Đặc biệt, thời gian gần đây, như đã được khẳng định trong nhiều
Văn kiện Đại hội XI của Đảng: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chưa đượ c ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành
3
của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng và
Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước".
Hậu quả của nó là ở một số nơi xảy ra tình trạng khiếu kiện kéo dài, một
số cá nhân, tổ chức chống đối lại các cơ quan nhà nước một cách quyết liệt,
thậm chí ở một số nơi đã xuất hiện một số “cơn sóng ngầm trong lòng dân” và
có nguy cơ gây mất ổn định xã hội v.v.. Mặc dù Đảng đã có nhiều biện pháp
như tự phê bình và phê bình, chỉnh đốn Đảng, giữ quan hệ mật thiết với quần
chúng, đặc biệt nhấn mạnh sự tuyên truyền, giáo dục và giác ngộ v.v.. Dấu
hiệu đó cho thấy, tính chính đáng đã có dấu hiệu bị xói mòn. Điều này rất dễ
xảy ra, nhất là khi quyền lực nhà nước được đặt dưới sự lãnh đạo của một
Đảng duy nhất cầm quyền liên tục trong một thời gian dài. Rất có thể, khi cầm
quyền trong thời gian dài, Đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt
mình với quần chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan
liêu, xa dân, tham nhũng, thậm chí độc đoán, một bộ phận cán bộ, đảng viên hư
hỏng, dần đánh mất lòng tin của nhân dân, qua đó làm xói mòn tính chính đáng
về sự cầm quyền của Đảng. Điều này đã từng xảy ra với một số đảng, dẫn
đến kết cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những hệ lụy nguy hiểm
cho quốc gia, cho dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá một cách có căn cứ
khoa học và hệ thống về tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi
Đảng cầm quyền đến nay để từ đó có những kiến nghị nhằm nâng cao tính
chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới là một vấn đề hết sức hệ
trọng và cấp bách.
Chính vì những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tính chính đáng
của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ chính trị
học là hữu dụng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tính chính đáng chính trị, tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đi khảo sát, phân tích, đánh
giá tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử, chỉ
ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay, từ đó đưa ra
4
một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao tính chính đáng của ĐCS Việt Nam
cầm quyền thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về tính chính đáng chính trị, tính chính
đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Thứ hai, dựa trên cơ sở lý luận đã được xây dựng, luận án khảo sát,
phân tích và đưa ra những nhận xét về tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm
quyền qua các thời kỳ lịch sử.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm
quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, từ đó rút ra một số bài học có giá
trị tham khảo đối với ĐCS Việt Nam.
Thứ tư, chỉ ra các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của Đảng hiện
nay.
Thứ năm, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao tính chính đáng trong
cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
đối với tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền. Góc độ tiếp cận và
giải quyết các nội dung nghiên cứu của luận án là dưới góc độ khoa học Chính
trị học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về nội dung: Nghiên cứu về ĐCS Việt Nam với tư cách là đảng duy nhất
cầm quyền ở nước ta có rất nhiều nội dung nghiên cứu khác nhau, chứa đựng
nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Luận án chỉ tập trong nghiên
cứu nội dung tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Về thời gian: Nghiên cứu tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt
Nam với trọng tâm là khoảng thời gian từ khi Đảng chính thức trở thành Đảng
cầm quyền (1945) ở Việt Nam cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, luận án bám sát đến các quan điểm biện chứng, khách quan, toàn
diện, lịch sử cụ thể để triển khai các ý tưởng nghiên cứu.
4.2. Nguồn tư liệu
Tư liệu thứ cấp: Các tài liệu, các công trình nghiên cứu, sách chuyên
khảo đã công bố của các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan
đến đề tài luận án.
Tư liệu cấp ba: Các Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương; các văn bản pháp quy của Quốc hội, Chính phủ, các
Bộ, các ngành; các báo cáo tổng kết của Mặt trận tổ quốc Việt Nam; các tác
phẩm kinh điển có liên quan đến luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác
giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung luận án.
Chương 1, tác giả coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích và hệ
thống hóa để đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Chương 2, tác giả sử dụng nhiều phương pháp để làm sáng tỏ những
vấn đề của luận án. Cụ thể, tác giả sử dụng phương pháp quy nạp để xây
dựng các khái niệm công cụ. Phương pháp lịch sử, phân tích, và tổng hợp để
khảo sát các quan niệm khác trong lịch sử tư tưởng chính trị về tính chính đáng
chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ đó đưa ra cấu trúc
của tính chính đáng chính trị, cấu trúc tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm
quyền.
Chương 3, tác giả dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử và
phương pháp định tính để khảo sát, phân tích, nhận định tính chính đáng trong
cầm của của ĐCS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Sử dụng phương pháp so
sánh để tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong cầm quyền của
một số đảng chính trị trên thế giới và rút ra một số bài học cho Đảng ta.
6
Chương 4, về cơ bản, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
để phân tích các hạn chế trong duy trì tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm
quyền hiện nay và đề ra một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần nâng
cao tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam thời gian tới.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
Luận án đưa ra được khái niệm, cấu trúc về tính chính đáng chính trị,
tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ cách tiếp cận của Chính trị
học dựa trên hệ thống hóa các công trình nghiên cứu trước đó, các quan niệm
khác nhau về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của đảng cầm quyền.
Trên cơ sở khung lý thuyết về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng
của ĐCS Việt Nam cầm quyền, luận án đã khảo sát, phân tích và đưa ra những
nhận xét về tính chính đáng của ĐCS cầm quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ
lịch sử.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng trong
cầm quyền của một số đảng chính trị trên thế giới, luận án rút ra một số bài
học bổ ích có khả năng vận dụng để nâng cao tính chính đáng trong cầm
quyền của ĐCS Việt Nam.
Luận án chỉ ra những hạn chế trong duy trì tính chính đáng trong cầm
quyền của Đảng hiện nay và đưa ra được các giải pháp khả thi nhằm nâng cao
tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, nội dung và kết quả của luận án góp phần hoàn thiện cơ sở lý
luận về tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm
quyền. Vì vậy, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy chuyên ngành Chính trị học, các bộ môn khoa học xã hội và
nhân văn có liên quan ở Việt Nam.
Về thực tiễn, những kết luận của luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý
luận khoa học, cách tiếp cận rõ ràng. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có thể
khai thác, vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao tính chính đáng trong cầm
quyền của ĐCS Việt Nam hiện nay và thời gian tới.
7. Kết cấu luận án
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Vấn đề tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của nhà nước đã và đang
được khá nhiều nhà khoa học phương Tây quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam,
vấn đề tính chính đáng chính trị, đặc biệt tính chính đáng của đảng cầm quyền,
trong một thời gian dài vẫn được coi là vấn đề “nhạy cảm”, là một điều gì đó tối
kỵ trong các nghiên cứu. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu
trực tiếp đề cập đến vấn đề này hoặc là liên quan đến vấn đề xây dựng tính
chính đáng của nhà nước, của ĐCS Việt Nam cầm quyền ở nước ta dưới các
góc nhìn khác nhau.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Điểm qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, ta
thấy, các tác giả chủ yếu tập trung vào phân tích các điều kiện của tính chính
đáng chính trị, như, nguồn gốc hình thành thông qua bầu cử, các quyết định hợp
pháp, phát triển được kinh tế, xã hội, đồng thời lợi ích của đa số phải được
đảm bảo... Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập đến nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng tính chính đáng của chủ nghĩa tư bản,v.v… Các kết quả nghiên cứu này
sẽ là cơ sở dữ liệu để tham khảo trong quá trình triển khai làm rõ các nội dung
của luận án, đặc biệt là xây dựng khái niệm và cấu trúc của tính chính đáng
chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm, cấu trúc,
điều kiện của tính chính đáng chính trị, tính chính đáng của Đảng cầm
quyền
1.2.2. Một số công trình nghiên cứu có liên quan tới tính hợp pháp
trong cầm quyền Đảng
8
1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến năng lực lãnh đạo,
hiệu quả cầm quyền của Đảng.
1.2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bầu cử
các cơ quan quyền lực Nhà nước ở nước ta
Tóm lại, qua khảo sát các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án của các tác giả ở trong và ngoài nước đã cung cấp một số tư liệu, thông
tin, tri thức và cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Đây là nguồn tư liệu quý giá
được kế thừa khi triển khai nghiên cứu luận án này. Tuy vậy, cho đến nay vẫn
chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về tính chính đáng của ĐCS Việt
Nam cầm quyền dưới góc nhìn của khoa học Chính trị học, đặc biệt luận giải
vấn đề tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền từ cách tiếp cận quyền
lực và quyền lực chính trị. Mỗi công trình, do xuất phát từ mục tiêu, phương
pháp tiếp cận và giới hạn phạm vi của nó nên chỉ giải quyết các nội dung nhất
định. Hầu hết các nghiên cứu mới bước đầu đề cập đến những vấn đề mang
tính đơn lẻ, mới chỉ dừng lại ở các ý tưởng khoa học, nhận định theo cảm nhận
chủ quan hơn là khung lý thuyết hoàn chỉnh về tính chính đáng chính trị, tính
chính đáng của Đảng cầm quyền ở nước ta, chưa luận giải và chứng minh một
cách có căn cứ mang tính bài bản dựa trên khuôn khổ lý thuyết rõ ràng. Tác giả
cầu thị nhưng cũng luôn bám sát cách tiếp cận khoa học riêng để nhận định,
tiếp thu các giá trị có thể tham khảo được từ các công trình đã khảo cứu này
trong quá trình triển khai luận án.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học có liên quan đã được
công bố, có thể thấy, vấn đề tính chính đáng chính trị nói chung, tính chính đáng
của ĐCS Việt Nam cầm quyền nói riêng, trong thời gian gần đây, đã bắt đầu
thu hút được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các công trình được khảo cứu
ở trên, vấn đề tính chính đáng chính trị nói chung, tính chính đáng của ĐCS Việt
Nam cầm quyền nói riêng được đề cập và nghiên cứu ở nhiều góc độ, dưới
dạng sách chuyên khảo, bài viết tạp chí, luận văn, luận án.
Đồng thời, qua khảo cứu các công trình đó cho thấy, nghiên cứu tính
chính đáng chính trị, tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền còn một
9
số “khoảng trống” sau đây cần được khỏa lấp trong luận án và các nghiên
cứu tiếp theo:
Một là, vẫn chưa có được một khái niệm đầy đủ, toàn diện về tính
chính đáng chính trị từ cách tiếp cận của khoa học Chính trị học mác xít.
Đồng thời, chưa có một tổng kết, hệ thống hóa được các cách tiếp cận khác
nhau về tính chính đáng chính trị trong lịch sử tư tưởng chính trị để từ đó xây
dựng được cấu trúc tính chính đáng chính trị. Đặc biệt, chưa có một nghiên
cứu nào tiếp cận từ đặc thù trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam để đưa ra
khái niệm tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền được tiếp cận từ
góc độ khoa học về quyền lực và quyền lực chính trị, xây dựng cấu trúc tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền.
Hai là, các nghiên cứu liên quan đến tính chính đáng của ĐCS Việt Nam
cầm quyền qua các thời kỳ lịch sử còn rất ít, nếu có cũng chỉ là khẳng định vai
trò cầm quyền một cách chính đáng của Đảng như một mặc định hiển nhiên,
không đủ cơ sở lý thuyết để phân tích, nhận định tính chính đáng cao hay bị xói
mòn trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Vì vậy, việc căn cứ vào cấu trúc tính
chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền để khảo sát, phân tích, nhận định
tính chính đáng cao hay bị ảnh hưởng, xói mòn của Đảng trong các thời kỳ khác
nhau là “khoảng trống” cần được làm rõ.
Ba là, các nghiên cứu tuy đã đề cập đến điều kiện đảm bảo tính chính
đáng trong cầm quyền của các đảng tư bản trong xây dựng cương lĩnh, đường
lối, chính sách, trong phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước... nhưng
lại chưa rút ra được bài học có thể tham khảo trong quá trình nâng cao tính
chính đáng trong cầm quyền của Đảng ta hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu
kinh nghiệm từ các đảng chính trị trên thế giới nhằm rút ra bài học có giá trị
tham khảo cho Đảng ta cũng là một “khoảng trống” cần tiếp tục nghiên cứu.
Bốn là, trong các nghiên cứu, khi đề cập đến hạn chế trong duy trì tính
chính đáng của Đảng hiện nay, chủ yếu là tiếp cận từ các nhận định trong các
Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà
nước, xuất pháp từ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy đồi đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Chưa có các nghiên cứu từ nền
tảng của khung lý thuyết được xây dựng bài bản, khoa học. Vì vây, việc thực
10
hiện luận án nhằm góp phần khỏa lấp một số “khoảng trống” mà các nghiên
cứu trước đây chưa đề cập đến các hạn chế trong xây dựng hệ giá trị của
Đảng, xây dựng tính hợp pháp của Đảng, xây dựng tính hiệu lực, hiệu quả
trong lãnh đạo của Đảng để từ đó đề xuất các giải pháp khả khi nhằm nâng
cao tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng thời gian tới.
Những “khoảng trống” nêu trên đặt ra các tình huống khoa học mà đối
tượng nghiên cứu của luận án hướng tới góp phần giải quyết, đặc biệt là các
vấn đề thuộc phương diện nhận thức khoa học.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ,
TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN
2.1. LÝ LUẬN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ
2.1.1. Khái niệm tính chính đáng chính trị
Tính chính đáng chính trị là niềm tin, sự thừa nhận và phục tùng một cách
tự nguyện của đa số người dân đối với chủ thể cai trị thông qua những yếu tố
mà chủ thể cai trị tạo ra và thiết lập được, nhờ đó chủ thể cai trị nâng cao
được hiệu lực và hiệu quả trong quá trình cai trị.
Như vậy, khi nói đến tính chính đáng chính trị là nói đến niềm tin, sự thừa
nhận, chấp nhận một cách tự nguyện của khách thể quyền lực đối với chủ thể
chính trị dựa trên các yếu tố mà chủ thể tạo ra để đạt được hiệu lực và hiệu
quả cao trong cai trị.
Vì vậy, tính chính đáng chính trị nổi lên một số đặc trưng cơ bản: Tính
chính đáng chính trị là một biểu hiện của mối quan hệ chính trị, giữa các chủ
thể trong mối quan hệ quyền lực chủ thể cai trị và chủ thể bị trị; Tính chính
đáng chính trị liên quan đến địa vị, quyền hạn được xác lập của chủ thể quyền
lực đối với khách thể quyền lực; Trong quan hệ quyền lực, các mục tiêu của
chủ thể quyền lực, ngoài lợi ích của mình đồng thời phải đáp ứng được lợi ích
của khách thể (cộng đồng, xã hội); Một chủ thể quyền lực chính trị được coi là
chính đáng khi quan hệ quyền lực đó dựa trên sự đồng thuận giữa khách thể và
chủ thể quyền lực, dựa trên sự thừa nhận của xã hội đối với chủ thể quyền
11
lực chính trị trong quá trình giành quyền lực và suốt quá trình thực thi quyền
lực; Trong tính chính đáng chính trị, chủ thể quyền lực phải tạo nên niềm tin,
sự thừa nhận, phục tùng hoàn toàn tự nguyện của khách thể quyền lực tức
tính chính đáng không thể có dựa trên sự cưỡng ép và bạo lực.
Vì tính chính đáng chính trị liên quan đến niềm tin, sự thừa nhận và phục
tùng tự nguyện, cho nên, chúng ta khó có thể đo tính chính đáng chính trị bằng
định lượng mà chỉ có thể đo được bằng định tính. Cụ thể hơn, tình trạng, mức
độ của tính chính đáng chính trị cao hay thấp thể hiện ở chỗ: khách thể quyền
lực có còn đặt niềm tin, chấp nhận, nghe theo và ủng hộ chủ thể nữa hay
không; tình trạng xã hội ổn định hay bất ổn; các mâu thuẫn, xung đột giữa
người bị trị và chủ thể cai trị gay gắt hay không gay gắt; sự hưởng lợi từ thành
quả đạt được thuộc về ai; thời gian cầm quyền của chủ thể quyền lực dài hay
ngắn v.v..
2.1.2. Các cách tiếp cận cơ bản về tính chính đáng chính trị
2.1.2.1. Các nhà khoa học phương Tây
Khi nghiên cứu về tính chính đáng chính trị, các nhà khoa học phương
Tây, như đã nói, có nhiều cách lý giải khác nhau. Hầu hết họ đều đi tìm câu trả
lời cho những câu hỏi mang tính căn bản liên quan đến tính chính đáng của
quyền lực nhà nước như: Nguồn gốc tính chính đáng của quyền lực nhà nước;
Tính chính đáng có vai trò gì trong tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước, và,
các yếu tố nào tạo nên tính chính đáng chính trị v.v..
* Nguồn gốc tính chính đáng của quyền lực nhà nước
* Tính chính đáng chính trị và nghĩa vụ chính trị
* Các yếu tố tạo nên tính chính đáng chính trị
2.1.2.2. Các nhà lý luận mác xít
* Quan niệm của C.Mác Ph.Ăngghen và V.Lênin
Quan niệm của C.Mác Ph.Ăngghen
Quan niệm của V.Lênin
+ Đối với tính chính đáng của nhà nước
Lênin đi tìm nhà nước thực sự chính đáng, theo Ông, chỉ có nhà nước mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã
12
hội phù hợp với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân, khi đó nhà nước mới có tính
chính đáng thực sự.
+ Đối với tính chính đáng của ĐCS cầm quyền
Theo Ông, hoat đông lanh đao cua ĐCS la môt hoat đông găn liên v
̣ ̣
̃
̣
̉
̀ ̣
̣ ̣
́ ̀ ơi cuôc
́
̣
đâu tranh giai câp ca tr
́
́ ̉ ươc va sau khi giai câp vô san lanh đao nhân dân gianh
́ ̀
́
̉
̃
̣
̀
được chinh quyên, nhăm gianh lây s
́
̀
̀
̀
́ ự ung hô cua đông đao nhân dân lao đông đôi
̉
̣ ̉
̉
̣
́
vơi Đang
́ ̉
tức là ĐCS phải chứng minh được tính ưu vượt trội của mình so với
các lực lượng khác trong xã hội để tạo được sự ủng hộ của đại đa số nhân
dân trong xã hội.
Ông rất quan tâm đến tính tiên phong trong đường lối lãnh đạo của
Đảng. Chỉ khi nào Đảng có được đường lôi đung đăn, khi đó nhân dân m
́ ́
́
ơi tin
́
tưởng va đi theo Đ
̀
ảng và coi đây là nhiêm vụ đầu tiên, kiên quyết để ĐCS có
tính chính đáng.
Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy
cơ làm giảm hoặc mất tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng. Theo Lênin,
trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến lên CNXH, để tránh tự mình làm suy yếu
mình, để luôn vững mạnh và làm tròn vai trò người lãnh đạo, Đảng cần phải
hết sức tránh hai nguy cơ sau: một là, nguy cơ sai lầm về đường lối; hai là,
nguy cơ quan liêu, thoái hóa biến chất trong đội ngũ Đảng.
* Quan niệm của A.Gramsci
Lý thuyết của Gramsci phát triển nhằm vạch ra các quá trình để xây dựng
một vị trí lãnh đạo về tinh thần (moral leadership) thông qua quyền lãnh đạo ý
thức hệ.
Theo Gramcsi, một nhóm hay một giai cấp nào muốn trở thành nhóm, giai
cấp thống trị, thậm chí, nó phải tạo ra tính chính đáng của mình ngay cả trước
khi lên nắm quyền, bằng cách nắm được vị trí “tiên phong”.
Để tạo được sự đồng thuận trong xã hội, theo Gramcsi, chức năng này
thuộc về các thiết chế của xã hội dân sự. Các thiết chế này sẽ thực hiện chức
năng về văn hóa và tư tưởng của mình để để tạo ra sự đồng thuận, nó không
mâu thuẫn với nhà nước mà nó là các thiết chế để “bảo vệ nhà nước từ trong
chiều sâu, vì nó đảm bảo tính chính đáng của quyền lực qua sự thừa nhận của
13
quần chúng (dù là được tạo ra bởi nhà nước) về hệ giá trị và các tư tưởng của
giai cấp cầm quyền”.
Theo ông, đảng muốn có được quyền lãnh đạo, kể cả các đảng vô sản,
cần phải coi tầng lớp trí thức là lực lượng tích cực nhất, tiên tiến nhất. Vì vậy,
Gramsci mới gọi “toàn thể đảng viên của chính đảng cần phải xem là các phần
tử tri thức”.
Đồng thời, trong lý thuyết của mình, bên cạnh việc đề cao tính tiên phong
của hệ tư tưởng, Gramsci còn cho rằng, sự đồng thuận không thể được duy trì
chỉ duy nhất bằng các ý kiến hay lý tưởng, mà bắt buộc phải có các yếu tố
mang tính kinh tế. Chỉ có lãnh đạo nhân dân phát triển được kinh tế, nâng cao
đời sống cả vật chất và văn hóa, khi đó, đảng cầm quyền mới tạo được sự
đồng thuận trong lâu dài và giữ vững được vai trò cầm quyền, duy trì tính chính
đáng chính trị.
2.1.3. Cấu trúc của tính chính đáng chính trị
Từ các cách nhìn khác nhau trong quan niệm về tính chính đáng chính trị
đã phân tích ở phần trên, có thể rút ra cấu trúc của tính chính đáng chính trị, coi
đây là cơ sở quan trọng để lấy đó làm căn cứ trong quá trình khảo sát, nhận
định, đánh giá tính chính đáng chính trị của một chủ thể cai trị cụ thể nào đó. Có
thể khái quát thành ba điểm chính, mà theo chúng tôi, đây cũng là ba yếu tố quan
trọng nhất để tạo nên cấu trúc tính chính đáng chính trị trong cai trị của chủ thể
chính trị nào đó.
2.1.3.1. Giá trị lý tưởng chính trị
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, mỗi một thời kỳ lịch sử
nhất định, mỗi một chế độ chính trị xã hội nhất định, các giá trị lý tưởng chính
trị mà các chủ thể nắm quyền đều có những điểm tựa khác nhau.
Tuy nhiên, hầu hết phải đảm bảo được hai tính chất: tính tiên phong và
tính công ích nhằm dẫn dắt đối với số đông trong xã hội hoặc dung hòa được
các giá trị khác biệt, không dẫn tới đối lập nhau, nhờ đó mà chủ thể có được
tính chính đáng về lý luận.
2.1.3.2. Tính hợp lý, hợp pháp của quyền lực
Trong lịch sử, khi chưa có quyền lực, người ta rất đề cao tính hợp lý trong
cách thức đạt quyền lực của các chủ thể. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, trong mỗi
14
chế độ chính trị xã hội nhất định, cách thức đạt quyền lực một cách chính
đáng của một chủ thể nhất định là khác nhau. Có thể bằng kế truyền, có thể
bằng bạo lực cách mạng, và cũng có thể bằng bầu cử dân chủ v.v.. Ngày nay,
nghiên cứu tính hợp pháp của chủ thể cầm quyền còn phải nghiên cứu đến
công nghệ để đảm bảo quyền lực chính trị được khách quan hóa trong quyền
lực công thông qua những thủ tục, thể lệ, quy trình, cốt lõi vẫn là nhà nước hóa
các cơ cấu chính trị. Tức, khi nghiên cứu tính hợp pháp của chủ thể cầm quyền
cần phải nhìn nhận đến những vấn đề khác nữa, như: Sự liên quan mật thiết
giữa hình thức hình thành chủ thể quyền lực chính trị với chế độ bầu cử và chế
độ bãi miễn; sự kiểm soát quyền lực; mối quan hệ quyền lực giữa đảng cầm
quyền với nhà nước (trong vai trò là công cụ của đảng cầm quyền); sự vận
hành quyền lực chịu sự ràng buộc và giám sát nghiêm ngặt của hiến pháp và
pháp luật tức liên quan đến các vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền v.v..
2.1.3.3. Tính hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng quyền lực
Xét cho cùng thì người dân có tiếp tục chấp nhận và ủng hộ đối với chủ
thể cai trị hay không là do bộ máy cầm quyền đó có mang lại cho họ những lợi
ích cả về mặt tinh thần lẫn vật chất hay không. Hiệu quả trong quá trình cầm
quyền phải dung hòa được hai lợi ích mà rất hay xảy ra sự mâu thuẫn, đối lập
đó là lợi ích của chủ thể cai trị và lợi ích của chủ thể bị cai trị (đa số nhân
dân).
Hiệu quả ở đây tập trung đến những vấn đề như:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, công bằng xã hội
Ngoài tăng trưởng và phân phối hợp lý, công bằng xã hội, các chủ thể
cầm quyền cũng cần phải chú ý đến các vấn đề an sinh xã hội khác như y tế,
xóa đói giảm nghèo, giáo dục, bảo vệ môi trường, v.v…
2.2. KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN
2.2.1. Khái niệm tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam c ầm
quyền
Tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền là niềm tin, sự thừa nhận
một cách tự nguyện của nhân dân đối với vị thế của Đảng trong việc nắm giữ
15
quyền lực Nhà nước, nhờ đó Đảng duy trì được vị thế cầm quyền, phát huy
được hiệu lực, hiệu quả trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2.2.2. Cấu trúc tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền
2.2.2.1. Hệ giá trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cần phải khẳng định rằng, hệ giá trị của ĐCS Việt Nam theo đuổi ngay
từ khi thành lập và phát triển cho đến nay được thể hiện thông qua: Chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của
Đảng mang tính đặc thù của đất nước, của dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể. Hệ giá trị này sẽ là tiền đề tư tưởng ảnh hưởng đến tính chính đáng về
mặt lý luận của Đảng. Muốn có được tính chính đáng về mặt lý luận, ĐCS
Việt Nam phải duy trì được tính tiên phong trong hệ giá trị của mình. Nếu một
thời điểm nào đó, ĐCS Việt Nam không duy trì được tính tiên phong về mặt tư
tưởng, đặc biệt là tính tiên phong trong cương lĩnh, đường lối, chính sách trong
quá trình lãnh đạo, tính chính đáng về mặt lý luận sẽ bị xói mòn và thậm chí sẽ
kéo theo làm xói mòn tính chính đáng trong vai trò cầm quyền.
2.2.2.2. Tính hợp lý, hợp pháp trong cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Đây chính là cơ sở của tính chính đáng trong quá trình giành quyền lực,
giữ quyền lực của Đảng. Vì đặc thù của chúng ta là chỉ có một đảng duy nhất
cầm quyền, vì vậy tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng nó không chỉ là
các quy định trong Hiến pháp và pháp luật về vai trò lãnh đạo duy nhất của
Đảng. Mà, tính hợp pháp trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam nó chính là cách
thức tạo dựng các cơ quan với tư cách là công cụ quyền lực của Đảng, công
nghệ để đảm bảo quyền lực chính trị của Đảng được khách quan hóa trong
quyền lực công tức quyền lực nhà nước thông qua những thủ tục, thể lệ, quy
trình, cốt lõi vẫn là nhà nước hóa các cơ cấu chính trị.
Cụ thể, trong quá trình phân tích yếu tố này của ĐCS Việt Nam, cần quan
tâm đến các vấn đề: Thứ nhất, tính hợp lý, hợp pháp trong quá trình giành vị trí
cầm quyền của ĐCS Việt Nam; Thứ hai, Đảng nắm quyền lực Nhà nước bằng
phương thức nào (áp đặt hay thông qua bầu cử tự do, dân chủ) tức liên quan
16
đến tính chính đáng của quyền lực Nhà nước với tư cách là công cụ của ĐCS
Việt Nam cầm quyền; Thứ ba, mối quan hệ trong lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng với Nhà nước tức là mối quan hệ quyền lực của Đảng trong vai trò lãnh
đạo với quyền lực của Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực công, bộ
máy quản lý; Thứ tư, với tư cách là một đảng duy nhất cầm quyền, nhân dân có
vai trò như thế nào trong việc tạo dựng các cơ cấu quyền quyền lực của Đảng
và vai trò giám sát, kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan quyền lực của
Đảng; v.v…
2.2.2.3. Tính hiệu lực, hiệu quả trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và
xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam
Như đã đề cập, một điều kiện rất quan trọng làm cơ sở để người dân có
còn tiếp tục ủng hộ sự lãnh đạo chính là hiệu quả trong quá trình cầm quyền
của Đảng ở từng thời kỳ, từng hoàn cảnh cụ thể. Ở nước ta, hiệu quả của sự
cầm quyền của Đảng được đánh thông qua các tiêu chí:Thứ nhất, mức độ tăng
trưởng kinh tế (GDP, GNP); Thứ hai, chỉ số phát triển con người (HDI) cao hay
thấp; Thứ ba, mức độ phân phối có đảm bảo được mức độ nhất định sự công
bằng hay không; Thứ tư, Đảng và Nhà nước giải quyết các vấn đề an sinh xã
hội như giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo… như thế nào; Thứ năm, các vấn
đề như xây dựng nền văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái tức là đảm bảo
yếu tố phát triển bền vững như thế nào, v.v…
Tiểu kết chương 2
Như vậy, tính chính đáng chính trị không chỉ là niềm tin đơn thuần của
những người bị cai trị vào chủ thể quyền lực. Tính chính đáng chính trị là sự
thừa nhận và phục tùng một cách tự nguyện của những người bị cai trị vào chủ
thể quyền lực thông qua các yếu tố mà chủ thể quyền lực tạo ra. Nhờ đó chủ
thể quyền lực đạt được hiệu lực và hiệu quả cao trong cầm quyền.
Khi nghiên cứu về tính chính đáng chính trị, có hai trường phái khá khác
nhau về nguồn gốc, hình thức tồn tại, tác dụng của tính chính đáng chính trị.
Một là của các nhà tư tưởng chính trị phương Tây và một là của các nhà mác xít
trong đó điển hình là MácĂgghen, Lênin và A.Gramsci. Mỗi cách cách tiếp
17
cận có những luận giải khác nhau về các vấn đề xung quan tính chính đáng
chính trị. Từ việc hệ thống hóa các quan niệm, ta thấy có ba mặt (yếu tố) quan
trọng trong cấu trúc của tính chính đáng chính trị là: giá trị lý tưởng chính trị;
tính hợp lý, hợp pháp trong cầm quyền; tính hiệu lực và hiệu quả trong cầm
quyền. Sự tương tác giữa các yếu tố này nằm dưới các quá trình chính trị lớn.
Biến đổi chính trị chính là sự biến đổi của bản thân các yếu tố này và sự tương
tác giữa chúng.
Đối với ĐCS Việt Nam, với tư cách là một đảng chính trị cầm quyền, về
tổng thể, để tạo nên cấu trúc tính chính đáng trong cầm quyền cũng cần có ba
yếu tố chính như đã chỉ ra. Tuy nhiên, trong ba yếu tố chính tạo nên cấu trúc
tính chính đáng của ĐCS Việt Nam cầm quyền, với tư cách là một đảng duy
nhất cầm quyền ở nước ta vẫn cần có những nét riêng biệt, đặc thù riêng. Cấu
trúc này sẽ là khuôn khổ lý thuyết để khảo sát, phân tích, nhận định về tính
chính đáng trong cầm quyền của Đảng từ lịch sử trong suốt những năm cầm
quyền của Đảng vừa qua. Đồng thời, cũng là cơ sở để chỉ ra các hạn chế trong
duy trì tính chính đáng của Đảng hiện nay và đề xuất một số gải pháp khả thi
trong quá trình củng cố, nâng cao tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng.
Chương 3
PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM
3.1. PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1975
3.1.1. Quá trình trở thành đảng cầm quyền một cách chính đáng của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền là một sự lựa chọn của lịch sử, nhờ
vào việc xác định hệ giá trị tiên phong, đúng đắn, khoa học, phù hợp với
nguyện vọng của đa số nhân dân và truyền bá một cách có hiệu quả hệ giá trị
đó vào trong đời sống nhân dân để thuyết phục họ đi theo Đảng, ủng hộ sự
lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng đã xây dựng, đào tạo ra cho mình
18
được các nhà lãnh đạo Đảng, đội ngũ đảng viên có uy tín cao với nhân dân,
được đông đảo nhân dân ủng hộ, đi theo…
3.1.2. Tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
Thứ nhất, Đảng đã xây dựng được đường lối, chiến lược, sách lược
đúng đắn trong lãnh đạo
Thứ hai, đạt được hiệu lực và hiệu quả cao trong quá trình lãnh đạo
Thứ ba, Đảng đã nhanh chóng chuyển từ cầm quyền một cách hợp lý
sang cầm quyền một cách hợp pháp
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975, mặc dù gặp phải vô vàn những khó
khăn, thử thách, nhưng bằng lý tưởng là Đảng phải lãnh đạo nhân dân giữ vững
chính quyền để làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ǎn, áo mặc, ai cũng được học hành. Thêm vào
đó là sự gương mẫu, hy sinh của cán bộ, đảng viên được Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh giáo dục và rèn luyện đã thu phục được lòng dân bằng tâm đức của
mình. Đường lối, chính sách của Đảng cho từng giai đoạn, thời điểm là kịp
thời, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của đất nước, của mỗi miền. Cách
thức chuyển từ đạt quyền lực một cách hợp lý thành lãnh đạo, cầm quyền một
cách hợp pháp là kịp thời, nhanh chóng. Phương thức tuyệt đối hóa quyền lực
của Đảng đối với Nhà nước cũng là cần thiết, phù hợp để đạt được hiệu lực
và hiệu quả, v.v… Chính những yếu tố cơ bản đó tạo cho Đảng có sức hấp
dẫn cao đối với nhân dân, được nhân dân tin yêu, một lòng ủng hộ, đi theo sự
lãnh đạo của Đảng để vượt qua hàng loạt khó khăn, thử thách tức là Đảng đã
tích tụ được hầu hết các yếu tố để tạo nên tính chính đáng cao trong cầm
quyền của Đảng trong suốt thời kỳ này.
3.2. PHÂN TÍCH TÍNH CHÍNH ĐÁNG TRONG CẦM QUYỀN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY
3.2.1. Giai đoạn từ 1975 đến 1986
Có thế nói, đây là giai đoạn khá khó khăn trong suốt lịch sử cầm quyền
của Đảng. Trong giai đoạn này, các yếu tố tạo nên tính chính đáng trong cầm
quyền của Đảng cần phải có những chuyển đổi căn bản để phù hợp với hoàn
19
cảnh đất nước vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc hết
sức gian khổ sang thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Khi căn cứ vào khuôn khổ lý thuyết để phân tích, có thể thấy trong
giai đoạn này nổi lên các vấn đề:
Thứ nhất, tư duy về đường lối xây dựng đất nước của Đảng có nhiều
chuyển biến nhưng chưa thật sự phù hợp với hoàn cảnh mới
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chậm
được đổi mới
Thứ ba, hiệu quả trong cầm quyền thấp, đời sống của nhân dân gặp
nhiều khó khăn
Rõ ràng, nhìn nhận về ba yếu tố căn bản tạo nên tính chính đáng trong
cầm quyền của Đảng ở giai đoạn này, sự xói mòn đã xuất hiện trong các yếu
tố và cần phải có những điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận
một cách khách quan, trong hoàn cảnh mà trước đó, đất nước chúng ta vừa phải
dồn gần như toàn bộ trí tuệ, của cải, sức lực vào hai cuộc kháng chiến trường
kỳ để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi đất nước chuyển sang một
hoàn cảnh, một thời kỳ hoàn toàn khác, sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gặp
khó khăn, lúng túng cũng là chuyện dễ xảy ra. Mặc dù vậy, đây cũng là giai
đoạn đánh dấu những chuyển biến trong nhận thức tư duy lý luận, nhận thức
thực tiễn của Đảng, của các nhà lãnh đạo cấp cao trong Đảng làm tiền đề cho
sự đổi mới toàn diện trong Đại hội VI của Đảng, đưa đất nước bước sang một
trang sử mới.
3.2.2. Thời kỳ từ 1986 đến nay
Chính nhờ bước đột phá trong tư duy, cho đến nay, chúng ta đã đạt được
những thay đổi rất cơ bản trong cả ba yếu tố mang tính căn bản tạo nên tính
chính đáng trong cầm quyền của Đảng. Đó là: thiết lập được những giá trị và
chuẩn mực mới; Tăng cường tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng; đặc
biệt hiệu quả cao trong cầm quyền của Đảng đã được nâng lên.
Thứ nhất, những chuyển đổi căn bản trong hệ giá trị và các chuẩn mực
Những thay đổi trong chấp nhận các giá trị mới, từ Đại hội VI cho đến
nay, có rất nhiều, trong đó phải kể đến hai yếu tố rất căn bản, nổi bật trong hai
20
lĩnh vực then chốt nhất: trong kinh tế là kinh tế thị trường định hướng XHCN;
trong chính trị là nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng ngày càng được nhận
thức, quy định rõ nét hơn
Thứ ba, dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội ngày càng được xem
trọng
Thứ tư, Đảng lãnh đạo đất nước đạt được nhiều thành tựu trong phát
triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng.
Khi nhìn nhận các yếu tố tạo nên tính chính đáng của Đảng trong giai
đoạn này (hệ giá trị, tính hợp pháp, hiệu quả), rõ ràng đã có nhiều chuyển biến
trong cả ba yếu tố. Đặc biệt trong yếu tố thứ ba tức hiệu quả cầm quyền, nó
như một hệ quả tất yếu của các chuyển đổi từ giá trị, thủ tục. Chính những
thành quả của công cuộc đổi mới sẽ là nhân tố quyết định để cho nhân dân tiếp
tục đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tính chính đáng của Đảng trong
cầm quyền được duy trì.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành công đạt được, các hạn chế, thiếu sót,
chưa hoàn thiện trong cả ba yếu tố không phải không có. Nó được tích tụ trong
cả quá trình cầm quyền của Đảng, sẽ trở thành các hạn chế trong quá trình duy
trì tính chính đáng của Đảng hiện nay, cần phải có những tác động kịp thời vào
các thách thức tiềm ẩn hoặc đã nổi lên rất rõ. Nhiệm vụ này sẽ được luận án
làm rõ trong chương 4.
3.3. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA MỘT SỐ
ĐẢNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG BÀI HỌC THAM KHẢO CHO ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.3.1. Kinh nghiệm xây dựng tính chính đáng của một số đảng chính
trị trên thế giới
Một là, kinh nghiệm trong xây dựng hệ giá trị của đảng
Hai là, kinh nghiệm trong xây dựng tính hợp pháp trong cầm quyền
Ba là, kinh nghiệm trong xây dựng hiệu quả của cầm quyền
21
3.3.2. Một số bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của một số
đảng chính trị trên thế giới có thể tham khảo cho Đảng Cộng sản Việt
Nam
Thứ nhất, bài học trong xây dựng hệ giá trị của Đảng
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Đảng nước Nga thống nhất, Đảng Dân
chủ Thiên chúa giáo ở Đức…, đặc biệt là Đảng Hành động Nhân dân Singapore
cho thấy, các đảng muốn thành công trong xây dựng hệ giá trị một nền tảng để
có quyền lực và duy trì quyền lực, cần phải có được tính linh hoạt trong xây
dựng và phát triển hệ giá trị của Đảng. Các đảng này luôn luôn có ý thức bổ
sung, phát triển trong quá trình xây dựng nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường
lối tranh cử, để đạt quyền lực trong bầu cử và trong xây dựng đất nước để duy
trì vị trí cầm quyền.
Thứ hai, bài học trong xây dựng tính hợp pháp trong cầm quyền của
Đảng.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các đảng chính trị, trong nền chính trị
dân chủ, đảng muốn xây dựng được tính hợp pháp trong cầm quyền, trước tiên
phải quan tâm đến công tác bầu cử. Đảng cần phải đạt được vị trí cầm quyền
thông qua các cuộc bầu cử thực sự dân chủ, tự do, công bằng, đúng pháp luật.
Một bài học nữa, đặc biệt từ kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân
dân Singapore, trong quá trình cầm quyền, để nâng cao được hiệu lực, hiệu quả
trong quá trình cầm quyền, Đảng cần được tổ chức tinh gọn, đảng phải thực
sự “hóa thân” vào nhà nước.
Thứ ba, bài học trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quá trình
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Qua kinh nghiệm của các đảng cho thấy, trong quá trình cầm quyền,
đảng nào phát huy được hiệu lực và hiệu quả thông qua: tính nghiêm minh của
hệ thống hiến pháp và pháp luật, tính công ích và hiệu quả của hệ thống chính
sách công, đặc biệt là phát triển được kinh tế xã hội, đời sống của đại bộ
phận được nâng lên, công bằng xã hội duy trì, an sinh xã hội được đảm bảo…
Tiểu kết chương 3
Như vậy, đối với ĐCS Việt Nam, cần phải khẳng định con đường trở
thành đảng cầm quyền ở nước ta là hoàn toàn chính đáng. Dựa vào khuôn khổ
lý thuyết để khảo sát tính chính đáng trong cầm quyền của ĐCS Việt Nam
22
trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 để khẳng định những tư duy chính
trị, phương thức cầm quyền, hiệu quả trong lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đã
tạo được niềm tin gần như tuyệt đối của đại bộ phận nhân dân để họ đi theo
sự lãnh đạo của Đảng nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thông
qua đó, khẳng định tính chính đáng trong thời kỳ này của Đảng là rất cao.
Giai đoạn từ 1975 đến nay. Nếu như chia theo cách thông thường (giai
đoạn từ 1975 đến 1986 và từ 1986 đến nay), không dễ để nhìn nhận hết những
sự biến chuyển trong ba yếu tố cơ bản: về hệ giá trị, về thủ tục và về hiệu
quả cùng với những biến chuyển của đời sống chính trị. Tuy nhiên, luận án đã
cố gắng nhìn nhận một cách khách quan dựa trên cơ sở lý thuyết ở chương 2
để phân tích, chỉ ra được những biến chuyển của các yếu tố để thấy được
những tồn tại và những đạt được trong xây dựng tính chính đáng của Đảng qua
hai giai đoạn chủ yếu.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số đảng trên thế giới, chúng ta thấy
ba yếu tố tạo nên tính chính đáng trong cầm quyền cũng được thể hiện cùng
với các thăng trầm trong suốt quá trình giành, giữ, đánh mất quyền lực của
nhiều đảng chính trị trên thế giới. Qua việc nghiên cứu này, chúng ta cũng rút ra
được một số bài học bổ ích cho xây dựng tính chính đáng của Đảng ta hiện nay
và thời gian tới.
Chương 4
NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH CHÍNH
ĐÁNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG DUY TRÌ TÍNH CHÍNH ĐÁNG TRONG
CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Nhóm hạn chế trong củng cố, xây dựng hệ giá trị của Đảng
4.1.1.1. Công tác phát triển và bổ sung hệ tư tưởng mang tính nền tảng
của Đảng còn chậm
4.1.1.2. Tính chính đáng của một số quyết sách chính trị của Đảng chưa
cao
4.1.2. Những hạn chế về tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng