VÌ SAO TÔI THẤT NGHIỆP
CON ĐƯỜNG NÀO CHO TÔI?
Nhóm biên soạn
Mai Huỳnh – Nguyễn Thị Hợp – Ngô Thị Hoa –
Đỗ Thị Huyền – Nguyễn Thị Trúc Huệ Nguyễn Thị Mỹ Hương
– Đặng Thị Bích Hòa – Nguyễn Văn Nghĩa
Trường Đại Học Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí
Minh Khoa Xuất Bản
Lớp: Kinh Doanh Xuất Bản Phẩm 6B
Tháng 12, năm 2014
Mục
Lục
LỜI GIỚI THIỆU.................................................................................................................................4
NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ THẤT NGHIỆP
........................................................................................
6
CHƯƠNG 1: NHÌN NHẬN VỀ THỰC TRẠNG
...............................................................................
9
CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN DO ĐÂU
.......................................................................................
18
Cơ Chế Đào Tạo Ngành Không Phù Hợp
......................................................................................
19
Chương Trình Đào Tạo Còn Lạc Hậu
...........................................................................................
19
Chưa Chú Trọng Hướng Nghiệp
...................................................................................................
22
Ảnh Hưởng Của Nền Kinh Tế Xã Hội
........................................................................................
24
Về Phía Bản Thân Sinh Viên và Gia Đình
.....................................................................................
25
Thiếu Kỹ Năng Mềm
.....................................................................................................................
27
Không Chủ Động Học Ngoại Ngữ, Tin Học
.................................................................................
29
Chính Sách Phát Triển Của Nhà Nước Chưa Hiệu Quả
...............................................................
30
Bị Động Khi Tìm Việc
...................................................................................................................
32
Dựa Dẫm Vào Mạng Internet Thái Quá
.........................................................................................
33
Sinh Viên Không Biết Thiết Lập Mạng Lưới Quan Hệ
...............................................................
34
Sơ Yếu Lý Lịch Không Ấn Tượng
.................................................................................................
34
Xem Thường Buổi Phỏng Vấn
......................................................................................................
35
Không Có Kinh Nghiệm Làm Việc Thực Tế
.................................................................................
35
Không Biết Cách Tìm Kiếm Thông Tin Và PR Hình Ảnh
.............................................................
37
CHƯƠNG 3: HƯỚNG GIẢI QUYẾT CHO VẤN ĐỀ VIỆC LÀM.................................................39
Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Tính Thiết Thực
.......................................................................
39
Thông Báo, Cập Nhật Thông Tin Về Nhu Cầu Nhân Lực
...........................................................
39
Sự Quan Tâm, Giải Quyết Của Cơ Quan, Nhà Nước
...................................................................
40
Trau Dồi Tiếng Anh Và Các Ngoại Ngữ Khác
..............................................................................
40
Hiểu Biết Về Tin Học
....................................................................................................................
42
Kĩ Năng Thực Hành
........................................................................................................................
43
Sự Tự Tin Và Không Ngại Khó
.....................................................................................................
44
Trang Bị, Rèn Luyện Các Kỹ Năng Mềm
......................................................................................
44
Xác Định Mục Tiêu Học Tập, Rèn Luyện Nhân Cách
..................................................................
46
Làm Thêm Hợp Lý
..........................................................................................................................
48
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN...............................................................................................................52
LỜI GIỚI THIỆU
“Sinh viên tốt nghiệp loại giỏi vẫn chƣa có việc làm”, “sinh viên
tốt nghiệp đại học đi đâu, về đâu?”, “thạc sĩ giỏi đi làm phụ hồ”... Những
từ này được dùng để mô tả cho vấn đề nóng đang được sinh viên, nhà trường
và xã hội trăn trở, quan tâm – vấn đề việc làm của sinh viên. Trong thời kỳ
bao cấp, tỷ lệ học Đại Học, Cao Đẳng…số lượng sinh viên còn rất ít và
những sinh viên ra trường là những người có năng lực thực sự nên tình trạng
thất nghiệp hầu như không có.Tuy nhiên, trong thời kỳ kinh tế thị trường mở
cửa hiện nay, các trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề mọc lên ngày càng
nhiều, đào tạo tràn lan kém chất lượng, không phù hợp với nhu cầu lao động
hiện tại đã dẫn đến tình trạng “ thừa thầy, thiếu thợ”.
Học Đại Học Cao Đẳng được xem là lựa chọn ưu tiên hàng đầu của
các bậc phụ huynh muốn con em mình hướng đến, là con đường mang đến
thành công cho con em. Nhưng hiện nay, trước tình trạng nhiều sinh viên sau
4 5 năm bỏ công sức, tiền bạc và thời gian học lại thất nghiệp hay không có
công việc thích hợp với khả năng, sở thích của các em. Hầu hết sinh viên đã
tốt nghiệp hay các em vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường đều mơ ước có một
việc làm đúng với ngành nghề đào tạo đáp ứng đúng niềm đam mê, sở thích
góp phần khẳng định bản thân, tạo thu nhập cho cuộc sống hàng ngày. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc các sinh viên ra trường không có việc làm, làm trái
ngành đã trở thành một việc quá quen thuộc đối với tình trạng việc làm của
sinh viên Việt Nam hiện nay.
Nước ta có trên 500 trường đại học, cao đẳngvới tỷ lệ sinh viên tốt
nghiệp ra trường mỗi năm rất cao. Nhiều sinh viên dù đang ngồi trên ghế
giảng đường nhưng hết sức lo lắng về tình hình thất nghiệp. Theo báo cáo
điều tra lao
động, hiện nay, cả nước có 72.000 người thất nghiệp và 1,3 triệu người
thiếu việc làm. Hơn 60% sinh viên ra trường không có việc làm hoặc phải
làm những công việc tạm thời, không đúng với chuyên ngành. Theo báo cáo
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, con số này gấp 1,7 lần so với cuối
năm 2012. Thực trạng này tạo nên những tâm lý tiêu cực cho nhiều sinh viên,
thậm chí cả những học sinh chuẩn bị tốt nghiệp đại học cũng mang tâm lý lo
lắng luôn đặt câu hỏi: Kết quả học tập sẽ như thế nào? Ra trường sẽ đi đâu
về đâu?
Vậy đâu là nguyên nhân cốt lõi gây nên tình thất nghiệp đối với sinh
viên nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung? Mỗi sinh viên cần làm
gì? Chính sách nhà nước như thế nào để giải quyết vấn đề này? Quyển sách
“Vì Sao Tôi Thất Nghiệp – Con Đƣờng Nào Cho Tôi”sẽ giúp mỗi cá nhân
có cách nhìn toàn diện các mặt của vấn đề nan giải này. Quyển sách bao gồm
4 chương nêu rõ những thực trạng, các nguyên nhân khách quan và chủ quan
dẫn đến tình trạng thất nghiệp trong sinh viên như: thiếu kỹ năng mềm, ngại
học ngoại ngữ, thiếu kinh nghiệm chuyên môn... hay từ chính phương pháp
học tập và giảng dạy trong môi trường Đại Học Cao Đẳng hiện nay. Với
cách trình bày chi tiết, cụ thể các nguyên nhân cũng như những giải pháp
thiết thực đầy thu hút và sinh động với nhiều hình ảnh, Clip minh họa sẽ giúp
bạn đọc dễ dàng nhận thức được vấn đề cốt lõi.Quyển sách sẽ là nền tảng
góp phần định hướng, tạo động lực niềm tin cho những người vừa tốt nghiệp
Đại Học, Cao Đẳng cũng như góp phần định hướng tư tưởng giúp các em
sinh viên còn ngồi trên giảng đường hiểu rõ vấn đề và xây dựng tính tích cực,
cố gắng trao dồi và hoàn thiện các kỹ năng cần thiết khi còn có nhiều thời
gian, tránh lãng phí tuổi trẻ tươi đẹp và năng động .
NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ THẤT NGHIỆP
„‟Thất nghiệp‟‟được coi là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên do ảnh hưởng của ý thức hệ và nhận thức xã hội nên vấn
đề thất nghiệp, đặc biệt là nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp được các nhà
kinh tế lý giải rất khác nhau. Người đầu tiên nghiên cứu về thất nghiệp là
William Petty. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương nên William Petty
cho rằng để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải đẩy mạnh xuất khẩu ra
bên ngoài để thu hút lực lượng dân cư thừa trong xã hội (đây cũng là một
trong những nguyên nhân để các nước tư bản mở rộng thuộc địa). Tuy nhiên
Adam Smith mới là người nghiên cứu một cách có hệ thống về việc làm và
thất nghiệp, những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo,
Adam Smith khẳng định rằng nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không
thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Adam Smith cho rằng do vi ệc s ử
dụng máy móc đã gạt bớt công nhân ra khỏi quá trình sản xuất; đồng thời sự
biến động của sản xuất làm cho công việc của người lao động trở nên bấp
bênh, dễ bị thất nghiệp. Ngoài ra do sự tích tụ tư bản trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, nên những người sản xuất nhỏ dễ bị phá sản,
làm tăng đội quân thất nghiệp. A. Smith còn cho rằng sự can thiệp quá mức
của nhà nước làm cản trở việc di chuyển của người lao động giữa các ngành
trong thị trường lao động, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm, tăng
thêm tình trạng thất nghiệp. Sau Adam Smith và Ricardo, nhà kinh tế học
Keynes đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân tích cung cầu
về lao động trong thị trường và các mối quan hệ kinh tế, xã hội khác. Keynes
thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tượng độc lập của
đời sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc
đạt được cân bằng của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn
tại dưới
dạng “bắt buộc”, là một trạng thái mà trong đó “tổng cung về lao động của
những người lao động muốn làm việc, thì tại mức tiền lương danh nghĩa đó
đều lớn hơn khối lượng việc làm hiện có”. Do thiếu cầu có khả năng thanh
toán nên có nhiều người không có việc làm. Ông định nghĩa thất nghiệp như
sau: “Những ngƣời đƣợc coi là thất nghiệp bắt buộc, nếu mỗi khi giá
cả hàng hoá mua bằng tiền công tăng lên đôi chút so với tiền lƣơng danh
nghĩa, thì tổng cung của những ngƣời lao động muốn làm việc, thì tại
mức tiền công danh nghĩa đó và tổng cầu về lao động tại mức tiền
lƣơng danh nghĩa đó đều lớn hơn việc làm hiện có”. Từ đó ông cho rằng
để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo ra nhiều chỗ làm việc trên cơ sở tăng
đầu tư cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn những phiến diện và
hạn chế của lịch sử nhưng những luận điểm mà ông nêu ra vẫn còn có ý
nghĩa đến ngày nay.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao, các lý thuyết về việc
làm và thất nghiệp của Keynes và các nhà kinh tế học trước đó đã tỏ ra bất
lực trước tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng mà các biện pháp nêu
trong các lý thuyết của họ đã không khắc phục được. Nhiều nhà kinh tế học
đã đưa ra những lý thuyết mới về thất nghiệp, phân tích các nguyên nhân và
các tác động kinh tế và tác động xã hội của thất nghiệp. Một trong số các nhà
kinh tế đưa ra lý thuyết mới về thất nghiệp đó là Samuelson nhà kinh tế học
người Mỹ. Samuelson đã phân tích cungcầu về lao động để thấy rõ bản chất
của thất nghiệp. Từ đó ông đã phân ra một số dạng thất nghiệp như:
Thất nghiệp tự nguyện: Là những người lao động có nhu cầu làm
việc nhưng lại không muốn làm việc với mức lương thịnh hành trên thị
trường lúc đó.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là những người không có việc làm,
muốn làm việc với mức lương đang thịnh hành nhưng không thể tìm được
việc làm do cầu về lao động thấp.
Sau khi phân tích những biến động của thị trường lao động và các biến
động của nền kinh tế, Samuelson còn phân ra 3 loại thất nghiệp, đó là:
Thất nghiệp tạm thời: Là dạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn
khác nhau của cuộc sống. Ông cho rằng trong một nền kinh tế có đầy đủ
việc làm, nhưng vẫn có thể luôn có một bộ phận người lao động di chuyển
từ nơi này sang nơi khác do nhu cầu của cuộc sống và chưa thể có việc làm
ngay.
Thất nghiệp có tính cơ cấu: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi có sự
mất cân đối giữa cung và cầu lao động. Trong một nền kinh tế biến động,
cầu về một loại lao động nào đó tăng lên, trong khi mức cầu về một loại lao
động khác lại giảm đi, nhưng mức cung lao động lại không được điều chỉnh
đồng thời nên xảy ra tình trạng thất nghiệp cơ cấu.
Thất nghiệp chu kỳ: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung
về lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm, thất nghiệp sẽ tăng
lên ở khắp mọi nơi trong toàn bộ nền kinh tế. Khác với thất nghiệp tạm thời
và thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp chu kỳ phản ánh sự rệu rã, suy thoái của
một nền kinh tế.
Thất nghiệp được định nghĩa trong Công ước Bảo hiểm xã hội (tiêu
chuẩn tối thiểu) số 102, năm 1952 là: “sự ngừng thu nhập do không có khả
năng tìm đƣợc một việc làm thích hợp trong trƣờng hợp ngƣời đó có
khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”. Công ước số 168, năm 1988 đã bổ
sung thêm “tích cực tìm kiếm việc làm”
Các lý thuyết về thất nghiệp tuy từ các cách tiếp cận khác nhau nhưng
đều cho thấy một điều cơ bản đó là trong một nền kinh tế hoàn hảo thì vẫn
có một bộ phận người lao động không có việc làm, nhưng không tìm được
việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào khả năng
giải quyết việc làm của các chính phủ và sự đấu tranh của giai cấp công nhân
đối với giới chủ.
Thất nghiệp được coi là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Thất
nghiệp và lạm phát là hai vấn đề nan giải nhất của các quốc gia trong nền
kinh tế thị trường, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự ổn định kinh
tế chính trị xã hội của từng nước. Vì vậy, chính phủ các nước thường
xuyên có các đối sách để giải quyết hai vấn đề này tuỳ thuộc vào điều kiện
của mình trong từng giai đoạn. Theo nhà kinh tế học William Beverigde, thất
nghiệp không phải là căn bệnh, nhưng nó là triệu chứng của một hoặc một
vài căn bệnh của nền kinh tế, có thể ví như một cơn sốt của con người bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Do thất nghiệp xảy ra đối với từng
người nên có ảnh hưởng rất lớn đến chính bản thân và gia đình họ. Mặt khác
thất nghiệp của số lớn các cá nhân cũng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đối với xã
hội.
CHƯƠNG 1: NHÌN NHẬN VỀ THỰC TRẠNG
Việc làm sau khi tốt nghiệp luôn là vấn đề bức xúc không chỉ đối với
bản thân sinh viên mà cả đối với gia đình, nhà trường và xã hội. Có một việc
làm đúng với ngành nghề đào tạo luôn là mơ ước của hầu hết không chỉ đối
với các sinh viên tốt nghiệp ra trường mà ngay cả đối với các em còn ngồi
trên ghế giảng đường Đại Học. Mỗi mùa tuyển sinh cận kề thì việc chọn
trường, chọn nghề luôn là điều băn khoăn lớn của nhiều bạn trẻ. Và trở
thành tân sinh viên của các trường Đại Học chính là ước mơ mà các bạn luôn
cố gắng, nỗ lực hết mình để hướng tới. Tuy nhiên, sau 4 5 năm (thậm chí
còn lâu hơn nữa) “dùi mài kinh sử”, khi chuẩn bị hành trang bước vào cuộc
sống thì không ít trong số họ băn khoăn câu hỏi:“ đi đâu, về đâu? ”. Chưa kịp
mừng vui vì dứt được gánh nặng học hành, bước vào vòng xoay cơm áo gạo
tiền, nhiều cựu sinh viên lại phải đối mặt với nỗi lo mới : „‟thất nghiệp‟‟.
Thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải đối với sự phát triển kinh tế, nền kinh tế
muốn phát triển toàn diện và hiệu quả cần giải quyết tốt các vấn đề ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế,
đặc biệt là vấn đề thất nghiệp. Đây là vấn đề chung khiến cả thế giới phải
đau đầu.
Theo các nhà xã hội học, tình trạng thất nghiệp không chỉ được thể
hiện dưới dạng người trong độ tuổi lao động không có việc làm mà phải nhìn
nhận dưới nhiều góc độ như: công việc không đúng chuyên môn, làm một lúc
nhiều việc nhưng không chịu trách nhiệm cụ thể, làm đúng chuyên môn
nhưng không được bàn giao công việc cụ thể,....
Thực tế, tỷ lệ sinh viên ra trường làm đúng ngành nghề đào tạo không
được xác định rõ ràng, nhưng nếu nhìn vào các cơ quan, doanh nghiệp sẽ dễ
dàng nhận thấy công việc họ đang làm khác xa với những gì học trên giảng
đường. Bên cạnh đó, tình trạng không có việc làm của sinh viên sau khi ra
trường hiện nay là rất cao và đáng báo động.
Hiện nay, hầu hết sinh viên khi ra trường, nhất là các sinh viên học tại
các thành phố lớn, đều bắt đầu đôn đáo kiếm một công việc tạm thời nào đó
để làm lấy tiền trụ lại thành phố rồi xin việc ổn định sau, mà không phải xin
tiền bố mẹ. Các công việc mà họ làm đa phần là không cần đến bằng cấp
như: Bưng bê tại
các quán cafe, quán ăn hay làm nhân viên trực nghe điện thoại, làm gia sư…
Chỉ là những công việc đơn giản như thế, lương không đủ ăn nhưng để xin
được một chỗ làm ổn định cũng không phải dễ dàng gì.Trong bối cảnh hiện
nay, trường hợp sinh viên tốt nghiệp ra trường phải làm trái ngành những
công việc không liên quan đến trình độ, bằng cấp đã không còn là chuyện
hiếm. Sẽ không quá khó để bắt gặp những hình ảnh sinh viên bán trà đá vỉa
hè, đi tiếp thị sản phẩm hay làm bảo vệ, phục vụ tại các quán bar, nhà
hàng… Thậm chí, nhiều người còn chấp nhận phải đi làm công nhân trong
các xí nghiệp, nhà máy với công việc nặng nề, vất vả trong khi đồng lương
lại quá eo hẹp và chật vật. Khi không xin được việc làm ổn định trong khi
vẫn phải bắt buộc đảm bảo cho nhu cầu của cuộc sống thì không thể có con
đường nào khả thi hơn là việc họ chấp nhận làm trái ngành.
Thậm chí đáng buồn hơn, có những bạn tốt nghiệp đại học với tấm
bằng loại ưu nhưng do cơ hội chưa đến hoặc ngành nghề mình học không
được “hot” vào thời điểm đó thì vẫn phải chấp nhận tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều bạn trẻ ý thức được rằng, dù không làm đúng
chuyên ngành được
đào tạo, vẫn cố gắng tìm công việc phù hợp để kiếm thêm thu nhập, nuôi
sống bản thân thì vẫn có không ít người cảm thấy xấu hổ khi bản thân tốt
nghiệp một trường đại học danh tiếng mà phải đi làm những công việc bình
dân.
Do mang nặng tư tưởng đó nên nhiều bạn trẻ sau khi tốt nghiệp vẫn
sống dựa dẫm vào gia đình, đều đặn hàng tháng nhận tiền của bố mẹ gửi
cho. Và rồi không ít trong số đó, sau một thời gian không thể tìm được việc
làm ưng ý lại quyết định tìm đường học tiếp lên cao học. Đó dường như là
sự lựa chọn tối ưu, có thể một lúc giải quyết được nhiều vấn đề: Không bị
coi là thất nghiệp, vẫn được ở lại thành phố lớn chứ không phải về quê và
hàng tháng vẫn được bố mẹ đều đặn chu cấp tiền ăn học…
“Đây là một chiều hướng đáng lo ngại. Nhiệm vụ tăng cường hệ
thống an sinh xã hội và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang việc làm chính
thức là rất cần thiết, giúp hỗ trợ giảm nghèo, tăng cầu trong nước và tăng
trưởng kinh tế”Giám đốc ILO Việt Nam Gyorgy Sziraczki nhận định.
Tình trạng ấy không chỉ xảy ra với các sinh viên có bằng loại khá,
trung bình khá mà thậm chí cả những sinh viên ra trường với tấm bằng loại
giỏi vẫn
loay hoay không biết phải đi đâu, về đâu trong tình trạng ở các công ty, các cơ
quan lúc nào cũng chồng đống những xấp hồ sơ xin việc. Nên có không ít bạn
sinh viên sau khi học xong Cao đẳng hay Đại học do không xin được việc đã
chọn giải pháp là học tiếp, học liên thông hay học văn bằng hai để lại được
bố mẹ nuôi như tâm sự của một số bạn sinh viên: “Mình chán cảnh phải ngồi
chầu chực xin việc ở các trung tâm mà cuối cùng lại về không nên mình đã
bảo bố mẹ rồi, mình sẽ học lên Cao học. Hy vọng với tấm bằng thạc sĩ thì
ra trường sẽ suôn sẻ hơn”.
Cũng có nhiều sinh viên ra trường đã tìm được việc làm sau một vài
tháng đầu vật lộn nhưng hầu hết trong số họ không mấy ai được làm công
việc theo đúng chuyên nghành mình đã học mà hầu hết là xin việc trái ngành,
nghề. Và để xin được những công việc khác này, sinh viên phải học thêm
nhiều kiến thức có thể khác rất xa chuyên môn đã học.
Rất nhiều trung tâm tuyển dụng việc làm lợi dụng các sinh viên mới ra
trường để lừa bịp bằng các chiêu nộp hồ sơ cộng với tiền phí xin việc để rồi
công việc thì chẳng thấy đâu, nhiều sinh viên mới ra trường do thiếu hiểu
biết nên vừa bị lừa mất tiền, lại mất cả công sức lẫn thời gian làm việc
không công cho một công ty nào đó.
Hiện nay, ngành được thị trường lao động “khát” chủ yếu là kế toán,
kinh doanh, chuyên viên công nghệ thông tin và một số nghề mới nổi như PR,
marketing… Thực tế, không riêng ngành xã hội vốn bị coi là ít cơ hội việc
làm, mà ngay cả những ngành đang cần lao động nêu trên vẫn rơi vào tình
trạng không tuyển dụng được nhân lực theo yêu cầu.
Theo báo cáo vê tình hình kinh tếxã hội 9 tháng năm 2014 của Tổng
Cục thống kê vừa công bố, tỷ lệ thất nghiệp của lao động chỉ là 2,12%. Nếu
như quý II/2014, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 1,84%, thì đến
quý III/2014 tỷ lệ này ở mức 2,17%, tăng 0,33% so với quý trước. Một con số
khác cũng đáng chú ý, trong quý IV/2013 lao động có trình độ đại học
thất nghiệp là
người, đến quý II/2014, con số này tăng lên mức 147.000 người và đến
72.0
quý III/2014 là 174.000 người. Điều này cho thấy, tình trạng lao động có trình
độ đại học thất nghiệp không giảm, trái lại còn tăng lên. Trong đó tỷ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị là 3,51% và tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là
1,56%.
Tỷ lệ có việc làm đúng chuyên ngành của sinh viên khối tự nhiên là
khoảng 60%, còn các trường thuộc khối xã hội thấp hơn nhiều. Một nghiên
cứu gần đây cho thấy cứ 100 sinh viên khối xã hội mới tốt nghiệp ra trường
chỉ có khoảng 10 người tìm được công việc đúng chuyên môn. Số còn lại làm
những công việc khác để lo cho cuộc sống và chờ cơ hội. Những con số trên
đã phản ánh khá rõ những khó khăn trong tìm kiếm việc làm của giới trẻ.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chung thấp nhưng tỷ lệ thất nghiệp của
thanh niên từ 1524 tuổi trong 9 tháng lại cao gấp 3 lần, lên tới 6,31%. Tỷ lệ
thất
nghiệp của thanh niên có sự chênh lệch rõ ràng giữa khu vực thành thị
(11,71%) và khu vực nông thôn (4,1%).
Bảng thống kê tỉ lệ lao động trẻ có bằng Đại học từ năm 1989 đến năm 2014
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế 9 tháng
năm nay ước tính 53,4 triệu người, tăng 642.900 người so với cùng kỳ năm
trước, trong đó lao động trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm 47%, lao động công nghiệp chiếm 21,1%, lao động dịch vụ chiếm
31,9%.