Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Hán Nôm: Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu nguyên tạp vịnh thảo của Lý Văn Phức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.59 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ MAI HƢƠNG

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TÁC PHẨM
CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO CỦA LÝ VĂN PHỨC

Ngành: Hán Nôm
Mã số: 9.22.01.04

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI - 2018


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh
2. Vƣơng Thị Hƣờng

Phản biện 1: PGS.TS Hà Văn Minh
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh
Phản biện 3: PGS. TS Nguyễn Tá Nhí

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp
tại Học viện Khoa học Xã hội
vào hồi


giờ

phút, ngày

tháng

năm 2018.

Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong lịch sử bang giao, Việt Nam và Trung Hoa đã xây dựng một
mối quan hệ lâu dài. Nghiên cứu các tư liệu Hán Nôm để hiểu thêm các vấn đề
như triều cống, sách phong, giao lưu văn hóa, kinh tế và sự nhu cương khôn
khéo trong mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa là việc làm cần thiết.
1.2. Lý Văn Phức 李文馥 (1785-1849) là một vị quan ngoại giao xuất
sắc của triều Nguyễn, và là một tác gia văn học. Các nhà nghiên cứu đã
quan tâm đến hành trạng, làm quan đi sứ, hệ thống các tác phẩm gắn với
những chuyến đi sứ, nghiên cứu mối quan hệ bang giao Việt Nam và Trung
Hoa thế kỉ XIX; và hình ảnh đất nước, con người Trung Hoa qua mắt nhìn
của Lý Văn Phức từ khá sớm. Tuy nhiên đóng góp này so với số lượng thơ
văn sứ trình của ông hiện quả là chưa tương xứng.
1.3. Chu Nguyên tạp vịnh thảo (CNTVT) 周原雜詠 là tập thơ được
sáng tác trong chuyến đi sứ tới Yên Kinh (1841). Tác phẩm vừa là sự nối
tiếp mạch thơ con đường đi sứ của các sứ thần ta từ buổi đầu dựng nước,

vừa có tính chất kết thúc sự nghiệp thơ ca sứ trình của Lý Văn Phức. Đến
nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về tình hình
văn bản, cũng như về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Luận án
sẽ tiến hành nghiên cứu để khỏa lấp những mảng còn thiếu đó.
1.4. Trong thời đại hội nhập, đối thoại và giao lưu quốc tế rộng mở như
hiện nay, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm càng trở nên cấp
thiết. Thời cuộc mới yêu cầu những người nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm
tiếp tục nghiên cứu văn bản, dịch thuật và công bố những phần còn lại của di
sản này. Thực hiện các nghiên cứu về văn bản tác phẩm CNTVT, luận án cố
gắng góp phần thực hiện nhiện vụ này của ngành Hán Nôm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích


2
Luận án hướng đến cái nhìn toàn diện về chuyến đi sứ Yên Kinh năm
1841 của Lý Văn Phức và nghiên cứu văn bản học văn bản tác phẩm
CNTVT. Trên cơ sở đó, tiến hành xác lập thế hệ bản sao, xác định bản đáng
tin cậy (thiện bản) và nghiên cứu giá trị tác phẩm CNTVT trên các phương
diện nội dung và nghệ thuật.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp trước tác của
Lý Văn Phức; đặc biệt là những nghiên cứu về tác phẩm CNTVT của các
nhà nghiên cứu đi trước.
- Sưu tầm tư liệu liên quan đến chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn
Phức, nhằm làm sáng rõ hơn về chuyến đi ngoại giao cuối cùng của ông.
- Sưu tầm, khảo sát, hệ thống hóa các văn bản tác phẩm CNTVT. Từ đó
tiến hành đối chiếu so sánh và xác lập thế hệ bản sao, xác định bản tin cậy
(thiện bản) của tác phẩm.

- Nghiên cứu giá trị thơ văn của Lý Văn Phức qua tác phẩm CNTVT
trên hai phương diện là nội dung và nghệ thuật.
- Dịch thơ, văn tác phẩm CNTVT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
14 văn bản của tác phẩm CNTVT hiện còn lưu giữ tại Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bao quát tình hình bang giao triều Nguyễn và triều Thanh, trong đó có
những chuyến đi sứ, đi công cán của Lý Văn Phức, đặc biệt là chuyến đi sứ
năm 1841 của ông. Tập trung khảo sát những vấn đề văn bản học của 14
văn bản tác phẩm CNTVT hiện lưu giữ tại Hà Nội và xác định bản tin cậy
để phiên dịch và công bố. Từ đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá và nêu lên
những giá trị tác phẩm CNTVT trong dòng thơ đi sứ thế kỷ XIX và thơ đi sứ
trung đại Việt Nam.


3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu tầm,
bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, văn bản học, văn hóa học, văn tự học và
nghiên cứu liên ngành đã được vận dụng lý thuyết nghiên cứu khoa học trong
từng chương của luận án.
Kế thừa thành quả nghiên cứu từ các công trình đi trước của giới nghiên cứu
trong và ngoài nước được công bố có liên quan đến đề tài, chúng tôi tập trung
khai thác sâu đặc điểm thân thế, sự nghiệp, trước tác của Lý Văn Phúc, đặc biệt là
chuyến đi sứ cuối cùng vào năm 1841 và tác phẩm CNTVT.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: văn bản học Hán Nôm, thông diễn học (thuyên thích học),
nghiên cứu văn học sử, nghiên cứu liên ngành.
Luận án còn sử dụng các thao tác phân tích tổng hợp, định lượng với
mục tiêu tổng thuật tình hình nghiên cứu về tác giả Lý Văn Phức và nhóm
văn bản CNTVT.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn Phức được nghiên cứu trong mối
quan hệ bang giao triều Nguyễn và triều Thanh. Đây cũng là cơ sở cho việc
tìm hiểu bối cảnh ra đời tác phẩm CNTVT.
- Các dị bản CNTVT ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia
và Viện Văn học được mô tả, khảo sát và đánh giá kĩ lưỡng về văn bản học.
- Từ những kết quả khảo sát văn bản, luận án nêu lên vấn đề thế hệ bản
sao cho 14 văn bản CNTVT hiện tồn, tiến hành biện ngụy cho các trường


4
hợp dị văn trong các dị bản tác phẩm CNTVT. Từ đó xác định bản tin cậy
(thiện bản) cho tác phẩm CNTVT.
- Nghiên cứu đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
CNTVT.
- Biên dịch 1 bài tựa và 62 bài thơ trong tác phẩm CNTVT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Tìm hiểu tác phẩm đi sứ của một sứ thần nổi tiếng triều Nguyễn có ý
nghĩa thực tiễn đối với công tác ngoại giao ngày nay, việc làm này đưa ra
những bài học bổ ích như sự kết hợp nhu cương, ý thức tinh thần dân tộc
được thể hiện trong chính sách ngoại giao .
- Nghiên cứu văn bản và tác phẩm một tập thơ văn đi sứ viết bằng
chữ Hán có ý nghĩa xã hội hóa tư liệu Hán Nôm trong đời sống văn hóa

hiện nay. Hơn nữa trong việc cung cấp tư liệu và giảng dạy thơ văn đi sứ
thời trung đại ở trường phổ thông hay bậc đại học hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Luận án có kết cấu 4 chương.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp và trước tác của Lý Văn
Phức
1.1.1.1. Các công trình biên mục, thư mục
Các bộ sử triều Nguyễn đều có ghi chép những sự kiện trong cuộc
đời làm quan ngoại giao của Lý Văn Phức. Những bộ quốc sử đều là những
tài liệu đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp làm quan nhiều thăng giáng mà
không ít thành tựu của Lý Văn Phức.


5
Nhiều công trình thư mục tổng kết sự nghiệp sáng tác của Lý Văn
Phức. Trong đó, Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (1993) là
danh mục tương đối đầy đủ, chi tiết về các trước tác của Lý Văn Phức. Việt
Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành 越 南 漢 文 燕 行 文 献 集 成.
Bộ sách này có giới thiệu văn bản của Lý Văn Phức. Ngoài ra, còn có các
tác phẩm như: Từ điển văn học (Bộ mới), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán
Nôm Việt Nam, v.v...
1.1.1.2. Sách chuyên khảo, luận án
Tính đến nay số lượng sách chuyên khảo, luận án nghiên cứu về Lý
Văn Phức cả trong nước và ở nước ngoài đều khá nhiều.
Trong nước, sớm nhất là cuốn sách Lý Văn Phức: Tiểu sử - Văn
chương của Dương Quảng Hàm. Sau đó là công trình Lý Văn Phức, Hoa

Bằng biên soạn năm 1953, là chuyên khảo công phu. Năm 2009, có luận án
tiến sĩ Nghiên cứu Lý Văn Phức và “Tây hành kiến văn kỷ lược” của tác giả
Nguyễn Thị Ngân chuyên ngành Hán Nôm. Ở nước ngoài, Trần Ích Nguyên
là một chuyên gia về Lý Văn Phức, tác giả của cuốn sách Việt Nam Hán
tịch văn hiến thuật luận.
1.1.1.3. Các bài tạp chí và kỷ yếu hội thảo
Theo trình tự thời gian, chúng tôi điểm lại những bài viết công bố trên
tạp chí và các kỷ yếu hội thảo nghiên cứu về Lý Văn Phức.
Năm 1981, tác giả Nguyễn Đổng Chi trong bài viết “Lý Văn Phức, cây
bút luận chiến ngoại giao cứng cỏi” [82, tr. 530] khẳng định Lý Văn Phức
là vị sứ thần, “không làm nhục sứ mệnh”, một nhà văn tài hoa đầy dũng khí
và lòng tự trọng.
Năm 1988, Nguyễn Đăng Na có bài viết “Tây hành kiến văn kỷ lược
của Lý Văn Phức” được đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới. Đến năm 2001,
bài viết có bổ sung, dịch mục Châu thuyền và phần Phụ lục in trong Văn
xuôi Việt Nam thời trung đại.


6
Năm 1992, Dương Thị The trong bài viết “Sứ trình tiện lãm khúc - tác
phẩm thơ chữ Nôm của Lý Văn Phức” trên Tạp chí Hán Nôm đã chọn văn
bản VHv.217 làm bản nền, và phiên âm, chú thích một số trích đoạn.
Năm 2004, Nguyễn Thị Ngân có bài viết “Dòng họ Lý Văn Phức qua
Lý thị gia phải” trên Thông báo Hán Nôm học.
Năm 2007 hàng loạt các hội thảo liên quan đến Lý Văn Phức và các
tác phẩm của ông được tổ chức, nhiều bài nghiên cứu được công bố. Đó là
các bài viết của tác giả Nguyễn Thị Ngân và Trần Ích Nguyên.
Năm 2012, tại hội thảo Hội thảo về văn hóa Mân được tổ chức tại Đài
Loan, Trịnh Khắc Mạnh đã có bài tham luận “Lý Văn Phức (1785 - 1849)
và tác phẩm Mân hành”.

Năm 2017, hai bài viết về sự nghiệp trước tác của Lý Văn Phức được
công bố trên tạp chí Nghiên cứu văn học có nhiều đóng góp mới trong
nghiên cưu. Thứ nhất, bài “Sự nghiệp trước thuật của Lý Văn Phức” số
tháng 2 năm 2017 của Phạm Văn Ánh. Thứ hai là Trần Hải Yến với bài
“Nhìn lại việc phiên âm các tác phẩm Nôm của Lý Văn Phức và việc lưu
truyền các phiên bản quốc gữ của chúng từ đầu thế kỉ XX đến nay”. .
1.1.1.4. Biên dịch tác phẩm của Lý Văn Phức
Biên dịch các tác phẩm của Lý Văn Phức được tiến hành khá sớm, và
với các tác phẩm bằng chữ Nôm trước. Theo trình tự thời gian, các công
trình biên dịch cụ thể như sau:
Theo biên mục Thư viện Quốc gia còn lưu bản sớm nhất của Nhị độ
mai vãn vào năm 1905. Đây là bản in lần thứ ba nên bản in lần đầu còn có
niên đại sớm hơn nữa.
Năm 1919, trên Tạp chí Nam Phong giới thiệu ba tác phẩm của Lý
Văn Phức: Bất phong lưu truyện, Hồi chu trở phong thán, Tự thuật ký. Sau
này, Dương Quảng Hàm đã dịch, giới thiệu trọn vẹn bài Tự thuật ký, có chú
giải khá chi tiết, và giới thiệu Nằm váng, khóc măng trong Nhị thập tứ hiếu
diễn âm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển.


7
Năm 1962, Truyện Tây sương được Vũ Kỳ Sâm phiên âm và Phạm Trọng
Điềm chú thích trong cuốn Lý Văn Phức - Truyện Tây sương.
Năm 1972, tác phẩm Nhị độ mai được biên dịch và công bố, trong
cuốn Nhị độ mai do Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách giới thiệu.
Năm 1975, tác phẩm Ngọc Kiều Lê tân truyện được Trần Văn Giáp
phiên âm, khảo dị, chú thích trong cuốn sách cùng tên.
Năm 1993, cuốn Thơ đi sứ đã trích dẫn giới thiệu tác gia Lý Văn Phức
và một số bài thơ chữ Hán, chữ Nôm viết trong các chuyến đi hiệu lực ở
Tiểu Tây Dương năm 1830, đi công cán ở Việt Đông năm 1833 và đi sứ

Yên Kinh năm 1841.
Năm 2000, trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 16, giới thiệu Lý
Văn Phức và 4 tác phẩm: Sứ trình tiện lãm khúc, Nhị thập tứ hiếu diễn âm,
Truyện Ngọc Kiều Lê, Truyện Tây sương.
Năm 2009, tác giả Nguyễn Thị Ngân đã phiên âm, dịch nghĩa, chú toàn
bộ Tây hành kiến văn kỷ lược trong luận án Tiến sĩ Nghiên cứu Lý Văn
Phức và Tây hành kiến văn kỷ lược.
Năm 2012, Nguyễn Thị Nhung trong khóa luận Tìm hiểu “Sứ trình chí
lược thảo” đã nghiên cứu về đặc điểm văn bản, đánh giá giá trị nội dung,
hình thức và phiên âm, dịch nghĩa và chú thích toàn bộ tác phẩm này.
Ngoài ra những bài thơ, văn của Lý Văn Phức còn được dịch giới thiệu
rải rác ở một số công trình nghiên cứu về thơ văn ông.

1.1.2. Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu Nguyên tạp vịnh thảo
1.1.2.1. Khảo cứu về văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, tình hình văn bản
của tác phẩm được nói vắn tắt: đây là tập thơ, văn Lý Văn Phức làm trong
dịp đi sứ Yên Kinh Trung Quốc năm Thiệu Trị Tân Sửu (1841), tác phẩm
này hiện còn tồn tại 08 bản, chép tay, lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.


8
Trong bài viết “Sự nghiệp trước thuật của Lý Văn Phức”, Phạm Văn
Ánh đã sơ bộ khảo sát bản CNTVT ký hiệu A.304, văn bản gồm 80 bài thơ
và một số bài kí do Lý Văn Phức sáng tác. Phạm Văn Ánh đã phát hiện
thêm 1 dị bản CNTVT chép trong Hoàng Hoa tạp vịnh kí hiệu A.1308.
1.1.2.2. Tình hình biên dịch Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Chưa có công trình biên dịch trọn vẹn, tập trung vào tác phẩm CNTVT,
tuy nhiên xuất hiện trong các bài nghiên cứu hoặc công trình tuyển tập có

bài thơ văn, hoặc bộ phận bài thơ văn được dịch.
Trong cuốn chuyên luận Lý Văn Phức, Hoa Bằng trích dịch giới thiệu
một phần bài tựa Lý Văn Phức viết và bài tựa do Lê Văn Đức viết. Cũng
trong chuyên luận này, trích dịch hai bài thơ: Nguyên đán, nhị nhật, bi thuật;
Nhục thực hí thành. Trong bài viết “Văn hóa ẩm thực châu Á đầu thế kỷ
XIX dưới ngòi bút Lý Văn Phức Việt Nam” Trần Ích Nguyên cũng dịch, lại
bài thơ Nhục thực hí thành với nhan đề là Nhục thực hí trình chư đồng sự .
Năm 2015 bài tựa do Lê Văn Đức trong tập CNTVT được dịch toàn bộ,
giới thiệu trong Tuyển tập thi luận Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở nội dung về thân thế sự nghiệp,
quê quán, hành trạng. Thành tựu lớn nhất trong cuộc đời ông năm trong
khoảng từ năm 1830 đến năm 1841. Trong thời kì này, ông đi hiệu lực,
công cán, đi sứ đồng thời để lại một di sản thơ văn đồ sộ.
- Sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Phức bao gồm cả chữ Hán và chữ
Nôm, thuộc nhiều thể loại khác nhau. Điều này cho thấy bút lực dồi dào và
đa dạng. Tính đến nay bảng danh mục các tác phẩm và sơ bộ tình hình văn
bản của Lý Văn Phức do Phạm Văn Ánh cung cấp chi tiết hơn cả nhưng
cũng chưa đầy đủ.
- 14 bản CNTVT hiện tồn chưa được khảo sát định lượng số bài, đối
chiếu dị văn, so sánh các dị bản, quá trình truyền bản giữa chúng. Nghiên
cứu chỉ dừng lại ở việc trích dịch giới thiệu một bài tựa, một số bài thơ. Về


9
tác phẩm, đương nhiên do chưa được dịch, công bố cho nên chưa có công
trình nào đánh giá giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm đi sứ
này.
1.3. Định hƣớng nghiên cứu của đề tài
Dựa trên những đánh giá về tình hình nghiên cứu như trên, chúng tôi

đề xuất hướng nghiên cứu của đề tài:
- Bổ sung những thông tin về chuyến đi sứ năm 1841 của Lý Văn Phức
đến Yên Kinh Trung Quốc.
- Khảo sát tả chi tiết tình trạng của 14 văn bản CNTVT hiện tồn, xác định
thế hệ bản sao, khảo sát dị văn giữa các bản, chọn bản tin cậy để biên dịch và
công bố.
- Nghiên cứu đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm CNTVT.
1.4. Các thuật ngữ sử dụng trong luận án
1.4.1. Đi sứ, đi công cán, đi hiệu lực
Đi sứ, chỉ những phái đoàn được cử sang thực hiện sứ mệnh bang giao
như: tiến cống, cầu phong, tạ ơn, báo tang, chúc mừng … Đi công cán, là
những chuyến đi mang tính chất sự vụ như: đi mua sắm vật dụng cho triều
đình, đi truy bắt tội phạm trong nước chạy sang nước bạn, trao trả tội phạm,
hộ tống người bị bão giạt, mua hàng hóa… Đi hiệu lực, tức là đi phục dịch
để lấy công chuộc tội.
1.4.2. Thơ bang giao, thơ đi sứ
Thơ bang giao là khái niệm chỉ những bài thơ được sáng tác trong các
hoạt động bang giao giữa sứ thần các nước. Thơ đi sứ là một bộ phận của
thơ bang giao. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Bùi Duy Tân “thơ đi
sứ là những tác phẩm của các sứ thần viết ra, để bày tỏ tâm sự và miêu tả
hành trình đi sứ của mình” [86, tr 302].
1.4.3. Văn bản, tác phẩm
Văn bản, theo D.X. Likhachev thì Văn bản là một bản tin biểu đạt
bằng ngôn ngữ thể hiện ý đồ của người sáng tạo ra nó. Tác phẩm, được


10
hiểu là phải có sự thống nhất về nội dung và hình thức, thể hiện ý đồ
sáng tác.
1.4.4. Bản nền, dị bản

Bản nền, luận án đồng quan điểm với tác giả Trịnh Khắc Mạnh khi xác
định bản nền “trên thực tế để tiến hành so sánh đối chiếu các dị bản, cũng
có thể chọn bản đầy đủ làm bản nền, còn bản nền có trùng với bản cổ, hay
trùng với bản tin cậy hay không thì chỉ được xác định sau nghiên cứu phân
tích văn bản” Dị bản, chỉ những văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm”.
Tiểu kết
Chương tổng quan đã điểm lại những nghiên cứu liên quan tới đề
tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo luận án đề xuất ba nội dung
nghiên cứu bổ sung. Thứ nhất, hoàn thiện những thông tin liên quan đến
chuyến đi sứ Yên Kinh năm 1841 của tác giả. Thứ hai, bằng phương pháp
văn bản học, chúng tôi mô tả 14 dị bản hiện tồn của CNTVT, đối chiếu đưa
ra danh mục thơ văn, xác lập văn bản khả tín để dịch thuật và công bố. Cuối
cùng, luận án nghiên cứu đặc điểm nội dung và nghệ thuật tác phẩm
CNTVT, bước đầu có sự so sánh với tác phẩm đi sứ khác của Lý Văn Phức
cũng như sáng tác của các tác giả cùng thời.
Chƣơng 2: LÝ VĂN PHỨC VÀ CHUYẾN ĐI SỨ YÊN KINH
(TRUNG QUỐC) NĂM 1841
2.1. Tình hình xã hội, quan hệ bang giao Việt Nam – Trung Quốc
nửa đầu thế kỉ XIX
2.1.1. Tình hình xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Lý Văn Phức sinh năm 1785 mất năm 1849. Ông là sinh ra vào giai
đoạn cuối thời Lê Trung hưng, qua triều Tây Sơn (1788 - 1802) đến đầu
triều Nguyễn (1802 - 1849). Tuổi thơ của ông là thời kì đất nước nhiều biến
động, chiến tranh, nội chiến.


11
Về ngoại giao, bên cạnh mối bang giao lâu đời vẫn được duy trì với
phong kiến Trung Quốc, thời kì này phát triển quan hệ bang giao với các
nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á.

2.1.2. Quan hệ bang giao Việt Nam - Trung Quốc khoảng giữa thế kỉ
XIX
Các vị vua triều Nguyễn đều coi trọng quan hệ bang giao. Nguyễn Ánh
ngay khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng hệ thống dịch trạm từ Nhị Hà đến
Lạng Sơn để đón, tiếp sứ. Vua Minh Mệnh rất coi trọng sứ thần. Việc bang
giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn giữa thế kỉ XIX là thời gian
việc triều cống diễn ra bình thường, không gián đoạn.

2.2. Giới thiệu chung về cuộc đời và tác phẩm của Lý Văn Phức
2.2.1. Cuộc đời Lý Văn Phức (1785-1849)
Trong luận án này, chúng tôi không trình bày lại toàn bộ những thông tin
về tác giả, mà tập trung phân tích những yếu tố khách quan và chủ quan góp
phần hình thành nên tài năng thơ văn của Lý Văn Phức.
Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự nghiệp của Lý Văn Phức,
bao gồm các yếu tố gia đình và thời đại.
Tổ tiên và gia đình, tổ tiên của Lý Văn Phức ở thôn Tây Hương, thuộc
huyện Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Những người có ảnh
hưởng lớn đến cuộc đời của Lý Văn Phức là: ông nội, cha và mẹ. Ông nội là
Lý Khắc Đôn, theo nghiệp Nho và đậu Hương tiến. Cha ông Nho nghèo,
các con nhỏ, gặp thời loạn lạc nên người cha phải vừa làm thuốc vừa dạy
học để kiếm sống. Chính tấm gương cần mẫn của cha ông, cùng sự chịu
thương của mẹ đã hun đúc nên tinh thần chăm chỉ, ý chí không ngừng vươn
lên của Lý Văn Phức.
Thời đại, Lý Văn Phức sinh ra và lớn lên trong một thời kì nhiều biến
động. Trong cuộc đời mình, ông đã chứng kiến sự trị vì và thay thế của các
triều đại, bao cảnh đau thương, thảm khốc trong nhân gian. Hoàn cảnh xã


12
hội ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình, khiến cho tuổi trẻ ông gặp nhiều trắc

trở nhưng lại vun vén nên đức tính kiên cường ở ông.
Văn hóa xã hội, Lý Văn Phức sinh ra vào nửa cuối thế kỉ XVIII, được
tiếp xúc sách vở từ sớm. Giai đoạn này, lịch sử văn hóa dân tộc chứng kiến
những hoạt động và thành tựu văn hóa với những tên tuổi lớn như Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương… Những giá trị tư tưởng đã ngấm truyền vào Lý Văn
Phức và việc dụng chữ Nôm sáng tác văn học được ông vận dụng rất thành
công.
Những biến động cuộc đời, cuộc đời làm quan của Lý Văn Phức trải
qua nhiều thăng trầm. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến tư tưởng và sự
nghiệp sáng tác. Sau lần bị bãi chức, ông được cử đi hiệu lực ở Tiểu Tây
Dương để lập công chuộc tội. Trong chuyến đi này, Lý Văn Phức đã bộc lộ
sở trường của một vị quan ngoại giao xuất sắc. Sau đó, ông liên tiếp được
giao trọng trách đi sứ, công cán ở nước ngoài. Sự nghiệp ngoại giao chính
là tiền đề phát triển sự nghiệp văn học của ở Lý Văn Phức.
Những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự nghiệp của Lý Văn Phức
Bản thân Lý Văn Phức là người thông minh, hiếu học và giàu nghị lực.
Cậu bé Đường 棠 đi học từ 7 tuổi, phải đến năm 22 tuổi mới đỗ Sinh đồ (Tú
tài). Sau 12 năm vật lộn kiếm sống và học hành, nhưng ông vẫn kiên trì cho
đến năm 33 tuổi thi đỗ Hương tiến (Cử nhân).
Lý Văn Phức có phẩm chất của một vị quan ngoại giao giỏi. Sau
chuyến đi đầu tiên đến Tiểu Tây Dương, Đại Nam thực lục (tập 2) ghi chép
lời của bọn phái viên Lê Thuận Tĩnh nói “Phức là người làm việc xuất sắc”.
Ông là người quảng giao, đặc biệt là với các văn nhân Nho sĩ cùng chí
hướng, yêu và có tài văn thơ. Theo khảo sát của Dương Đại Vệ trong luận văn
Thạc sĩ, Lý Văn Phức có sự giao lưu với 14 vị quan lại và 17 văn nhân Trung
Hoa trong 6 chuyến đi đến đất nước này.


13
Hội tụ những yếu tố chủ quan và khách quan như trên, Lý Văn Phức đã

trở thành một vị quan ngoại giao xuất sắc, một tác gia văn học lớn ở nửa
đầu thế kỉ XIX.
2.2.2. Sự nghiệp văn học của Lý Văn Phức
Sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Phức song song với chặng đường đời.
Những sáng tác của ông tập trung trong thời gian làm quan ngoại giao.
Danh mục tác phẩm thơ, văn của Lý Văn Phức rất đồ sộ, nên một trong
nhưng công việc đầu tiên khi nghiên cứu sự nghiệp văn học của Lý Văn Phức,
nhà nghiên cứu nào cũng có tham vọng tổng hợp những tác phẩm của tác giả.
Luận án hệ thống thông tin và lập danh mục đầy đủ sáng tác của Lý Văn
Phức ở Phụ mục 1 của luận án.
Tài năng thơ văn, Lý Văn Phức được bậc danh Nho đánh giá rất cao,
nổi bật nhất là ở sự tự nhiên và thành thực. Trong bài tựa ở tập CNTVT, Lê
Văn Đức cho biết Lý Văn Phức là người giỏi từ hành, ca, phú đến thơ lại
càng giỏi giang. Thơ ông đến một cách tự nhiên mà kiệt xuất, là kết tựu của
tài năng, học vấn tinh thông, kinh nghiệm đi nhiều cùng năng lực quan sát
không mệt mỏi.
2.3.1. Mục đích của chuyến đi
Năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841), Lý Văn Phức làm
Chánh sứ đi Yên Kinh báo tang vua Minh Mệnh. Chuyến đi sứ vừa tròn
một năm: từ mùa xuân năm Tân Sửu (1841) đến mùa xuân năm Nhâm Dần
(1842).
2.3.2. Hành trình của chuyến đi
Căn cứ vào Sứ trình chí lược thảo, Sứ trình toát yếu biên, chúng ta có
thể dựng lại một cách chi tiết con đường mà Lý Văn Phức và đoàn sứ bộ đã
đi tới Yên Kinh. Những tác phẩm thuộc thể ký, không chỉ giúp chúng ta
hình dung một cách chi tiết, cụ thể con đường đi sứ, còn là căn cứ quan
trọng khi chúng ta tìm hiểu tác phẩm CNTVT.


14

Mục đích của nội dung này không chỉ là dựng lại con đường đi sứ với
những đơn vị hành chính chi tiết nhất, mà còn dựng lại con đường đi sứ
xuyên suốt tập thơ CNTVT, cởi giải những khúc mắc về địa danh, nhân vật
lịch sử được ghi lại trong tập thơ.
2.3.3. Bốn tác phẩm văn học của Lý Văn Phức được sáng tác trong
chuyến đi sứ năm 1841
Trong chuyến đi này, ngoài CNTVT, Lý Văn Phức còn viết ba tác
phẩm khác cả chữ Hán và chữ Nôm: Sứ trình tiện lãm khúc 使程便覽曲, Sứ
trình quát yêu biên 使程括要編, Sứ trình chí lược thảo 使程志略草. Mỗi
một thể loại văn học có ưu thế riêng, đã phản ánh một cách toàn diện chuyến đi
này. Đây là một hiện tượng văn học thú vị chỉ đến đầu thế kỉ XVIII mới
xuất hiện, đó là nhà văn - nhà ngoại giao sáng tác từ hai tác phẩm trở lên
trong một chuyến đi sứ, như Nguyễn Tông Quai, Bùi Văn Dị, Nguyễn Tư
Giản.
Tiểu kết
Ở chương 2, luận án đã hệ thống lại thông tin về cuộc đời sự nghiệp
sáng tác của Lý Văn Phức và chuyến đi sứ năm 1841 đến Yên Kinh của ông.
Những yếu tố khách quan và chủ quan hội tụ vun đắp nên nhân cách, tài
năng ngoại giao và sự nghiệp văn chương rực rỡ của Lý Văn Phức. Luận án
lập danh muc đầy đủ các sáng tác văn chương của Lý Văn Phức. Về chuyến
đi sứ cuối cùng đến Yên Kinh năm 1841 là chuyến đi tương đối đặc biệt với
Lý Văn Phức, chuyến đi ông nhận được nhiều ân sủng và kỳ vọng. Tất cả
những điều đó Lý Văn Phức thể hiện qua 4 tác phẩm thuộc 4 thể loại khác
nhau. Điều này vừa cho thấy tài năng, bút lực văn chương dồi dào của tác
giả vừa khắc họa một cách trọn vẹn toàn diện hành trình đi sứ. Đây là một
hiện tượng văn học thú vị và đặc biệt ở giai đoạn này.


15


Chƣơng 3: KHẢO SÁT VĂN BẢN CHU NGUYÊN TẠP VỊNH
THẢO CỦA LÝ VĂN PHỨC
3.1. Tình hình văn bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Tác giả luận án bổ sung hai bản CNTVT chưa được các nhà nghiên cứu
đi trước đề cập đến. Đó là bản CNTVT kí hiệu R.240 ở Thư viện Quốc gia
và bản CNTVT kí hiệu HN.660 ở Viện Văn học. Bởi vậy, tính đến thời
điểm hiện tại, ghi nhận còn 14 bản CNTVT. Dựa vào hình thức tên gọi văn
bản, chúng tôi chia làm 2 nhóm văn bản. Nhóm 1 có tiêu đề CNTVT, gồm
10 dị bản là các kí hiệu sau: A.1188, VHv. 111, VHv.1146, A.304, A.2992,
A.2805, A.2497, VHv.110, R. 240, HN.660. Nhóm hai là các bản tiêu đề
không ghi CNTVT, gồm 4 dị bản còn lại, đó là các kí hiệu: A.1250, A.2636,
A.1308, A.1757.
* Nhận xét chung về 14 văn bản hiện tồn
+/ Vấn đề tên gọi văn bản
Tên sách, sách chép tập thơ, văn CNTVT vừa có vựng tập vừa có biệt
tập. Tiêu đề sách nhóm 1 đều ghi CNTVT, nhóm 2 không ghi CNTVT, gồm
4 bản. Trong đó, hai bản Mân hành thi tập A.1250 và Sứ Thanh văn lục
A.1757 chép chung với các tác phẩm khác. Hai bản Sứ trình di lục 使程遺
錄 kí hiệu A.2636, Hoàng Hoa tạp vịnh 皇華雜詠 kí hiệu A.1308 đều là
những biệt tập,
Tên tác phẩm, trong 14 dị bản, tác phẩm này có ba nhan đề khác nhau:
Sứ trình di lục 使程遺錄 (bản A.2636), Hoàng Hoa tạp vịnh 皇華雜詠
(A.1308), CNTVT (các bản còn lại). Cả ba nhan đề đều thể hiện đây là tập
thơ văn đi sứ. Tuy nhiên, CNTVT chính là nhan đề đã được Lý Văn Phức
đặt cho tác phẩm này.
+/ Cấu trúc của văn bản
Từ sự mô tả văn bản chung nhất về hiện trạng các bản sao CNTVT
trên đây, căn cứ vào những thông tin thống nhất giữa các văn bản, sự phân



16
tích tư liệu có được, luận án đưa ra cấu trúc của các bản sao CNTVT như
sau:
- Tên văn bản: Chu Nguyên tạp vịnh thảo
- Hai bài tựa: 1. Bài tựa do Lê Văn Đức viết; 2. Bài tựa Lý Văn Phức
tự viết.
- Các bài thơ văn trên hành trình đi sứ từ kinh đô Phú Xuân tới Yên
Kinh, và từ Yên Kinh trở về đến Hà Nội.
- Một số nội dung khác ghi chép ngoài thơ, văn.
+/ Dựa vào chủ thể sáng tác luận án phân loại các bài thơ văn trong
CNTVT thành ba nhóm: thứ nhất là những sáng tác của Lý Văn Phức, gồm
165 bài; thứ hai là những sưu tập khác của Lý Văn Phức, gồm 6 bài; thứ ba
là những sáng tác của tác giả khác, gồm 7 bài.
3.2. Khảo dị 14 bản Chu Nguyên tạp vịnh thảo
3.2.1. Chọn bản nền
Bản A.1188 ghi chép đầy đủ nhất số lượng thơ, thường có kèm đầy đủ
lời tự dẫn và chú giải sau nguyên tác ở mỗi bài. Do vậy, chúng tôi chọn bản
A.1188 là bản nền, làm cơ sở để đối chiếu so sánh với 13 bản còn lại.
3.2.2. Khảo sát số lượng các bài thơ, văn
Trong 14 văn bản CNTVT, bản A. 1188 là bản có số lượng bài đầy đủ
nhất, ghi chép 177 bài. Các bản VHv.111, A.1308 và R.240 đã bổ sung cho
bản A.1188 một bài Án Yên Đài bát cảnh, trong mục sưu tầm, ghi chép.
Như vậy, số bài thơ văn trong văn CNTVT là 178 bài. Trong đó, 165 sáng
tác và 6 bài sưu tầm ghi chép của Lý Văn Phức cùng 6 sáng tác của các tác
giả khác.
Trong 178 bài thơ văn của tập CNTVT qua khảo sát đối chiếu chỉ có 17
bài thơ xuất hiện trong cả 14 dị bản. Đây đều là những sáng tác của Lý Văn
Phức.
3.2.3. Khảo dị nhan đề các bài thơ, văn



17
CNTVT có 178 bài thơ văn, để đưa ra một danh mục tương đối chính
xác, luận án tiến khảo sát nhan đề gồm nhận định về tình hình xuất, nhập
và sai khác từ ngữ của nhan đề. (Xem Phụ lục 2: Khảo sát nhan đề và số
lƣợng các bài thơ văn)
3.2.3.1. Tình hình xuất nhập từ ngữ
14 văn bản CNTVT có 42 trường hợp nhan đề có hiện tượng xuất,
nhập và sai khác từ ngữ. (Xem Phụ lục 3: Tình hình xuất nhập, từ ngữ
sai khác trong nhan đề các bài thơ văn).
3.2.3.2. Sai khác về từ ngữ
Sai khác giữa nhan đề các văn bản gồm 22 trường hợp. Trong đó có
trường hợp khác biệt không làm thay đổi nội dung nhan đề thơ, văn. Tuy
nhiên, nhan đề trong các dị bản còn một số trường hợp sai khác cần biện
giải.
3.2.4. Khảo dị nội dung 17 bài thơ
3.2.4.1. Sai khác trong chính văn của 17 bài thơ
Trong phần nội dung thơ, do sự quy định chặt chẽ về số chữ trong một
câu, số câu trong một bài; nên chỉ xuất hiện sai khác, đảo mà không có xuất,
nhập.
3.2.4.2. Sai khác ở thi tự của 17 bài thơ trùng nhau
Có 19 điểm bản nền thừa so với 13 bản còn lại. 13 điểm bản nền thiếu
so với các bản còn lại. 13 từ, ngữ bản nền sai khác so với 13 bản còn lại.
Trong 14 văn bản CNTVT, các chữ có hiện tượng viết kiêng húy: chữ
thời 時, chữ hoa 華, chữ nhậm 任.
3.4. Tổng hợp tình hình văn bản và sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa
các bản sao của văn bản CNTVT
Chúng tôi đã khảo sát văn bản CNTVT trên nhiều phương diện. Cuối
cùng, luận án tổng hợp sự khác biệt giữa 14 bản sao về hình thức, xác lập
sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các bản trong hệ thống văn bản CNTVT.



18

Sơ đồ 3.1: Sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các dị bản
3.5. Xác định bản tin cậy
Trên cơ sở khảo cứu, chúng tôi cho rằng bản A.1188 là bản đầy đủ
nhất về số lượng thơ văn (177/ 178 bài) và thi tự ở mỗi bài. Do vậy, chúng
tôi chọn bản A.1188 là bản đáng tin cậy hơn cả để phiên dịch, nghiên cứu
và công bố. Bản A.1188 chép thiếu 1 bài ở phần sưu tầm ghi chép của Lý
Văn Phức, bài 114: Án Yên Đài bát cảnh 按燕臺八景, chúng tôi bổ sung từ
các bản khác.
Tiểu kết
Bằng phương pháp văn bản học, luận đã tiến hành khảo sát tình hình
văn bản tác phẩm CNTVT của Lý Văn Phức và đi đến một số kết luận sau.
Số lượng văn bản tác phẩm CNTVT còn 14 văn bản, tất cả đều là bản chép
tay và tình trạng văn bản còn khá tốt. Về số lượng, 14 văn bản CNTVT ghi
chép 178 bài thơ, văn. Trong đó, 165 bài là sáng tác và 6 bài ghi chép sưu
tầm của Lý Văn Phức cùng 7 sáng tác của các tác giả khác. Luận án đã khảo
dị trong nội dung văn bản 17 bài thơ xuất hiện ở cả 14 bản, khảo sát hiện


19
tượng kiêng húy, tình hình xuất nhập, trật tự sao chép văn bản, khảo dị, luận
án đưa ra sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các bản sao của tác phẩm CNTVT.
Luận án cho rằng bản A.1188 là bản đáng tin cậy (thiện bản) để chọn phiên
dịch, nghiên cứu và công bố.
Chương 4: GIÁ TRỊ CỦA CHU NGUYÊN TẠP VỊNH THẢO
4.1. Giá trị nội dung
4.1.1. Ý thức dân tộc sâu sắc

Ở CNTVT, ý thức dân tộc biểu hiện rõ nhất là thái độ trung cẩn và biết
ơn của Lý Văn Phức đối với triều đình với nhà vua.
Tinh thần dân tộc còn thể hiện ở niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Những
giá trị văn hóa Việt mà ông truyền cảm luôn mạnh mẽ đánh thức niềm tự
hào dân tộc trong ông.
Ý thức dân tộc thể hiện chân thành, giản dị ở tình yêu, sự gắn bó máu
thịt và niềm tự hào sâu sắc với quê hương .

4.1.2. Cảm hứng sáng tạo thi ca hòa đồng cùng cảnh sắc thiên nhiên
Thiên nhiên gắn liền với địa danh và di tích lịch sử
Tên địa danh ở đây không chỉ là những danh từ riêng khô khan, mà
qua ngòi bút tài hoa của tác giả mỗi miền đất lại hiện lên với một bức tranh
thiên nhiên mang màu sắc, cảnh vật, đặc trưng riêng. Qua CNTVT đã thể
hiện rõ đặc điểm này.
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
Hình ảnh về thiên nhiên xuyên suốt tập thơ một cách tự nhiên là mùa
xuân rực rỡ sắc màu, những buổi sáng trong trẻo có ánh mặt trời đỏ, sương
trên lá biếc, gió thì thầm, những khu rừng hai bên bờ sông xanh mướt…
Thiên nhiên kì vĩ và hiểm trở
Vẻ đẹp thiên nhiên kì vĩ trong CNTVT rất rõ nét. Thiên nhiên vừa hiểm
trở vừa khắc nghiệt, khiến con đường đi sứ càng trở nên gian nan, nguy
hiểm.


20
4.1.3. Từ con đường đi sứ Yên Kinh đến dòng chảy cảm xúc của
nhân vật trữ tình trong Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Con đường đi sứ đến Yên Kinh được phản ánh chi tiết gắn với thông
tin đáng tin cậy về các địa danh Trung Hoa vào thời điểm năm 1841. Hành
trình đi sứ với không gian xa xôi, thời gian dằng dặc ảnh hưởng đến tâm

tình cô đơn, nỗi lòng lẻ loi của sứ thần.
Đối với hoàn cảnh đi xa, tha hương lữ khách, tình cảm gia đình, chữ
hiếu với mẹ cha không bộc bạch thường xuyên nhưng lại rất sâu đậm.
Bên cạnh tình yêu đất nước, tình cảm gia đình, còn có một nét đặc
trưng của thơ đi sứ và rất tiêu biểu ở Lý Văn Phức đó là tình bằng hữu
ngoài biên giới.
4.2. Giá trị nghệ thuật
4.2.1. Thể loại
Thể loại trong CNTVT rất đa dạng, chiếm số lượng lớn nhất là thơ
Đường luật (137 bài). Thứ nhất, là thể bát cú đường luật. Luật thi yêu cầu
chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối. Niêm là nguyên tắc phối hợp thanh điệu
theo chiều dọc của bài thơ, làm cho các liên thơ kết dính lại với nhau. Thứ
hai, là thể thơ tuyệt cú. Tuyệt cú hay tứ tuyệt vốn được xem là thể thơ đặc
sắc, ngắn gọn, mở ra những “khoảng trống ngữ nghĩa” để người đọc bằng
năng lực và kinh nghiệm bản thân suy tưởng và lí giải. Trong tập thơ văn
này, tuyệt cú có 29 bài, có những bài rất đẹp.
Thể loại khác cũng được tác giả vận dụng rất khéo thể hiện tình cảm,
tâm sự của mình. Ví dụ như thể hành mang thế mạnh về chiếm lĩnh thiên
nhiên và bộc lộ cảm xúc. Trong tập thơ văn này chỉ có một bài hành (Văn
điểu hành) duy nhất nhưng lại chất chứa nhiều tình cảm và tâm sự nhớ nhà
của tác giả.
4.2.2. Đặc điểm từ ngữ trong Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Ngôn ngữ thi ca: Tính biểu cảm của ngôn từ trong tác phẩm này thể
hiện rõ nét nhất ở hệ thống từ láy (song thanh, điệp vận, điệp tự). Hình ảnh


21
có cây mềm mại, phất phơ hiện lên qua sức gợi của các từ y y 依依, bóng tà
dương mềm mại thướt tha ẩn ẩn 隐隐, thê thê 凄凄, địa hình núi trùng điệp,
sông nước gập ghềnh hiểm trở khúc khúc 曲曲, hình ảnh ngựa phóng đi vùn

vụt phiên phiên 翩翩, mái tóc bạc xơ xác tiêu tiêu 蕭蕭
Nghệ thuật sử dụng điển cố: Phương thức dụng điển được Lý Văn Phức
dùng khá nhiều và mang lại hiệu quả cao. Điển ông vận dụng chủ yếu là các sự
việc, nhân vật, địa danh mang tính điển hình và dễ hiểu. Do đặc trưng thể thơ
đi sứ, cùng ý thức trọng trách của nhà thơ, mà những điển cố liên quan
được vận dụng rất thành công.
4.2.3. Tính kỷ sự trong tập thơ Chu Nguyên tạp vịnh thảo
Thơ đi sứ chính là thơ du kí, tức là đi đến đâu ghi chép lại đến đó.
Luận án tập trung làm rõ biểu hiện của tính kỷ sự trong tập thơ CNTVT trên
hai phương diện: nhan đề chứa đựng thông tin xác thực về thời gian, không
gian và hoạt động của con người; cùng hệ thống thi tự tham gia thuyết
minh, tường giải cho nội dung thơ.
Tiểu kết
CNTVT là một tác phẩm văn chương có giá trị cả phương diện nội
dung và nghệ thuật. Về mặt nội dung, tác phẩm thể hiện một sắc thái khác
của ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần dân tộc Việt (mặc dù là người gốc Hoa)
của tác giả, sự hòa đồng cảm hứng thi ca và cảnh sắc thiên nhiên. Về nghệ
thuật, luận án đã tiến hành nghiên cứu trên 3 phương diện nghệ thuật: thể thơ,
ngôn ngữ và khuynh hướng kỷ sự.


22
KẾT LUẬN
Bằng các phương pháp văn bản học, phương pháp phân tích tác phẩm và
nghiên cứu liên ngành, luận án “Nghiên cứu văn bản tác phẩm Chu Nguyên tạp
vịnh thảo của Lý Văn Phức” đã thực hiện được những nhiệm vụ và đạt được
những mục đích đề ra. Cụ thể như sau:
1. Luận án đã bổ sung những thông tin về cuộc đời đi sứ và con người
Lý Văn Phức. Phân tích những yếu tố chủ quan và khách quan đã tác động,
vun trồng nên phẩm chất tài năng một nhà ngoại giao xuất sắc và một tác

giả văn học quan trọng trong nền văn học trung đại Việt Nam. Trong 10
năm với 11 chuyến đi sứ là giai đoạn thăng hoa trong sự nghiệp văn học của
ông. Đi nhiều, ghi chép nhiều, thơ văn của ông giàu giá trị lịch sử. Thể loại
sáng tác đa dạng, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, mảng thơ
văn đạt nhiều thành tựu và tầm ảnh hưởng nhất của ông là những sáng tác đi
sứ. Chuyến đi sứ năm 1841 được ghi chép lại trong các tư liệu lịch sử Việt
Nam. Đối với Lý Văn Phức, đây là chuyến đi cuối cùng trong sự nghiệp
bang giao và là chuyến đi nhận được nhiều ân sủng. Những tiền đề đó là cơ
sở cho tác giả sáng tác CNTVT.
2. Luận án đã khảo sát, mô tả hiện trạng của 14 bản CNTVT hiện tồn
tại ba kho sách Hán Nôm ở Hà Nội: Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện Văn
học, Thư viện Quốc gia, gồm các kí hiệu: A.1188, VHv.111, VHv.1146,
A.304, A.2992, A.2805, A.2497, VHv.110, A.1250, A.2636, A.1308, A.1757,
R.240, HN.660. Qua đánh giá thực trạng các văn bản, biện luận về nhan đề,
tình hình xuất nhập các bài thơ văn, cách thức sao chép, dị văn trong nội dung
17 bài thơ văn xuất hiện ở cả 14 văn bản luận án rút ra một số kết luận. Thứ
nhất, những bản: A.1188, VHv.111, VHv.1146, A.304, A.2992, A.2805, R.240,
HN.660 là những bản có chất lượng tốt, độ khả tín cao, các bản còn lại chép
thiếu nhiều chỉ có thể dùng để tham khảo. Thứ hai, chọn bản A.1188 làm bản
nền, là cơ sở đối chiếu, so sánh giữa các dị bản.


23
3. CNTVT ghi chép 178 tác phẩm thơ, văn của Lý Văn Phức và nhiều văn
nhân sứ giả khác. Trong đó, 165 bài thơ, văn sáng tác của Lý Văn Phức, 6 bài
tạp ký do Lý Văn Phức sưu tầm, sao chép trên đường đi, và 7 sáng tác của tác
giả khác khi xướng họa cùng Lý Văn Phức hoặc đưa tiễn ông lên đường. Bằng
việc khảo sát nhan đề các bài thơ văn, biện ngụy những trường hợp sai khác,
chúng tôi đưa ra danh mục chính xác các bài thơ văn của Lý Văn Phức trong
CNTVT.

4. Dựa vào kết quả khảo sát chữ húy, tình hình xuất nhập, trật tự sao chép
văn bản, khảo dị văn bản, luận án đề xuất sơ đồ biểu thị mối liên hệ giữa các dị
bản của văn bản CNTVT. Dựa vào tên gọi của sách, luận án phân chia 14 văn
bản thành hai nhóm. Nhóm 1 là những văn bản có tên gọi là CNTVT, và nhóm
2 là những văn bản không đề tên CNTVT nhưng ghi chép nội dung tác phẩm.
Trong nhóm 1, các bản A.1188, VHv.1146, VHv.110 là những bản có mối
quan hệ giẫn gũi với nhau. Bản A.1188, A. 304, A.2992 có số lượng dị văn sai
khác ít nhất, ba bản này có sự tương đồng nhất định. Khả năng rất lớn là những
bản trên có cùng nguồn gốc sao chép. Bản A.2805, HN. 660, R240 có mối
quan hệ với nhau vì sự tương đồng là khá lớn. Riêng bản VHv.111 là bản có
nội dung sai khác nhiều nhất. Nhóm 2 các văn bản sao chép còn thiếu sót nhiều,
chủ yếu mang giá trị tham khảo. Tuy nhiên, riêng bản A.1250 có mối quan hệ
nhất định với bả A. 2992.
Bản A.1188 ghi chép đầy đủ nhất số lượng thơ văn gồm 177 bài thơ, văn
(trong đó 165 bài thơ văn là sáng tác của Lý Văn Phức; 5 bài do Lý Văn Phức
ghi chép, sưu tầm; 7 thơ văn của tác giả khác). Ở bản A.1188, nội dung ghi
chép ở từng bài cụ thể đầy đủ cả phần tự dẫn và chú thích sau nguyên tác. Qua
đối chiếu và biện ngụy dị văn, bản A.1188 ít sai sót. Trên cơ sở đó, luận án
nhận định bản nền A.1188 chính là bản tin cậy (thiện bản) để phiên dịch,nghiên
cứu và công bố trong luận án. Như vậy, CNTVT tổng số bài là 178. Trong đó,
165 bài là thơ văn sáng tác và 6 bài ghi chép của Lý Văn Phức (chúng tôi bổ
sung 1 bài (bài114) ở các bản khác) cùng 7 bài thơ văn của tác giả khác.


×