Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ Việt Nam - Vương quốc Anh (1973 - 2004)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Hồng Hạnh

Chuyên ngành :
Mã số
:

Lịch sử Việt Nam
60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA (Asean Free Trade Area)

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

DFID (Department for International Development) : Bộ Hợp tác phát triển quốc tế.
EU (European Union)

: Liên minh Châu Âu.


FDI (Foreign Direct Investment)

: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

GSP (Generalized System of Preferences)

: Hệ thống ưu đãi thuế quan chung.

NGO (Non-Government Organization)

: Tổ chức phi chính phủ.

ODA (Official Development Aid)

: Viện trợ phát triển chính thức.

UK (United Kingdom)

: Vương quốc Anh.

WB (World Bank)

: Ngân hàng thế giới.

WTO (World Trade Organization)

: Tổ chức thương mại thế giới.


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu
cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế, dù ở trình độ nào, đều phải tiến đến
nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau.
Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay chứa đựng
những yếu tố phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan
và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu
thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn,
xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an
ninh quốc phòng của thế giới.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối đối ngoại
của nước ta là: “Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
[56, tr.38].
Việc cải thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn,
các trung tâm chính trị - kinh tế hàng đầu của thế giới trở thành một đòi hỏi
tất yếu và cấp bách của hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nó cho phép đồng thời
phát triển quan hệ với các đối tác có thực lực và tiềm năng lớn trên nhiều lĩnh
vực, từ đây có thể tranh thủ thu hút vốn đầu tư, công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng vượt ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài đã nhiều năm của Việt Nam, phá thế bị bao
vây cấm vận, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Đường lối ngoại giao nhất quán đó không chỉ được Đảng và Nhà nước
Việt Nam vận dụng trong quan hệ với các nước trong khu vực mà còn vận
dụng trong quan hệ với các nước phát triển thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU),

trong đó có Vương quốc Anh. Vương quốc Anh có một vai trò đặc biệt trong
EU. Từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Vương quốc Anh đã có những thay
đổi đối với Châu Âu. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt của Vương quốc Anh
thể hiện ở Hội nghị thương đỉnh Anh – Pháp ở Saint Malo (12/1998), hai
nước đã đưa ra sáng kiến thành lập lực lượng quân sự riêng của Châu Âu.
Sáng kiến này đã trở thành tiền đề cho việc hình thành chính sách an ninh và
phòng thủ chung của EU.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, trước xu thế phát triển của thế giới lấy kinh
tế làm trung tâm và xu thế toàn cầu hoá, EU nói chung và Vương quốc Anh
nói riêng bắt đầu nhận thấy khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có
một tiềm năng hợp tác to lớn trong nhiều lĩnh vực. Trong tầm nhìn của mình,
Vương quốc Anh xem Việt Nam là một thị trường mới mẻ đầy hấp dẫn với
dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có học thức, đất nước lại đang
chuyển mình trong quá trình cải cách mở cửa, hội nhập…. Rõ ràng đối với
Vương quốc Anh, đây là một thị trường đầu tư, một địa chỉ hợp tác đầy hứa
hẹn. Với sự hiểu biết đó, Vương quốc Anh đã cùng với Việt Nam có những
bước đi chắc chắn trong quá trình hợp tác.
Về phía Việt Nam, đối với Vương quốc Anh, Việt Nam luôn coi trọng
quan hệ toàn diện với Vương quốc Anh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
lẫn văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo và khoa học kỹ thuật, để có nhiều điều
kiện trong việc tranh thủ nguồn vốn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh
nghiệm quản lý của Vương quốc Anh. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn
nhằm khắc phục khó khăn, từng bước gạt bỏ mọi trở ngại để cho mối quan hệ
giữa hai bên ngày càng có hiệu quả cao.


Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với
Vương quốc Anh không chỉ mang ý nghĩa khoa học, mà còn đáp ứng yêu cầu
thực tiễn công tác đối ngoại của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho phép
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm, thấy được những khó khăn vướng

mắc trong quá khứ, để có những chủ trương chính sách đúng và có giải pháp
phù hợp nhằm phát huy thành tựu, thúc đẩy quan hệ hợp tác có hiệu quả lớn
trong hiện tại và tương lai.
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu mối quan hệ này của các nhà nghiên
cứu Lịch sử Việt Nam hầu như chưa có. Nhu cầu phát triển đất nước đặt ra
nhiệm vụ cần phải tiếp cận các vấn đề liên quan đến quá trình hội nhập quốc
tế và khu vực mang tính lợi ích của Việt Nam một cách khách quan, tổng quát
trên những cơ sở khoa học thực sự, góp phần làm cơ sở cho việc hoạch định
chủ trương, chính sách, tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh
ngày càng phát triển.
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, cùng với việc hơn 30 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, chúng tôi quyết định chọn vấn đề:
“Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1973 – 2004)” với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu này. Trong bước chuyển
giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những chuyển biến mới, đòi hỏi
hai nước cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giao lưu hữu nghị, vì
lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình và phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Theo hiểu biết của chúng tôi, đến nay hầu như chưa có công trình nào
của các nhà khoa học nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam với Vương quốc
Anh, nhưng đã có một số sách xuất bản đề cập đến vấn đề quan hệ Việt Nam


– Vương quốc Anh trên lĩnh vực kinh tế được lồng ghép trong mối quan hệ
chung của khu vực EU và thế giới.
Ở trong nước, có một số công trình tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam –
Liên minh Châu Âu” của tác giả Trần Thị Kim Dung, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000; “Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu
Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI” của Bùi

Huy Khoát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt
Nam – Liên hiệp Châu Âu (1990 – 2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại
học Sư phạm, TP Hồ Chí Minh, 2006; “Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu
trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” của tác giả
Nguyễn Dy Niên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Chiến lược đối
ngoại của các nước lớn và quan hệ Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI” của PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, TS Nguyễn Văn Du, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006; “Các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế
với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NXB Thông tấn; “Quan hệ EU –
ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng”
của Bùi Huy Khoát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “ASEM V – cơ hội
và thách thức trong tiến trình hội nhập Á – Âu” của Hoàng Lan Hoa, NXB Lý
luận chính trị; “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút FDI ở Việt Nam”
của Mai Ngọc Cường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
“Hợp tác Á – Âu và vai trò của Việt Nam” của Nguyễn Duy Quý, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; “Hợp tác ASEAN – EU: Tình hình và triển vọng.
ASEAN những vấn đề và xu hướng” của Nguyễn Thu Mỹ, NXB Khoa học xã
hội, 1997; “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Thế giới sau chiến tranh lạnh và Châu Á – Thái
Bình Dương trong “Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc”” của Trần Quang


Cơ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Đổi mới kinh tế Việt Nam và
chính sách kinh tế đối ngoại”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995….
Nhiều bài nghiên cứu viết về mối quan hệ Việt Nam – vương quốc Anh
cũng được đăng tải trên các tạp chí, các báo như: “Thúc đẩy quan hệ Việt
Nam – Anh” của Nguyên Thành, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 24/5/2002;
“Quan hệ Việt – Anh phát triển” của Phong Hương, Tuần báo Quốc tế, số 44,
1996; “Mở rộng quan hệ Việt – Anh” của Hồng Phúc, Tuần báo Quốc tế, số
16, 1996; “Tương lai mở rộng hợp tác Việt – Anh”, Báo Nhân dân,

28/7/1993; “30 năm phát triển quan hệ Việt Nam – Anh quốc” của Bùi Việt
Hưng, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Hợp tác đầu tư thương mại Việt – Anh
trong những năm gần đây” của Hoàng Xuân Hoà, Nghiên cứu quốc tế, số 34;
“Viện trợ phát triển chính thức của Anh cho Việt Nam” của Hoàng Xuân Hoà,
Nghiên cứu quốc tế, số 54; hoặc được lồng ghép trong mối quan hệ chung của
khu vực EU và thế giới như: “Quan hệ Việt Nam – EU”, Thông tấn xã Việt
Nam, 2003; “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế giữa EU và Việt
Nam” của Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Quan
hệ kinh tế Việt Nam – Liên minh Châu Âu: Hiện trạng và triển vọng” của
Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Tổng quan về
hợp tác Việt Nam – EU năm 2002” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2002; “Trước thềm ASEM V, nhìn lại thực trạng và triển vọng
quan hệ hợp tác EU – ASEAN” của Ngô Minh Oanh, Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, 2004; “Vị thế của Việt Nam trong quan hệ hợp tác kinh tế EU –
ASEAN” của Mai Hồng Nhung, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Việt
Nam trong tiến trình hợp tác ASEM” của Nguyễn Văn Lịch, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2004; “Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU” của
Nguyễn Thị Như Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2001; “Quan hệ Việt
Nam – Châu Âu” của Hoàng Hải, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 7;


“Thương mại Việt Nam – EU: phát triển bền chặt”, Báo Đầu tư, 2/4/1998;
“Hợp tác Việt Nam – EU ngày càng mở rộng”, Báo Nhân dân, 11/2/1995;
“Quan hệ thương mại Việt Nam – EU thời gian gần đây”, Báo Ngoại thương,
1997; “Quan hệ Việt Nam – EU”, Báo Ngoại thương, 1996; “ASEM: Những
thành tựu và vấn đề” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Chiến
lược Châu Á mới của EU và vai trò của ASEM” của Bùi Huy Khoát, Nghiên
cứu Châu Âu, 2003; “Đông Nam Á trong chiến lược Châu Á mới của Liên
hiệp Châu Âu” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62; “EU –
ASEAN: Những quan hệ đang được thúc đẩy” của Bùi Huy Khoát, Nghiên

cứu Châu Âu, 1995, số 3; “Việt Nam – Châu Âu: Một số vấn đề về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài” của Bùi Nhật Quang, Nghiên cứu Châu Âu,
1995, số 3; “Tiếp tục hỗ trợ Việt Nam: WB, Anh, Thụy Điển, Hà Lan”, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, 2003; “ASEAN - Một đối tác chiến lược của Liên
minh Châu Âu” của Đặng Minh Đức, Nghiên cứu Châu Âu, 2003; “Đầu tư
của Liên minh Châu Âu tại Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 6;
“Tình hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001 – 2005) và những tác
động đến Việt Nam” của Đinh Công Tuấn, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62;
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển từ 1980 đến nay: Xu
hướng vận động và các vấn đề cần giải quyết” của Đỗ Đức Bình, Những vấn
đề kinh tế thế giới, 1997, số 46; “Quan hệ thương mại và đầu tư EU – Châu
Á” của Đỗ Đức Mạnh, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 4 & 5; “Mấy vấn đề về
vốn ODA vào Việt Nam của các nước Tây Bắc Âu” của Hoàng Hải, Nghiên
cứu Châu Âu, 1996, số 6; “EU và chiến lược đầu tư vào các nước trong khu
vực và Việt Nam” của Kim Ngọc, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 1; “Việt
Nam – EU: Hợp tác kinh tế và thương mại” của Kim Ngọc, Những vấn đề
kinh tế thế giới, 1996, số 4; “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vị trí của
Châu Âu còn thấp nhưng đầy hứa hẹn” của Lê Mạnh Tuấn, Nghiên cứu Châu


Âu, 1995, số 1; “Toàn cầu hoá kinh tế - Một số tác động tới quá trình liên kết
kinh tế EU – ASEAN” của Nguyễn An Hà, Nghiên cứu Châu Âu, 2003;
“Quan hệ Việt Nam – EU năm 1997: Bước tiến vững chắc” của Nguyễn Đăng
Quế, Tuần báo quốc tế, 1997, số 42 và 52; “Tiến trình hợp tác Á – Âu và sự
tham gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Nghiên cứu quốc tế,
2004, số 59; “Vài nét về quan hệ EU - Việt Nam” của Nguyễn Thu Hà,
Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 3; “Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn hoá:
Quan hệ văn hoá giữa Việt Nam và thế giới” của Phạm Đức Dương, Nghiên
cứu Đông Nam Á, 1994, số 4; “Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề kinh tế
EU – ASEAN” của Trần Đình Thiên, Những vấn đề kinh tế thế giới, 2005, số

114; “Viện trợ phát triển chính thức của EU cho khu vực Đông Nam Á” của
Trần Hoàng Mai, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 1; “Năm 1997 - Một bước
tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU”
của Trần Thị Kim Dung, Nghiên cứu Châu Âu, 1998; “Quan hệ thương mại
và đầu tư giữa Việt Nam và EU” của Từ Thanh Thủy, Những vấn đề kinh tế
thế giới, 1998, số 1; “Tăng cường hợp tác Á – Âu về đầu tư”, VN Express,
2003…. Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện trên cơ sở tham khảo các nguồn
tài liệu sau đây:
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước XHCN Việt Nam, các Hiệp định, văn
bản ký kết giữa hai nước, số liệu của Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư,
Cục Thống kê, các tài liệu liên quan đến quan hệ Việt Nam – vương quốc
Anh lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TP.HCM, các bài viết đăng tải
trên tạp chí như Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Châu Âu, những vấn đề kinh
tế thế giới…, và các bài đăng trên các báo như Thông tấn xã, Nhân dân, Tuần
tin tức, Tuần báo quốc tế, Đầu tư, Sài Gòn Giải phóng…, các trang web của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam như: website của Đảng Cộng sản Việt Nam
(www.cpv.org.vn), Quốc hội Việt Nam (www.na.gov.vn), Bộ Văn hoá –


Thông tin (www.cinet.vnn.vn), Bộ Khoa học công nghệ và môi trường
(www.moste.gov.vn), Bộ Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn), Tổng
Cục thống kê (www.gso.gov.vn), Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn)....
Ở ngoài nước, tiêu biểu như: Brian B., Coping with Contagion: Europe
and the Asian Financial Crisis, Asian Survey, May/June; Dent C.M., The
European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy and Crisis
Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21st Century,
Macmillan, London; Dent C.M., The European Union and East Asia: An
Economic Relationship, Routledge, London; Foreign Investment in Southest
Asia….
Nhìn chung, tài liệu về đề tài này là tương đối nhưng không tập trung,

những số liệu trích dẫn từ các nguồn nhiều lúc có sự chênh lệch, gây không ít
khó khăn trong quá trình tập hợp và phân loại tài liệu với khả năng có hạn của
người thực hiện đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế như là những cơ sở lý luận
cho nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng hai phương pháp chuyên ngành, đó là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời chúng tôi cũng sử dụng các phương
pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu kinh tế, phương pháp nghiên
cứu quan hệ quốc tế … và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp,
thống kê.
Dựa vào phương pháp lịch sử, luận văn dựng lại toàn bộ quá trình lịch sử
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh qua những sự kiện, dấu mốc và các giai
đoạn phát triển đa dạng của mối quan hệ dưới tác động của tình hình thế giới,


khu vực và sự phát triển, đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trên cơ sở của bức tranh lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra
bản chất của mối quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh nhằm rút ra những
đặc điểm, chiều hướng phát triển của mối quan hệ này.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về phạm vi thời gian, giới hạn đề tài này chủ yếu từ năm 1973 đến
năm 2004. Tuy nhiên để làm rõ hơn mối quan hệ này, chúng tôi có đề cập đến
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh giai đoạn trước năm 1973.
+ Về nội dung, đề tài đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam –
Vương quốc Anh giai đoạn 1973 – 2004 trên một số lĩnh vực: chính trị ngoại giao, kinh tế - thương mại, văn hoá – giáo dục, khoa học kỹ thuật…

* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc Anh trong
bối cảnh của tình hình thế giới và khu vực, sự điều chỉnh chiến lược, sách
lược, biện pháp cụ thể trong chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Luận văn xem xét mối quan hệ này dưới góc độ Việt Nam với tư cách
là chủ thể của mối quan hệ và chủ thể của đối tượng nghiên cứu trong mối
quan hệ với Vương quốc Anh.
5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích và so sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi
cố gắng phục dựng lại bức tranh toàn cảnh quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh từ năm 1973 đến năm 2004 trên các lĩnh vực hợp tác với những khó khăn
trở ngại, các vấn đề đã gặp phải trong phát triển quan hệ thời gian qua.
- Rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và
thách thức, nêu lên triển vọng và xu thế phát triển của quan hệ hợp tác giữa


hai nước, từ đó đề xuất hướng giải quyết để thúc đẩy các quan hệ này trong
bối cảnh vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, đưa đất
nước vào quỹ đạo phát triển ổn định, bền vững trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Quan
hệ quốc tế….
6. Bố cục luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, phần nội dung chính được triển khai qua ba chương:
- Chương 1: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1973 đến
năm 1990.
- Chương 2: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1991 đến
năm 2004.
- Chương 3: Những cơ hội, thách thức và triển vọng của quan hệ Việt

Nam – Vương quốc Anh những thập niên đầu thế kỷ XXI.


Chương 1: QUAN HỆ VIỆT NAM – VƯƠNG QUỐC ANH
TỪ NĂM 1973 ĐẾN 1990
1.1. Khái quát về quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh trước năm 1973
1.1.1. Đôi nét về Vương quốc Anh
Vương quốc Anh (UK) nằm ở Bắc Đại Tây Dương, phía Tây Châu Âu,
được thành lập năm 1801, chiếm phần lớn quần đảo Anh. Đảo lớn nhất là
Great Britain gồm England, Scotland và Wales. Kế theo là đảo Ailen mà phía
bắc thuộc UK và phía nam là nước Cộng hoà Ailen. Ngoài ra còn có trên
4000 hòn đảo lớn nhỏ khác. Vương quốc Anh có khí hậu biển thất thường,
nhưng nhìn chung khí hậu ôn hoà với nhiệt độ trung bình ít khi quá 320C và
âm dưới 100C.
Vương quốc Anh có diện tích 243.000 km2, với số dân 59,756 triệu
người, đa số theo đạo Tin Lành (Anh giáo), nói tiếng Anh, và có thủ đô Luân
Đôn. Quốc khánh của Vương quốc Anh là ngày 11/6, kỷ niệm chính thức
ngày sinh Nữ hoàng Elizabeth II.
Vương quốc Anh theo chế độ quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia
nay là Nữ hoàng Elizabeth II, đồng thời là nguyên thủ quốc gia của nhiều
nước trong khối thịnh vượng chung do Vương quốc Anh đứng đầu.
Quốc hội Anh có hai viện, Hạ viện gọi là House of Commons và Thượng
viện là House of Lords. Nền chính trị là dân chủ nghị viện đa đảng, luôn luôn
do hai đảng lớn là Đảng Bảo thủ và Công đảng thay nhau cầm quyền từ 150
năm nay.
Kinh tế Anh chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế tư nhân (chiếm 80% sản
lượng và 75% lao động). Chính sách kinh tế là tự do hoá thị trường, khuyến
khích hoạt động kinh doanh thông qua các biện pháp như tư nhân hoá và cải
cách thuế, duy trì tăng trưởng trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư. Vương



quốc Anh đứng thứ tư thế giới về GDP (sau Mỹ, Nhật, Đức), đứng thứ năm
về thương mại quốc tế (5,4%) và thứ ba về dịch vụ (chiếm 6,8%). Một số kết
quả khả quan trong phát triển kinh tế, đó là duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao so với các nước EU, thất nghiệp giảm mạnh, lạm phát
thấp…. Thương mại của Vương quốc Anh luôn đóng vai trò quan trọng của
nền kinh tế, đứng thứ tư về xuất khẩu và dịch vụ của thế giới, đạt 5,1%
thương mại thế giới [243].
Vương quốc Anh cũng là nước có nhiều tiềm năng về công nghệ cao, là
một trong những cường quốc thương mại và trung tâm tài chính lớn trên thế
giới, là một trong các nền kinh tế lớn nhất Tây Âu. Nông nghiệp có trình độ
cơ giới cao. Nước Anh có trữ lượng lớn về dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá,
các sản phẩm năng lượng thô chiếm 10% GDP. Các ngành dịch vụ, đặc biệt là
ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ kinh doanh khác cũng chiếm tỷ lệ lớn
trong GDP [260].
Trong quá khứ, Vương quốc Anh là đế quốc có nhiều thuộc địa, hiện
Vương quốc Anh vẫn là nước đứng đầu Khối thịnh vượng chung gồm 48
nước và còn nhiều ảnh hưởng đến các nước thuộc địa, phụ thuộc cũ. Vương
quốc Anh là thành viên quan trọng trong khối NATO, thành viên trong EU.
Vương quốc Anh có quan hệ ngoại giao với 165 nước. Vị trí của Vương quốc
Anh là cường quốc thương mại và nằm giữa hệ thống các liên minh như Liên
hiệp Châu Âu, NATO, Liên Hiệp quốc, Khối thịnh vượng chung và G8, đồng
thời tiếp tục hợp tác chặt chẽ với hai bờ Đại Tây Dương nhằm xây dựng một
Châu Âu ổn định hơn, an toàn hơn [243]. Từ cuối năm 1997, chính phủ Anh
đã nhiều lần tuyên bố sẵn sàng tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động hội
nhập do EU và vấn đề về việc Vương quốc Anh gia nhập Liên minh tiền tệ
Châu Âu (EMU) chỉ là thời gian [71, tr.35].


Trong quá trình thực hiện chính sách thương mại quốc tế, chính phủ Anh

đã thiết lập một hệ thống các ban xúc tiến xuất khẩu. Chính nhờ hệ thống này
mà hầu hết các doanh nghiệp của Vương quốc Anh đều thu thập được một
cách chính xác các thông tin về sự biến động thị trường, giá cả, thiết lập được
mạng lưới buôn bán xuyên quốc gia.
Một trong những sáng kiến mới của chính phủ Anh trong việc thực hiện
chiến lược phát triển thương mại quốc tế là thu hút các nhà lãnh đạo các công
ty, tập đoàn lớn của Vương quốc Anh tham gia vào các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Các đối tác thương mại hàng đầu của Vương quốc Anh từ trước tới nay
vẫn là các nước thành viên trong EU với tỷ trọng chiếm 55% toàn bộ xuất
khẩu. Các bạn hàng thương mại chính của Vương quốc Anh trong khối nước
này vẫn là Đức, Pháp và Hà Lan. Khối lượng mậu dịch của Vương quốc Anh
với các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng thường xuyên đạt mức tăng trưởng khá
cao và ổn định, chủ yếu do xuất khẩu của Vương quốc Anh tăng, giai đoạn
1995 – 2000 tăng bình quân đạt hơn 20% [71, tr.38, 39].
Viện trợ phát triển chính thức (ODA – Official Development Aid) được
coi là một trong những phương tiện quan trọng của chính sách đối ngoại của
Vương quốc Anh, là yếu tố quan trọng để phát huy vai trò quốc tế của Vương
quốc Anh. Hơn nữa, Vương quốc Anh còn coi viện trợ kinh tế là công cụ chủ
chốt để giành vị trí, ảnh hưởng của mình trong xã hội quốc tế và phục vụ tốt
nhất cho lợi ích của Vương quốc Anh.
Với những chính sách và phương thức mới về hợp tác phát triển được
thực hiện từ sau năm 1997, tỷ lệ ODA trong tổng thu nhập quốc dân (GNP)
của Vương quốc Anh đã tăng lên đáng kể. Năm 1998, Vương quốc Anh dành
2,315 tỷ bảng Anh (tương đương với 3,7 tỷ USD) cho nguồn vốn ODA,
chiếm 0,27% GNP. Và đến năm 2001, Vương quốc Anh đã tăng mức ODA
lên tới 3,22 tỷ bảng Anh (tương đương với 5,15 tỷ USD), chiếm 0,3% GNP


của Vương quốc Anh, trong đó 71% dành cho các chương trình ODA song
phương tại những nước nghèo, có thu nhập thấp. Đồng thời, chính phủ Anh

cam kết sẽ tăng chi nguồn vốn ODA nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo ở
các quốc gia đang phát triển. Theo Bộ Hợp tác phát triển quốc tế (DFID –
Department for International Development), ngân sách dành cho ODA sẽ tăng
bình quân trên 8%/năm, đưa ODA ở Vương quốc Anh từ mức 3,4 tỷ bảng
Anh trong giai đoạn 2002 – 2003 lên gần 4,6 tỷ bảng Anh trong giai đoạn
2005 – 2006 (xem phụ lục 2, bảng 1, tr.98) [72, tr.25].
Vương quốc Anh đang đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN và khu
vực Á. Đây là khu vực Vương quốc Anh có nhu cầu củng cố vai trò và vị trí
của mình. Năm 1973, Vương quốc Anh gia nhập EEC (nay là Liên hiệp Châu
Âu – EU), và thiết lập quan hệ ngoại giao với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt
là với Việt Nam, một thị trường đầu tư đầy hấp dẫn.
1.1.2. Khái quát về quan hệ Việt nam – Vương quốc Anh trước năm 1973
 Quan hệ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Vương quốc Anh:
Năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (1945), thế nước vô cùng khó
khăn, Việt Nam bị đe dọa bởi các thế lực ngoại bang. Vương quốc Anh mang
danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân Nhật (6/9/1945). Thực dân Pháp tìm
cách trở lại cai trị nước ta. Tuy nhiên thời thế lúc bấy giờ đã khác, đứng trước
các thế lực ngoại bang là một xứ Đông Dương đã nhận thức được sức mạnh
của chính mình và quyết tâm đứng lên giành độc lập. Với Việt Nam, đường
lối đối ngoại của chính phủ cũng là ước nguyện của hàng triệu dân quyết
“đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy” [116, tr.4] như trong bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2/9/1945. Với
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và bản Hiệp định
Geneva, đánh dấu sự chấm hết của Pháp sau gần một thập kỷ đô hộ, giải


phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai
đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành độc lập dân

tộc, dân chủ và thống nhất đất nước, “Thắng lợi mới làm cho tình hình nước
ta đổi mới tức là từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Nhưng để giành lấy
hoà bình toàn diện và lâu dài, chúng ta cần phải ra sức đấu tranh…. Nhiệm vụ
chung của chúng ta hiện nay là: thi hành đúng đắn Hiệp định đình chiến, đấu
tranh để giữ gìn và củng cố hoà bình, để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ trong toàn quốc” [115, tr.339]. Vì vậy, sau khi giành được
chính quyền và tuyên bố độc lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quan tâm
sâu sắc đến việc đề cao vị trí của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giành thế hợp
pháp cho chính quyền mới, tranh thủ sự công nhận quốc tế.
Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ (1954 – 1975), chỉ tập
trung toàn bộ sức người, sức của và mọi chính sách cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế về chính trị và vật chất cho sự
nghiệp này, vì thế, Việt Nam chưa có sự hoạch định chính sách rõ ràng và cụ
thể đối với Vương quốc Anh, chỉ có mối quan hệ song phương giữa Việt Nam
Cộng hoà (chính quyền miền Nam Việt Nam) với Vương quốc Anh.
 Quan hệ Việt Nam Cộng hoà – Vương quốc Anh:
* Về ngoại giao: có thể điểm qua các sự kiện như chuyến thăm Vương
quốc Anh của ông Lê Văn Đồng (1957) [203], phái đoàn Việt Nam Cộng hoà
sang Vương quốc Anh để quan sát về kinh tế, thương mại (1958, 1959) [199,
200], Việt Nam Cộng hoà tham dự triển lãm tiểu công nghệ tại London
(Vương quốc Anh) (1959) [201, tr.2] - triển lãm không những là một dịp tốt
để giới thiệu với dân chúng của Vương quốc Anh đồ thủ công nghệ Việt
Nam, mà còn có ý nghĩa làm tăng cường mối giao hảo giữa Việt Nam Cộng
hoà và Vương quốc Anh.


Về phía Vương quốc Anh, phải kể đến chuyến thăm Việt Nam Cộng hoà
của Hầu tước Lord Reading (1956 – 1957) [204], ông Raymond Woodward đại diện cho Liên đoàn kỹ nghệ Anh (Federation of British Industries) sang
viếng thăm Việt Nam Cộng hoà với mục đích khảo sát tình hình kinh tế và
thương mại của Việt Nam Cộng hoà (1957) [194], Đài Vô tuyến truyền hình

BBC - một cơ quan do chính phủ Anh trợ cấp sang Việt Nam Cộng hoà quay
phim về các thực hiện của chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong mọi ngành
hoạt động quốc gia để chiếu trong chương trình Panorama của đài BBC giúp
phổ biến sự hiểu biết Việt Nam Cộng hoà tại Vương quốc Anh (8/1959)
[196], phái đoàn Nghị sĩ Anh viếng thăm Việt Nam Cộng hoà (1959) [195],
ông J.K.Thompson – Giám đốc Văn phòng viện trợ Kế hoạch Colombo tới
thăm Việt Nam Cộng hoà (1960) [197], Thứ trưởng thương mại Anh - nghị sĩ
Erroll sang viếng thăm Việt Nam Cộng hoà (1961) với mục đích nghiên cứu
với chính phủ Việt Nam Cộng hoà các phương pháp tăng cường giao dịch
thương mại giữa Việt Nam Cộng hoà và Vương quốc Anh, chuyến thăm Việt
Nam Cộng hoà của ông Lord Bridges - Chủ tịch Hội đồng Văn hoá Anh
(British Council) (1961), ông R.A.Nottage - Viện trưởng Viện Hành chính
Hoàng gia Anh qua thăm Học viện Quốc gia Hành chính Việt Nam (1961)
[198, tr.77, 100, 103], đặc biệt chuyến thăm Việt Nam Cộng hoà của Thứ
trưởng ngoại giao Anh – Kershaw (1970) - trở về Luân Đôn sau chuyến thăm
Việt Nam Cộng hoà, Thứ trưởng ngoại giao Anh đã thúc giục các kỹ nghệ gia
Anh nên quan tâm hơn về việc giao thương với Việt Nam Cộng hoà, bởi vì
theo Thứ trưởng ngoại giao Anh, Việt Nam Cộng hoà có thể trở thành một thị
trường rất quan trọng trong tương lai [206, tr.4].


* Trong quan hệ thương mại:
Từ năm 1960 – 1962, Việt Nam Cộng hoà xuất khẩu một số mặt hàng là
cao su, trà và nhập khẩu của Vương quốc Anh hàng tiêu dùng, phụ tùng thay
thế và nguyên liệu sản xuất [xem phụ lục 2, bảng 2 & 3, tr.98, 99].
Năm 1960, việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam Cộng hoà sang Vương
quốc Anh bắt đầu phát triển, và qua năm 1962, lại phát triển thêm nữa, nhờ thị
trường Anh tiêu thụ cao su của Việt Nam Cộng hoà nhiều hơn (5.573 tấn, trị
giá 128 triệu đồng năm 1960, 12.840 tấn, trị giá 231 triệu đồng năm 1961 và
13.287 tấn, trị giá 254 triệu đồng năm 1962). Trà của Việt Nam Cộng hoà bán

qua Vương quốc Anh cũng càng ngày càng nhiều: 28 triệu đồng năm 1960, 46
triệu đồng năm 1961 và 52 triệu đồng năm 1962 [202, tr.14].
Về hàng nhập khẩu từ Vương quốc Anh, Việt Nam Cộng hoà nhập giấy
và công phẩm bằng giấy nhiều hơn mọi năm: 20 triệu đồng năm 1962 so với 4
triệu đồng năm 1961 và 1960 [202, tr.26].
+ Những cơ sở kinh tế lớn nhất của Vương quốc Anh tại miền Nam Việt
Nam gồm có:
Hai nhà Ngân hàng “The Chartered Bank” và “The Honkong and
Shanghai Banking Corporation”. Hai cơ sở tín dụng này giúp một phần quan
trọng vào các nghiệp vụ xuất nhập khẩu của Việt Nam Cộng hoà và cũng góp
phần vào các công cuộc phát triển kỹ nghệ của Việt Nam Cộng hoà. Cả hai
đều thuộc về một tổ hợp ngân hàng thiết lập vào năm 1961 với sự tham gia
của các ngân hàng Việt Nam Cộng hoà và ngoại quốc khác, nhằm mục đích
thúc đẩy công cuộc kỹ nghệ hoá ở miền Nam Việt Nam.
Công ty Shell Việt Nam, trong đó vốn của Vương quốc Anh chiếm phần
lớn. Công ty này đứng hàng đầu về cung cấp sản phẩm dầu hoả cho Việt Nam
Cộng hoà, tiếp liệu 64% tổng số nhu cầu của Việt Nam Cộng hoà. Công ty
Shell Việt Nam đã cùng với công ty Esso ký kết với chính phủ Việt Nam


Cộng hoà một khế ước vào tháng 4/1962 để xây dựng một nhà máy lọc dầu
gần Nha Trang.
Hãng thuốc điếu MIC, với 50% vốn của Vương quốc Anh, mỗi tháng sản
xuất 150 triệu điếu thuốc. Công ty này còn góp phần vào việc phát triển trồng
thuốc lá Virginia ở miền Trung và đã đạt được nhiều kết quả tốt.
Ngoài ra, có nhiều công ty lớn khác của Vương quốc Anh có đặt chi
điếm ở miền Nam Việt Nam hoặc do các hãng Việt Nam hoặc Pháp làm đại
diện tại Việt Nam Cộng hoà. Vương quốc Anh không cấp viện trợ kinh tế cho
Việt Nam Cộng hoà, nhưng có một số chuyên viên Anh giúp Việt Nam Cộng
hoà trong khuôn khổ Kế hoạch Colombo [202, tr.14, 26].

Năm 1970, hãng Mranders Tam (Vương quốc Anh) đề nghị dự án xây
nhà máy phân bón tại Vũng Tàu với hình thức đầu tư quốc doanh [207, tr.14].
* Về chính sách viện trợ:
Viện trợ của Vương quốc Anh cho Việt Nam Cộng hoà từ năm 1964 –
1969 là trên 7 triệu Mỹ kim, năm 1970 là 908.020 Mỹ kim, năm 1971 là
391.000 Mỹ kim và 408.595 Mỹ kim trong năm 1972. Trong năm 1961,
Vương quốc Anh gửi một phái bộ cố vấn về hành chính và chính trị qua Việt
Nam Cộng hoà do Sir Robert Thompson lãnh đạo [206, tr.158]. Ngày
21/12/1972, một thoả ước giữa Vương quốc Anh và Việt Nam Cộng hoà được
ký kết theo đó chính phủ Anh thuận cấp cho Việt Nam Cộng hoà một tín dụng
không lời 1 triệu Anh kim (tương đương 2.400.000 Mỹ kim) để tài trợ các dự
án điện nước [206, tr.147].
* Về lĩnh vực y tế:
Từ năm 1966, Vương quốc Anh gửi một phái bộ y tế sang giúp bệnh viện
Nhi Đồng ở Sài Gòn gồm bác sĩ chuyên khoa và y tá [205, tr.10].


* Trong lĩnh vực văn hoá giáo dục:
Hàng năm một số sinh viên ở miền Nam Việt Nam được học bổng tu
nghiệp của Kế hoạch Colombo hay của British Council. Từ năm 1965 – 1968
có 47 học bổng, trong năm 1969 có 14 học bổng và năm 1970 có 23 học
bổng. Chính phủ Anh hàng năm cấp cho Việt Nam Cộng hoà 30 học bổng
dành cho công chức tu nghiệp.
Ngoài ra, Vương quốc Anh còn xây hai trường tiểu học tại Sài Gòn, biếu
các dụng cụ phòng thí nghiệm và sách vở cho các phân khoa Đại học [205,
tr. 10].
Đế quốc Mỹ ngày càng sa lầy và bế tắc ở Việt Nam. Nhất là từ sau cuộc
Tổng tiến công Mậu thân 1968, nhiều nước Tây, Bắc Âu ngày càng có thái độ
chuyển biến nhất định đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo hướng thực
tế hơn và tích cực hơn, trong đó có nhiều vị trong chính giới Anh đã đồng tình

và ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam [208, tr.4]. Vào
tháng 9/1970, một phái đoàn của Tổng công đoàn Anh (TUC) qua thăm Hà
Nội và tháng 10/1970, bà Nguyễn Thị Bình sang viếng thăm Luân Đôn
[203, tr.7].
Hiệp định Paris (1/1973) là một dấu mốc cực kỳ quan trọng trong quan
hệ giữa Việt Nam với các nước EU nói chung và Vương quốc Anh nói riêng,
vì từ thời điểm đó, hầu hết các nước EU và Vương quốc Anh đã có nhận thức
khác về tình hình Việt Nam. Khi Mỹ buộc phải rút quân đội ra khỏi miền
Nam Việt Nam, thì vấn đề sẽ chỉ còn là công việc nội bộ giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Do vậy, thái độ của các nước EU và Vương quốc Anh đối với
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày càng thực tế và tích cực. Tháng 2/1973,
phái đoàn Đảng Lao động Anh do ông James Callaghan dẫn đầu sang viếng
thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà [206, tr.149].


Đầu những năm 70, một số nước EU và đặc biệt là Vương quốc Anh đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (9/1973) [46, tr.94].
1.2. Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1973 đến năm 1990
Từ giữa những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam Cộng hoà và Vương
quốc Anh vẫn tiếp tục. Năm 1974, Vương quốc Anh cung cấp cho Việt Nam
Cộng hoà một tín dụng không lời tương đương 384.000 Mỹ kim [209].
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, uy tín của
Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Một nước Việt Nam thống nhất
có tiềm năng phát triển kinh tế và là một nhân tố mới, quan trọng ở Đông
Nam Á là đối tác mà nhiều nước trên thế giới tính đến trong quan hệ quốc tế
của họ. Các nước EU, đặc biệt là Vương quốc Anh ngày càng quan tâm đến vị
trí và vai trò của Việt Nam, một quốc gia độc lập và có chủ quyền.
Trên lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam và Vương quốc Anh thiết lập quan
hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 11/9/1973. Đại sứ Anh – John Fawcett đã gặp
gỡ hầu hết các lãnh tụ cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị (1975) và theo nhận xét của

ông thì Việt Nam dành ưu tiên cho việc phát triển kinh tế [210, tr.110].
Trên lĩnh vực hợp tác phát triển, Vương quốc Anh dành cho Việt Nam
nhiều viện trợ nhân đạo quan trọng bằng lương thực, thuốc men [209].
Thế nhưng tình hình diễn biến xấu đi từ cuối năm 1978, làn sóng công
kích Việt Nam chung quanh vấn đề người di tản bằng thuyền, vấn đề Việt
Nam vào Campuchia (1979) giúp đỡ nhân dân nước này lật đổ chế độ diệt
chủng. Các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc sự thật nên đã ảnh hưởng
tiêu cực đến mối quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh, do đó quan hệ giữa
hai bên không những không phát triển mà còn trải qua một khúc quanh lạnh
nhạt. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mà
trước hết phải kể đến sự cấm vận của Mỹ đã kéo theo hàng loạt nước, tổ chức


(trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) không cho Việt Nam
vay tiền. Ngoại giao của Việt Nam với các nước trong khu vực cũng ở mức
báo động vì vấn đề Campuchia.
Trước thực trạng đất nước khủng hoảng, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới
trong mọi lĩnh vực hoạt động. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành thực hiện thành công một số
hoạt động đối ngoại như ban hành luật đầu tư nước ngoài (1987) nhằm thu hút
vốn, công nghệ và kinh nghiệm của tư bản nước ngoài, rút hết quân đội khỏi
Campuchia (9/1989) [25, tr.331], cải thiện quan hệ với ASEAN làm cho tình
hình khu vực hoà dịu hơn, thực hiện bước đầu đối thoại với Hoa Kỳ để xích
lại gần nhau hơn.
Trên cơ sở đó, Việt Nam từng bước cải thiện quan hệ với các nước EU
nói chung và với Vương quốc Anh nói riêng. Quan hệ Việt Nam – Vương
quốc Anh đóng băng cho đến năm 1987 mới được nối lại và thực sự khởi sắc
vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Các công ty của Vương quốc
Anh vào Việt Nam sớm (1988 – 1989) nhưng thời gian đầu chủ yếu tập trung

vào dầu khí (70% tổng đầu tư) [258].
Như vậy, từ năm 1973 đến năm 1990, quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh nhìn chung chưa thực sự trở thành đối tác của nhau, chỉ với mức độ dè
dặt cẩn trọng và thường hợp tác trên lĩnh vực mang tính hỗ trợ nhân đạo nhằm
thăm dò thị trường. Vào cuối thập kỷ 80, khi Việt Nam giành được những
thành tựu quan trọng bước đầu trong việc thực hiện chính sách đổi mới và mở
cửa hội nhập với cộng đồng quốc tế, trong điều kiện mới, với những chuyển
biến tích cực từ phía Việt Nam cũng như sự tác động từ bên ngoài, Vương
quốc Anh ngày càng chú ý quan tâm hơn tới Việt Nam và coi việc thúc đẩy
quan hệ với Việt Nam là một ưu tiên trong đường lối đối ngoại ở Châu Á.


Những lợi thế của Việt Nam như vị trí địa - chiến lược quan trọng, nguồn lao
động trẻ, dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú… là mặt mạnh của
Việt Nam trong hợp tác với Vương quốc Anh. Cộng đồng người Việt Nam
sinh sống ở Vương quốc Anh có khả năng đóng vai trò quan trọng là “cầu
nối” tăng cường quan hệ. Mở rộng và tăng cường quan hệ với Vương quốc
Anh giúp Việt Nam khai thác được nguồn vốn, công nghệ, thị trường và
phương pháp quản lý hiện đại từ Vương quốc Anh, những lĩnh vực mà Vương
quốc Anh có nhiều kinh nghiệm quý báu và tiềm năng to lớn là chuyển giao
công nghệ hiện đại, đầu tư sản xuất công nghiệp, phát triển nông nghiệp, nông
thôn, văn hoá – giáo dục, y tế, đào tạo nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường, hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Việt Nam nhìn thấy ở
Vương quốc Anh những điều kiện thuận lợi như vậy và Vương quốc Anh
cũng tìm thấy ở Việt Nam một thị trường rộng lớn, một môi trường đầu tư hấp
dẫn. Đó là những nhân tố góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh ngày càng tăng cường và mở rộng trên mọi lĩnh vực.
 Tiểu kết chương 1
Điểm nổi bật trong quan hệ của Việt Nam với Vương quốc Anh giai
đoạn trước năm 1975 gắn với diễn biến của sự nghiệp đấu tranh giải phóng

dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Nhìn chung, cho tới
năm 1975, trong chính sách của mình, cả Việt Nam lẫn Vương quốc Anh với
tư cách là một thực thể kinh tế - chính trị đều chưa coi nhau là đối tác, và vì
thế mức độ quan hệ hầu như không có, hoặc nếu có thì cũng hết sức hạn chế.
Giai đoạn cuối năm 1970 – 1980, quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc
Anh bị tác động tiêu cực bởi sự kiện Campuchia. Năm 1986, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra chính sách đổi mới, chuyển hướng nền
kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường và
thực hiện chính sách mở cửa, “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính


sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả
năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [53, tr.47]. Năm 1987, Việt Nam ban hành luật
đầu tư nước ngoài, tạo nên những điều kiện và tiền đề quan trọng cho quan hệ
giữa Việt Nam với các nước thành viên EU nói chung và với Vương quốc
Anh nói riêng. Các nhà đầu tư của Vương quốc Anh có mặt tại Việt Nam
ngay từ năm đầu ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988) dưới
hình thức các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí (PSC).
Qua mấy năm thực hiện chính sách đổi mới (1986 – 1990), Việt Nam đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, bước đầu mở cửa và hội nhập với cộng
đồng quốc tế, làm cho bộ mặt đất nước thay đổi nhanh chóng. Quan hệ giữa
Việt Nam với Vương quốc Anh cũng được mở rộng đáng kể.


×