Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa từ ngữ địa phương Nam Bộ (trong thơ ca dân gian Nam Bộ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.5 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
 
 

TRẦN ĐỨC HÙNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ ­ VĂN HÓA
TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ
(TRONG THƠ CA DÂN GIAN NAM BỘ)

Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 0101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


VINH ­ 2016
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Phương ngữ nói chung, từ ngữ đia ph
̣
ương nói riêng la môt trong nh
̀ ̣
ững 
biểu hiện tính đa dang
̣  của ngôn ngữ dân tôc. Vì th
̣
ế nghiên cứu phương ngữ cũng 
như  từ  địa phương,  ở  bình diện cấu trúc hệ  thống hay mặt hành chức đều là sự 
cần thiết. Viêc nghiên c


̣
ưu t
́ ừ ngữ đia ph
̣
ương trong môt d
̣ ạng hoạt động cu thê là
̣
̉  
sáng tạo thơ  ca dân gian se gop phân lam sang to nh
̃ ́
̀ ̀
́
̉ ưng vân đê li thuyêt vê
̃
́ ̀ ́
́ ̀  hoạt 
động và vai trò của phương ngữ noi chung va t
́
̀ ừ đia ph
̣
ương noi riêng. Ngoài ra,
́
 
kết quả nghiên cứu cụ thể của luận án con gop phân
̀ ́
̀  làm rõ nét bưc tranh toan canh
́
̀ ̉  
của phương ngữ Việt và cho thấy sự sinh động đa dạng của ngôn ngữ dân tộc về 
mặt biểu hiện.

1.2.  Cũng như  lịch sử  vùng đất Nam Bộ, phương ngữ  Nam Bộ  mới được  
hình thành và phát  triển cách  đây hơn ba thế  kỉ. Về  nguồn gốc, từ  vựng  của  
phương  ngữ  Nam Bộ  có nhiều từ  ngữ  xuất phát từ  vùng Trung Bộ. Tuy nhiên, 
cùng với quá trình phát triển của lịch sử, các từ ngữ này đã dần tạo ra khác biệt ít 
nhiều về  ngữ âm, từ  vựng, ngữ pháp so với ngôn ngữ  toàn dân và các vùng khác.  
Sự  khác biệt  ấy không chỉ  góp thêm phần vào bức tranh đa dạng của ngôn ngữ 
tiếng Việt mà còn tạo nên những nét đặc trưng văn hóa sông nước Nam Bộ trong  
bức tranh đa sắc màu của văn hóa dân tộc. Vì vậy, từ  trước tới nay, phương ngữ 
Nam Bộ  đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm không chỉ  từ 
bình diện ngôn ngữ mà còn cả phương diện văn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn  
đề  từ  địa phương Nam Bộ  trong thơ  ca dân gian, một dạng hành chức đặc thù ­  
mang tính nghệ thuật của từ ngữ địa phương chưa được nghiên cứu theo cách tiếp 
cận nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ  ­ văn hóa. Do đó, nghiên cứu từ  ngữ   địa 
phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian dưới góc nhìn ngôn ngữ ­ văn hóa để chỉ ra  
những đặc trưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ càng trở nên 
cần thiết và hữu ích.
1.3. Nam Bộ  là vùng đất mới nhưng thơ ca dân gian Nam Bộ không những 
rất đồ sộ về số lượng sáng tác, đa dạng về loại thể mà còn mang đặc trưng vùng 
rõ nét. Tạo nên đặc trưng riêng về  ngôn ngữ  ­ văn hóa, nội dung nghệ  thuật của  
thơ ca dân gian Nam Bộ, một phần quan trọng là do từ ngữ địa phương đã được sử 
2


dụng với số lượng lớn và chúng đã phát huy được vai trò sáng tạo nghệ thuật dân  
gian của mình. Tuy nhiên, từ trước tới nay, việc tìm hiểu thơ ca dân gian Nam Bộ 
ở phương diện ngôn ngữ nói chung, và đặc biệt là nghiên cứu từ ngữ địa phương 
trong thơ ca dân gian Nam Bộ dưới góc nhìn của ngôn ngữ ­ văn hóa nói riêng vẫn 
chưa được quan tâm đúng mức. Đó chính là một trong những lí do quan trọng để 
chúng tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn   “Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ  ­  

văn hóa từ  ngữ  địa phương Nam Bộ  (trong thơ ca dân gian Nam Bộ)”  làm đề 
tài nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích mà luận án hướng đến là chỉ  ra các đặc trưng về  mặt ngữ âm, từ 
vựng ­ ngữ nghia, đ
̃ ộ  sâu phân loại, cách định danh, gia tri biêu tr
́ ̣ ̉ ưng… và cho thấy 
vai trò của từ địa phương (TĐP) trong thơ ca dân gian Nam Bộ (TCDGNB). Qua đó, 
luận án cung cấp thêm tư liệu góp phần làm rõ đặc điểm TĐP của người Việt vùng 
NB nói chung.
Luận án sẽ  cố  gắng chỉ  ra những giá trị  riêng biệt trong sự  phân cắt, phản 
ánh hiện thực và cách sử dụng từ ngữ của người Việt vùng Nam Bộ (NB), nêu rõ 
những nét riêng trong tính cách cũng như những dấu ấn văn hóa của con người nơi 
đây.
Luận án đề ra 2 nhiệm vụ cơ bản:
­ Tông quan các v
̉
ấn đề lí thuyết liên quan đến ngôn ngữ ­ văn hóa (NN­VH) 
cua 
̉ TĐP, làm cơ sở cho việc phân tích từ ngữ đia ph
̣
ương trong TCDGNB. 
­ Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích các tư liệu đã thu thập được để 
xác   định  các   đặc   trưng   NN­VH   cuả   từ  ngữ   điạ   phương   NB   thể   hiện  trên  các 
phương diện ngữ âm, ngữ nghia, đ
̃ ịnh danh, biêu tr
̉ ưng và vai tro ngh
̀ ệ thuật trong 
sang tac
́

́  thơ ca dân gian (TCDG).
3. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
Để  thực hiện đề  tài này, chúng tôi sử  dụng các phương pháp chủ  yếu  sau: 
Phương pháp thống kê, phân loại; Phương pháp miêu tả; Phương pháp so sánh, đối 
chiếu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc trưng NN­VH từ ngữ địa phương 
NB (trong TCDGNB) trên tư liệu 1667 từ ngữ địa phương NB thống kê được.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu của đề  tài là từ  ngữ  địa phương NB có mặt  
trong 6 cuốn sách quy mô nhất về sưu tập TCDG Nam Bộ: Văn học dân gian Bạc  
Liêu; Ca dao ­ dân ca Nam Bộ; Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long; Văn  
học dân gian Châu Đốc; Ca dao Đồng Tháp Mười; Ca dao ­ dân ca Nam kỳ  lục  
3


tỉnh.
5. Đóng góp của luận án
Lần đầu tiên đặc trưng NN­VH của từ địa phương NB trong TCDGNB được 
chỉ ra một cách hệ thống và vai trò của  TĐP đối với sáng tạo TCDGNB cũng được 
làm rõ. Kết quả của luận án là tư liệu hữu ích cho nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa 
NB và là tham khảo cần thiết đối với giảng dạy TCDG và địa phương học  ở 
trường phổ thông; góp phần giữ gìn và phát huy gia tri văn hóa truyên thông, nh
́ ̣
̀
́
ững  
nét đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của con người vùng đất phương Nam Tổ quốc. 
6. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Tai liêu tham khao
̀ ̣
̉  và Phụ  lục Bảng từ  địa  
phương được chú giải nghĩa, nôi dung chinh cua luân an g
̣
́
̉
̣ ́ ồm có bôn ch
́ ương:
Chương 1:  Tổng quan tình hình nghiên cứu và nhưng ti
̃
ền đề  lí thuyêt liên
́
 
quan đên đê tài
́ ̀
Chương 2:  Đăc tr
̣ ưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ  ngữ đia ph
̣
ương Nam Bộ  
xét ở phương diên bi
̣
ến thể ngư âm và t
̃
ừ vựng ­ ngư nghĩa
̃
Chương 3:  Đăc tr
̣ ưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ đia ph
̣
ương Nam Bộ  

xét ở phương diên đ
̣ ịnh danh
Chương 4:  Đăc tr
̣ ưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ đia ph
̣
ương Nam Bộ  
xét ở phương diên nghê thuât sáng tao th
̣
̣
̣
̣
ơ ca dân gian.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU                                                               
VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ ­ văn hoa cua t
́ ̉ ừ địa phương ở  
Viêt Nam
̣
Phương ngữ (PN) tiếng Viêt, nh
̣
ất là vấn đề  ngữ âm, từ lâu đã có nhiều tác 
giả nước ngoài và trong nước quan tâm nghiên cứu. Riêng hương nghiên c
́
ưu ng
́ ư ̃
nghia cua 
̃ ̉ TĐP găn v

́ ới văn hoa cua t
́ ̉ ừng vung g
̀ ần đây mới được chu y. 
́ ́
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ ­ văn hoa cua t
́ ̉ ừ địa phương ở  
vung Nam Bô
̀
̣
PNNB đã được các tác giả: Nguyễn Kim Thản, Nguyên Đ
̃ ức Dương, Trân
̀ 
Thi Ngoc Lang, Nguyên Văn Ai, Lê Trung Hoa... quan tâm theo h
̣
̣
̃
́
ướng thu thập vốn 
từ  hoặc nghiên cứu sự  khác biệt về  từ  vựng ­ ngữ  nghĩa so với từ  toàn dân; gần  
đây một số nhóm từ vựng PNNB được các tác giả như Lý Tung Hiêu, Huynh Công
̀
́
̀
 
Tin, Hô Xuân Tuyên...nghiên c
́
̀
ứu theo hương NN­VH.
́
  1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ ­ văn hoa t

́ ừ địa phương trong  
thơ ca dân gian Nam Bộ
4


Trong nhiêu năm tr
̀
ở lai đây, 
̣
một số nha nghiên c
̀
ưu cung đa tim hiêu
́ ̃
̃ ̀
̉  yếu tố 
PN trong TCDGNB theo hai hướng: môt là
̣ , chú ý cac đăc điêm cua PN (Nguyên Thi
́ ̣
̉
̉
̃
̣ 
Phương Châm, Trần Phỏng Diều, Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Văn Nở, Trần Thi Di
̣ ễm  
Thúy, Trần Minh Thương...); hai là, nghiên cứu một vài biểu hiện về ngôn ngữ và 
văn hóa của TĐP (Trần Văn Nam, Bùi Thị  Tâm, Huỳnh Công Tín...). Nhìn chung, 
cho đên th
́ ơi điêm hiên tai,
̀
̉

̣
̣  đặc điểm ngôn ngữ  ­ văn hóa  TĐP  trong PNNB noí 
chung va trong TCDGNB noi riêng 
̀
́
chưa được nghiên cứu sâu và hệ thống; vai trò 
của từ ngữ địa phương trong sáng tạo TCDG cũng như những giá trị  văn hóa của 
nó thì vẫn chưa tác giả nào tập trung làm rõ. Do vậy, cần co môt s
́ ̣ ự nghiên cưu sâu
́
 
hơn, bao quat 
́ và hệ thống hơn TĐP trong TCDGNB tư ph
̀ ương diên NN­VH.
̣
  
1.2. Những tiền đề lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ ­ văn hóa
1.2.1.1. Từ ngôn ngữ đến ngôn ngữ thơ ca
Theo F. de Saussure: “ngôn ngữ  là một hệ  thống dấu hiệu nhiều tầng được 
người bản ngữ  chấp nhận, ghi nhớ, hiểu và sử  dụng trong khi giao tiếp với cộng  
đồng”.
Văn học nghệ  thuật là một dạng giao tiếp đại chúng nên chất liệu ngôn  
ngữ được sử  dụng là ngôn ngữ tự  nhiên. Trong  TCDG, ngôn ngữ được sử dụng 
có nguồn gốc dân dã, thê hiên ban chât 
̉
̣
̉
́ bình dị, chất phác, hồn nhiên của người 
dân lao động. Ngôn ngư găn liên v

̃ ́
̀ ới đia ban c
̣
̀ ư  tru va mang đăc tr
́ ̀
̣ ưng văn hoá 
cua công đông đo.
̉
̣
̀
́
1.2.1.2. Quan niệm về văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam
a. Các quan niệm về văn hóa
Sau khi trình bày quan niệm về  văn hóa cho tới nay chưa có sự  thống nhất 
giữa các nhà nghiên cứu nước ngoài và trong nước là do nhiều nguyên nhân, dựa 
trên các định nghĩa đã chọn nêu, để  thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dư ̃
liệu khi nghiên cứu, chúng tôi quan niệm: Văn hóa là một hệ  thống tất cả  những  
giá trị  vật chất và tinh thần mang tinh biêu t
́
̉ ượng do con người tạo ra qua quá  
trình đấu tranh sinh tồn và phát triển. Văn hóa được tạo ra bởi cộng đồng người  
theo tưng n
̀
ơi cư  tru và làm cho c
́
ộng đồng người đó có những đặc trưng riêng  
biệt.
b. Các vùng văn hóa Việt Nam
Sau khi nêu cách phân chia vùng văn hóa Việt Nam của các nhà nghiên cứu 
và cho thấy tuy kết quả phân chia số lượng vùng văn hóa không giống nhau nhưng  

phần đông các nhà khoa học đều xem Nam Bộ là một vùng văn hóa. Để làm cơ sở 
cho việc nghiên cứu đề  tài, chúng tôi chấp nhận quan điểm  xem NB là một vùng 
5


văn hóa lớn.
1.2.1.3. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Ngôn ngữ  và văn hóa có quan hệ  hữu cơ  với nhau. Mối quan hệ  này được  
thể hiện ở 5 phương diện: Ngôn ngữ là bộ phận của văn hóa; Văn hóa vừa có tính  
phổ quát vừa có tính đặc trưng hay tính nhân loại và tính đặc thù; Ngôn ngữ là một 
phần của văn hóa; Ngôn ngữ  biến đổi chậm hơn văn hóa; Quá trình tiếp xúc với  
các dân tộc khác dẫn đến sự thay đổi ít nhiều của văn hóa.
Ngôn ngữ  vừa là thành tố  vừa là phương tiện biểu hiện văn hóa vì thế  n ôị  
dung luân an nay nghiên c
̣ ́ ̀
ưu đ
́ ặc trưng văn hoa thê hiên ngay trong ban thân các t
́ ̉
̣
̉
ư ̀
ngữ đia ph
̣
ương. Dưới góc độ  NN ­VH, qua vốn từ  ngữ  địa phương NB, luận án 
nêu và phân tích  những sự  khác biệt về  thói quen  ứng xử, thói quen tư  duy liên 
tưởng của cộng đồng người dân địa phương NB so với các vùng địa phương khác.
1.2.2. Phương ngữ tiếng Việt và từ ngữ địa phương Nam Bộ
1.2.2.1. Phương ngữ và lịch sử nghiên cứu phương ngữ
PN đã được các nhà văn hóa và các nhà khoa học trên thế  giới quan tâm  
nghiên cứu từ  thời kỳ  Trung cổ.  Ở  Việt Nam , PN bắt đầu được đề  cập đến từ 

những năm đầu thế  kỉ  XX, đến nay đã có nhiều học giả  và nhiều nhà ngôn ngữ 
học quan tâm, nghiên cứu trên nhiều bình diện với quy mô khác nhau, như: Nguyễn 
Trọng Hoàn, Bình Nguyên Lộc, Nguiễn Ngu Í,  Cao Xuân Hạo, Hoàng Thị  Châu, 
Đinh Lê Thư, Hoàng Cao Cương, Võ Xuân Trang, Phạm Văn Hảo, Nguyễn Quang, 
Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Đức Dương, Nguyễn Văn Ái, Trân Thi Ngoc Lang,
̀
̣
̣
 
Nguyễn Nhã Bản, Hoang Trong Canh, Nguy
̀
̣
ễn Văn Nguyên, Huynh Công Tin…
̀
́
1.2.2.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt
Ngoài  đặc điểm chung, mỗi vùng phương  ngữ  luôn có những  đặc trưng 
riêng. Cho nên nghiên cứu phương ngữ  phải gắn với từng vùng phương ngữ  cụ 
thể. Cho đến nay, ý kiến của các nhà nghiên cứu là không giống nhau  về số lượng, 
ranh giới các vùng PN tiếng Việt. Có tác giả  chia PN Việt thành hai vùng, có tác  
giả chia thành bốn vùng, có tác giả lại chia thành năm vùng,…Quan điểm chia PN 
tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ  lớn  (PN Bắc (Bắc Bộ), PN Trung (Bắc  
Trung Bộ) và PN Nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ) là cách chia được phần đông 
tác giả thể hiện trong các nghiên cứu. Vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu trong luận 
án liên quan đến một PN cụ thể là PNNB, thuộc vùng PN Nam. PNNB được hình 
thành và phát triển cùng với tiến trình phát triển lịch sử 300 năm của vùng đất mới  
Nam Bộ.
1.2.2.3. Khái niệm từ địa phương và từ ngữ địa phương Nam Bộ
Về  khái niệm  từ  địa phương,  mỗi tác giả  có cách định nghĩa riêng nhưng  
6



giữa các tác giả đều thống nhất trên hai nét cơ  bản: Thứ  nhất,  từ  địa phương là  
những từ bị hạn chế về phạm vi địa lí sử dụng;  Thứ hai, từ địa phương có sự khác  
biệt nhất định về ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân.
Về khái niệm từ ngữ địa phương NB, chúng tôi xác định: từ ngữ địa phương  
NB là những từ ngữ được người dân vung NB quen dùng, có s
̀
ự khác biệt nhất định  
về âm, nghĩa hay ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân.
1.2.3. Thơ ca dân gian với việc sử dụng từ ngữ địa phương
1.2.3.1. Vùng đất và con người Nam Bộ
a. Khái quát về vùng đất Nam Bộ
NB là một vùng đất cuối cùng phía Nam của Tổ  quốc, nằm chủ  yếu  ở  hạ 
lưu của hai con sông Đồng Nai và Cửu Long. Về  địa lý tự  nhiên, NB được chia 
thành hai khu vực lớn, bao gồm: các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Thành phố  Hồ  Chí  
Minh và các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Về tên gọi, mảnh đất NB đã có nhiều 
tên gọi khác nhau qua các thời kì lịch sử. NB là địa bàn cư trú của nhiều tộc người  
khác nhau, gồm Việt, Hoa, Chăm, Khmer nên văn hóa ­ tín ngưỡng  của mọi cộng 
đồng đều có sự giao thoa lẫn nhau.
b. Về con người Nam Bộ
Con người NB là con người tứ chiếng bởi họ đến đây sinh tồn lập nghiệp từ 
nhiều vùng đất khác nhau. Do hoàn cảnh lịch sử, địa lí, xã hội, cùng sống trong môi 
trường sông nước đặc trưng, do đó, người Nam Bộ  có đặc trưng tính cách riêng. 
Nói đên con ng
́
ươi NB là noi đên tinh cach: tr
̀
́ ́ ́
́

ọng nghĩa khinh tài, lạc quan, bộc 
trực, thẳng thắn, hào phóng và hiếu khách...
1.2.3.2. Khái quát về thơ ca dân gian Nam Bộ
Cùng với TCDG các vùng, TCDGNB cũng có các mảng chủ đề  chung mang 
tính thống nhất làm thành dòng chảy của TCDG dân tộc .  Tuy nhiên, trong dòng 
chảy chung và thống nhất  ấy, TCDGNB lại thể  hiện những sắc thái riêng mang 
tính địa phương độc đáo.
1.2.3.3. Khái quát về từ ngữ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ
TCDGNB là những câu hò bài hát được tạo ra trực tiếp trong lao động nên hơn bất 
cứ sáng tạo nghệ thuật nào, TCDGNB sử dụng rất nhiều từ địa phương, những từ  ngữ 
mà người lao động vốn quen dùng trong cuộc sống hàng ngày.  Từ  ngữ  địa phương 

trong TCDGNB là từ  ngữ  của người lao động vùng sông nước đi mở  mang chinh  
phục vùng đất mới nên luôn đầy sức sống, tác động mạnh vào mọi giác quan của 
người nghe, mang đặc điểm ngôn ngữ ­ văn hóa của vùng.
1.3. Tiểu kết chương 1
7


Trên đây là những tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lí thuyết  
liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Chúng tôi vận dụng các cơ sở lí thuyết  
này trong việc khảo sát, phân tích và lí giải các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa, định  
danh, biểu trưng cũng như vai trò của từ ngữ địa phương NB trong TCDG NB.

8


Chương 2
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ ­ VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ 
XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN BIẾN THỂ NGỮ ÂM VÀ TỪ VỰNG ­ NGỮ NGHĨA

2.1. Dẫn nhập
Để tìm hiểu các phương diện của từ ngữ NB, chúng tôi khảo sát vốn từ ngữ 
địa phương có trong 6 tác phẩm chính (xem mục 4). Tổng số từ ngữ thu được trong 
các tác phẩm là 1667 đơn vị, với 16016 lần xuất hiện, trong đó có 1200 từ ngữ địa 
phương, với 14852 lần xuất hiện và 467 từ  ngữ  chỉ  địa danh, với 1164 lần xuất 
hiện.
2.2. Biến thể ngữ âm của từ địa phương Nam Bộ trong thơ ca dân gian
2.2.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.1. Lớp từ biến thể ngữ âm
Lớp từ  Biến thể  Biến thể 
vần
biến âm âm đầu

Biến thể  Biến thể âm đầu và thanh 
thanh 
điệu hoặc vần và thanh 
điệu
điệu

Tổng

Số 
lượng

46

231

13


4

294

Tỉ lệ %

15,6%

78,6%

4,4%

1,4%

100

2.2.2. Các dạng biến thể ngữ âm của từ địa phương Nam Bộ
2.2.2.1. Dạng biến thể phụ âm đầu của từ địa phương Nam Bộ
Biến thể  phụ âm đầu xảy ra  ở  các cặp phụ  âm: s/x, r/d/gi, tr/ch; d/đ; kh/g;  
l/nh; nh/c; v/ng; th/s,...
2.2.2.2. Dạng biến thể phần vần của từ địa phương Nam Bộ
­  Hiện tượng biến thể  có quan hệ  đối  ứng 1/1 gồm: biến thể   ở  âm chính, 
biến thể ở âm cuối, âm đệm ­ âm chính, âm chính ­ âm cuối, cả âm đệm ­ âm chính ­  
âm cuối. 
­ Hiện tượng biến thể  có quan hệ  đối  ứng 1/ hơn 1, như:  chơn ­ chưn ­  
chân; doan ­ dươn ­ duyên; dìa ­ vìa ­ về; hạp ­ hiệp ­ hợp; ngãi ­ ngỡi ­ nghĩa... 
2.2.2.3. Dạng biến thể thanh điệu của từ địa phương Nam Bộ
Trong TCDGNB, thanh ngã phát âm thành thanh hỏi xuất hiện không nhiều. 
song vẫn có cả  từ  biến âm rút gọn từ  các cụm từ   ở  ngôi thứ  ba, một hình thức 
biến thêr rất điển hình của cách phát âm “thanh hỏi hóa” đặc trưng Nam Bộ: ổng/  

ông ấy, bả/ bà ấy, trển/ trên ấy, bển/ bên ấy... 
Ngoài ra, hiện tượng biến âm còn được thể hiện rất đa dạng ở những nhóm 
9


thanh điệu khác như: bợ ngợ / bỡ ngỡ (. / ~); dọ / dò (. / \); vầy / vậy (\ /.),...
2.2.2.4. Dạng biến thể âm đầu và thanh điệu hoặc vần và thanh điệu của từ  
địa phương Nam Bộ
Trong PNNB, lớp từ biến âm còn có dạng biến thể nhiều hơn một bộ phận  
của âm tiết như: ghiền/ nghiện; hẩng hờ/ hững hờ; nghe/ nhé...
Tóm lại, hiện tượng biến âm của PNNB tạo nên sự khác biệt về hình thức so  
với từ  toàn dân. Sự  xuất hiện nhiều về  số  lượng các loại biến thể  ngữ  âm trong  
TCDGNB cho thấy diện mạo và đặc trưng riêng về  NN­VH của lớp TĐP trong  
PNNB.
2.3. Đặc trưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ địa phương Nam Bộ qua 
các hiện tượng biến thể từ vựng ­ ngữ nghĩa
2.3.1. Lớp từ ngữ địa phương chỉ địa danh vùng Nam Bộ
2.3.1.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện loại địa danh trong TCDGNB
STT
1
2

Loại địa danh

Số lượng

Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên
Địa danh chỉ các đối tượng nhân văn
Tổng


104
363
467

Tỉ lệ 
Tỉ lệ 
Tần số
%
%
22,3
136
11,7
77,7
1028
88,3
100
1164
100

Trong TCDGNB, địa danh NB chủ yếu liên quan đến địa hình sông nước. Từ 
ngữ chỉ địa danh nhân văn có số lượng lớn và tần số xuất hiện cao; điều đó phản 
ánh vai trò của con người trong việc chinh phục vùng đất mới.   
a. Thành tố chung và thành tố riêng của địa danh vùng NB
Các thành tố  địa danh NB có sự  đa dạng về  cấu tạo. Trong tổng số 467 từ 
ngữ  chỉ  địa danh, có 157 từ  có chứa thành tố  chung, tần số  xuất hiện là 253 lần. 
Cấu tạo của thành tố chung chủ yếu là cấu tạo đơn (trên 99%). Về thành tố riêng, 
vùng đồng bằng có số lượng từ nhiều nhất là 350 từ, thường gắn liền với địa danh 
kiến tạo, tiếp đến là vùng sông nước với 87 từ, ít nhất là vùng đồi núi chỉ với 30  
từ. 

b. Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi địa danh vùng NB
Các từ  ngữ  chỉ  địa danh NB có nguồn gốc rất đa dạng,   nhiều nhất là địa 
danh gốc Hán (51,6%), tần số  726 lần (62,4%); địa danh thuần Việt có 106 từ 
(22,7%), với 169 lần xuất hiện (14,5%); địa danh gốc Khmer có 74 từ (15,8%), với  
210 lần xuất hiện (18%). Ít nhất địa danh nguồn gốc hỗn hợp, chỉ  21 từ  (4,5%), 
xuất hiện 24 lần (2,1%). Kết quả trên cho thấy NB là vùng đất có sự  kết hợp và 
10


giao thoa đa NN­VH.
2.3.1.2. Dấu ấn ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ chỉ địa danh vùng Nam Bộ
a. Địa danh thể hiện đặc điểm địa chất và các dạng địa hình qua các yếu tố 
chung, chẳng hạn: ấp Trung, cù lao ông Chưởng, giồng Trôm...
b. Trong TCDGNB, văn hóa tín ngưỡng thể hiện rất rõ qua các  địa danh chỉ 
di sản vật thể liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, sự tri ân các anh hùng dân tộc, 
tên các công trình do chế  độ  cũ để  lại, tục kiêng húy tên của thần linh, vua chúa, 
hoàng tộc...
c. Về  văn hóa sinh hoạt, TCDGNB đã ghi lại những địa danh gắn liền với 
đặc điểm vị trí quần cư của người dân nơi đây, như: cù lao, giồng, gò, núi, hòn... 
d. Địa danh trong TCDGNB phản ánh diện mạo văn hóa của vùng đất NB 
với những lễ  hội truyền thống nổi tiếng, những sản phẩm của các làng nghề 
truyền thống và sản vật của địa phương nổi tiếng.
e. Các tên gọi địa danh được dùng để  thể  hiện nguyện vọng,  ước mơ  của 
người dân trong công cuộc khẩn hoang và phát triển vùng đất mới. 
f. Các tác giả dân gian sử dụng địa danh với ý nghĩa ẩn dụ, biểu trưng nghệ 
thuật. Chẳng hạn: Châu Đốc, Nam Vang, Cầu Ô, Sài Gòn, Mĩ Tho, Bến Thành…
2.3.2. Lớp từ ngữ địa phương chỉ sông nước vùng Nam Bộ
2.3.2.1. Xét về cấu tạo
Bảng 2.6. Số lượng và tần số xuất hiện xét về phương diện cấu tạo
của từ ngữ chỉ sông nước trong TCDGNB

Cấu tạo

Số lượng

Tỉ lệ %

Tần số xuất 
hiện

Tỉ lệ %

Từ đơn

28

22,6

547

59,1

Chính phụ

81

65,3

339

36,6


Ghép láy

4

3,2

6

0,6

Đẳng lập

0

0

0

0

Từ láy

11

8,9

34

3,7


Tổng

124

100%

926

100%

Từ ghép

Số  liệu  ở  bảng  trên  cho thấy  cấu tạo của từ  địa phương chỉ  sông nước trong  
TCDGNB chủ yếu là từ ghép chính phụ, không có từ ghép đẳng lập; những từ mà chúng 
tôi gọi là ghép láy là do các yếu tố phụ có quan hệ ngữ âm theo dạng láy nhưng thực chất  
cấu tạo của từ là ghép chính phụ  nên có thể nói từ ngữ  chỉ sông nước có tính biệt loại, 
tính cá thể, cụ thể cao về nghĩa. Điều đó góp phần làm cho bức tranh hiện thực về thiên 

11


nhiên và đời sống hiện lên trong  TCDGNB rất cụ thể và sinh động.

2.3.2.2. Xét về từ loại
Trong 124 từ ngữ  chỉ  sông nước, danh từ  có số  lượng nhiều nhất, gồm 103 
từ, chiếm 83,1%; tiếp đến là động từ, gồm 17 từ, chiếm 13,7%; ít nhất là nhóm 
tính từ, gồm 4 từ, chỉ chiếm 3,2%. 
2.3.2.3.   Dấu   ấn   ngôn   ngữ   ­   văn   hóa   của   từ   ngữ   chỉ   sông   nước   trong  
TCDGNB

a. Đây là lớp TĐP gọi tên đối tượng phong phú, đa dạng mang đậm sắc thái 
địa phương. Chẳng hạn, xáng, ghe...
b. Qua tên gọi, ta thấy hiện lên mảnh đất NB với đặc điểm điểm địa lý nổi 
bật là hệ  thống kênh rạch chằng chịt, gồm:  rạch, xẻo, bưng, láng, lung, gành,  
xáng...
c. Nhiều từ ngữ liên quan đến sông nước trong TCDGNB được sử dụng theo 
phương thức chuyển nghĩa nhằm thể  hiện cách tri nhận của các tác giả  dân gian 
về sự vật, hiện tượng vùng sông nước mang đặc trưng địa phương, như:  sình, cù 
lao, lội, chịu sào, lịch, láng cò... 
d. Những sự vật gắn vơi vùng sông nước quen thuộc đi vào TCDGNB và đã 
trở thành hình ảnh biểu trưng (chúng tôi sẽ phân tích cụ thể ở chương 4).
Như vậy, Qua lớp từ ngữ chỉ sông nước, chúng ta thấy được phần nào cách 
lựa chọn các đặc trưng sự vật, cách phân cắt hiện thực khách quan, cùng với cách  
lựa chọn hình ảnh của tác giả dân gian với những đặc trưng rất độc đáo nhưng lại  
rất gần gũi với cộng đồng người dân vùng sông nước NB.
2.3.3. Lớp từ ngữ địa phương chỉ thiên nhiên, miệt vườn vùng Nam  
Bộ
2.3.3.1. Xét về cấu tạo
Bảng 2.8. Số lượng và tần số xuất hiện xét về phương diện cấu tạo
của từ ngữ chỉ thiên nhiên, miệt vườn trong TCDGNB
Cấu tạo

Số lượng

Tỉ lệ %

Tần số xuất 
hiện

Tỉ lệ %


Từ đơn

43

34,4

786

69,7

Chính phụ

78

62,4

334

29,6

Đẳng lập

1

0,8

1

0,08


Từ láy

3

2,4

7

0,62

Tổng

125

100%

1128

100%

Từ ghép

12


2.3.3.2. Xét về từ loại
Trong 125 từ ngữ đã thống kê, danh từ là nhóm có số lượng nhiều nhất  (106 
từ (chiếm 84,8%), tần số sử dụng cao, nhóm tính từ chỉ có 16 từ (chiếm 12,8%), ít  
nhất là nhóm từ động từ, chỉ có 3 từ (chiếm 2,4%).

2.3.3.3. Những dấu  ấn ngôn ngữ  ­ văn hóa của từ  ngữ  chỉ thiên nhiên, miệt  
vườn trong TCDGNB
a. Trước hết, TCDGNB đã ghi lại cảnh thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt, 
gồm các tên gọi như: bưng, biền, bưng biền,...
Đó là vùng đất hoang sơ, sình lầy, cây cối rậm rạp với những loài thú hung 
dữ, nguy hiểm, luôn rình rập, đe dọa tính mạng con người: sấu, cọp, ác, rít,...
b. Tác giả dân gian cũng đã dùng một lớp TĐP đa dạng để  gọi tên thực vật 
như: bần, bàng, còng, lác, tràm, bình bát, kèo nèo, lúa ma, xa cừ,... tên gọi động vật 
như: ác, cọp, rít, bồng bồng, chim quyên, cò ma, cồng cộc, le le, thằng chài,...
c. Ngoài những sản vật từ thiên nhiên ban tặng, TCDGNB còn giới thiệu sự 
giàu có về sản vật từ các miệt vườn, như: chôm chôm, mãng cầu, sầu riêng...
d. Con người NB chủ yếu gắn bó với các miệt vườn nên những món ăn hàng  
ngày của họ rất đạm bạc, cá và các loại rau trồng trong vườn.
Như  vậy, qua sự  đa dạng của các tên gọi phản ánh thiên nhiên, miệt vườn  
chúng ta nhận thấy khả  năng tri nhận sâu sắc về  các sự  vật, cách lựa chọn hình 
ảnh đặc trưng của các tác giả dân gian độc đáo, gần gũi, ngôn ngữ chân chất như 
lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân địa phương. Tất cả  đã tạo nên cái văn 
minh miệt vườn tiêu biểu của vùng đất phương Nam của Tổ quốc.
2.3.4. Lớp từ ngữ xưng hô địa phương Nam Bộ
2.3.4.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.10. Số lượng và số lần xuất hiện của các nhóm từ xưng hô
Nhóm từ xưng hô
Danh từ thân tộc
Thứ tự sinh
Đại từ nhân xưng
Tổng

Số 
lượng
9

9
7
25

Tỉ lệ 
%
36
36
28
100

Số lần xuất hiện
189
38
723
944

Tỉ lệ 
%
19,9
4,0
76,1
100

2.3.4.2. Các nhóm từ xưng hô trong thơ ca dân gian
a. Dùng danh từ thân tộc 
Một đặc điểm  rất  nổi bật  về  xưng hô trong TCDGNB là từ  xưng hô chỉ 
quan hệ trong gia đình được dùng phổ biến ngoài xã hội, như:  cậu ­ con, mợ ­ con,  
bà ­ con,…
13



Ngoài ra, danh từ thân tộc con có thể kết hợp với tính từ nhỏ (như: con nhỏ,  
thằng nhỏ, vợ nhỏ…) lâm thời làm từ xưng gọi, dùng khá phổ biến.
 b. Dùng nhóm từ xưng hô theo thứ tự sinh
Xưng hô theo từ chỉ thứ tự sinh hay xưng hô kết hợp giữa danh từ thân tộc 
và từ gọi theo thứ tự sinh cũng là một lối xưng hô độc đáo của người dân NB, kiểu  
như: Tư, Năm,…má Bảy,... cậu Ba, mợ Ba, cô Năm, em Hai ... Phải chăng, đây cũng 
là một nét  biểu hiện của văn hóa cởi mở, mộc mạc, hòa đồng của người NB.
c. Dùng đại từ nhân xưng
Trong TCDGNB, các tác giả dân gian sử dụng từ xưng hô là các đại từ biến 
âm rút gọn: ổng, bả, chỉ với sắc thái nghĩa trung tính để  chỉ  người  ở  ngôi thứ  ba. 
Đây là các đại từ đặc biệt của PNNB. Trong TCDGNB còn có đại từ xưng hô bậu,  
qua. Đây là những từ  có nguồn gốc từ  tiếng Triều Châu đã được Việt hóa hoàn 
toàn. 
Như  vậy, cách dùng từ  xưng hô để  xưng gọi  ở  đây thể  hiện sự  mộc mạc, 
bình dân, rất cởi mở, phóng khoáng và luôn thấm đậm tình cảm thân thiết. Đó là 
những nét sắc thái văn hóa riêng của người dân NB trong xưng hô.
2.3.5. Lớp từ ngữ địa phương đồng nghĩa với từ toàn dân
2.3.5.1. Thống kê định lượng
Bảng 2.11. Số lượng từ ngữ địa phương NB đồng nghĩa trong TCDG
phân theo các tiểu loại 
Các tiểu loại đồng nghĩa của từ địa 
Số lượng
Tỉ lệ %
phương trong TCDGNB
Đồng nghĩa phong cách
294
75,0
Đồng nghĩa ý niệm

43
11,0
Đồng nghĩa ý niệm ­ phong cách
55
14,0
Tổng
392
100
2.3.5.2. Các nhóm từ đồng nghĩa trong thơ ca dân gian Nam Bộ
a. Nhóm từ đồng nghĩa phong cách
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy từ  địa phương NB đồng nghĩa phong cách 
với từ toàn dân ở nhiều từ loại, gồm: 
­ DT: heo ­ lợn; nón ­ mũ; sáo ­ mành; sình ­ bùn ... 
­ ĐgT: mướn ­ thuê; xá ­ vái; ẵm ­ bồng ­ bế; leo ­ trèo; nói láo ­ nói dối...
­ TT: ốm ­ gầy; cứng ­ rắn; lẹ ­ nhanh chóng; mắc ­ đắt; sình ­ ươn... 
­ ĐT: bay ­ bọn mày, chúng mày; chi ­ gì; chi vầy ­ gì vậy... 
Nằm trong sự  đối lập đồng nghĩa, từ  toàn dân thường trung  hòa về  phong 
cách, còn  TĐPNB lại  mang tính biểu cảm, thể  hiện  rõ nét sắc thái  văn hóa địa 
phương. Nguyên nhân của sự khác nhau này một phần là do hiện thực  được phản 
14


ánh là hiện thực NB, một phần là do thói quen nói năng của người ĐP vẫn dùng 
nhiều   từ   cổ   của   tiếng  Việt,  như:  bể   (vỡ),  bợ   (đỡ),   bông  (hoa),  heo   (lợn),  lẹ  
(nhanh), lượm (nhặt), lu (mờ), giỡn (đùa), mùng (màn)...
b. Nhóm từ đồng nghĩa ý niệm
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có các từ đồng nghĩa ý niệm như: ác ­ quạ;  
chỉ điều ­ chỉ đỏ; chú ủi ­ lợn; cù lần ­ chậm chạp; eo ­ teo tóp; vườn ­ quê.... 
Các từ  đồng nghĩa ý niệm  trong TCDGNB có  sự  phân biệt với nhau về 
những sắc thái nghĩa cơ bản nên chúng có vai trò hết sức quan trọng trong việc thể 

hiện tư tưởng, tình cảm của chủ thể sử dụng ngôn ngữ, đồng thời làm cho lời thơ 
trở nên ý nhị, sâu xa hơn. Ví dụ: đành thể hiện sự hài lòng, chấp nhận vì thỏa mãn 
với các tiêu chí đã đề  ra; ưng thể  hiện sự   ưng thuận, đồng ý ở  phương diện tình 
cảm. 
c. Nhóm từ đồng nghĩa ý niệm ­ phong cách
Đây là loại từ đồng nghĩa phân biệt với nhau cả về sắc thái ý nghĩa chung và 
cả về màu sắc phong cách, như: dơ ­ bẩn; cưng ­ chiều; lục bình ­ bèo tây; nhậu ­  
ăn/ uống...  Các  TĐPNB hầu hết có nghĩa biểu hiện rộng hơn và mang sắc thái 
biểu cảm tinh tế hơn so với từ toàn dân, phù hợp với thực tế và thói quen  ứng xử 
VH của người dân nơi đây.
2.4. Tiểu kết chương 2
Ở chương này, luận án đã phân tích các lớp từ  ngữ  có hiện tượng biến thể 
ngữ  âm, biến thể  từ  vựng ­ ngữ  nghĩa. Qua mỗi lớp từ, chúng tôi thấy từ  địa 
phương NB có sự  thể  hiện đa dạng cả  về  số  lượng và ngữ  nghĩa và có sự  khác 
biệt với NNTD. Điều này đã tạo nên đặc trưng NN­VH riêng biệt của từ  ngữ địa  
phương NB.

15


Chương 3
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ ­ VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ
XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN ĐỊNH DANH
3.1. Khái niệm về định danh
Luận án đã chọn nêu định nghĩa về  định danh của một số  tác giả  trong và ngoài 
nước với cách hiểu chung: “Định danh chính là đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng”  
(Nguyễn Đức Tồn, 2008) và chỉ  ra đặc trưng sự  vật được lựa chọn qua tên gọi và cách 
thể hiện chúng trong ngôn ngữ là thể hiện đặc trưng văn hóa dân tộc và vùng miền.

3.2. Đặc trưng ngôn ngữ  ­ văn hóa thể  hiện qua  “độ  sâu phân loại” 

trong “sự phạm trù hóa hiện thực” của từ ngữ địa phương NB
3.2.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.1. Số lượng từ ngữ NB biểu thị “độ sâu phân loại”
Độ sâu phân loại của các nhóm từ
Số lượng
Tỉ lệ %
DT
51
45,1
Nhóm từ biểu thị  
113
30,8
ĐgT
39
34,5
chủng
TT
23
20,4
DT
170
66,9
Nhóm từ biểu thị loại
254
69,2
ĐgT
53
20,9
TT
31

12,2
Tổng
367
100
3.2.2. Nhóm từ biểu thị khái niệm chủng
3.2.2.1. Nhóm từ loại danh từ
So sánh với từ TD, nhóm từ này có 2 khác biệt:
Thứ  nhất, những từ  ngữ  địa phương biểu thị  những nội dung mà NNTD 
không có từ  ngữ  tương  ứng, như:   bưng,  bưng biền, châu thành, miệt vườn, tài  
công, tàu kê (tào kê), lạch... Đây là những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong giao tiếp 
của vùng NB.
Thứ hai, những từ địa phương NB mang đặc điểm chủng thì từ toàn dân lại 
mang đặc điểm của loại, như:  kẽm  (sắt, thép),  kiếng  (kính, gương),  nón  (nón, 
mũ)...
3.2.2.2. Nhóm từ loại động từ và tính từ
So sánh với từ TD, nhóm từ này có 2 khác biệt:
Thứ   nhất,   những   từ   ngữ   địa   phương   không   có   từ   ngữ   tương   ứng   trong  
NNTD, như:  chịu sào, láng nguyên, lạt nhách, lu câm, muồi, riu ríu, rối nùi, hân  
hấn... Trong đó, nhiều nhất là các từ thuộc từ loại TT.
Thứ hai, từ địa phương NB mang đặc điểm chủng thì từ  toàn dân lại mang  
16


đặc điểm của loại, như: cắn (đốt, chích); lụi (xiên, đâm, tiêm, chích); lội (bơi, đi); 
la (nói, gọi, kêu, mắng)... Trong đó, nhiều nhất là các từ thuộc từ loại ĐgT.
Có những từ mang đặc điểm của hai từ loại trở lên khác nhau. Chẳng hạn,  
từ  ngộ: xinh đẹp (TT), gặp nhau (ĐgT); láng cò: vùng trũng lớn ngập nước (DT), 
trắng xóa, khắp cả một diện rộng (TT)...
3.2.3. Nhóm từ biểu thị khái niệm loại
Về độ sâu phân loại, chúng tôi mô hình hoá, cụ thể như sau:

Mô hình bậc 1:  
Yếu tố chỉ loại
Yếu tố phân loại
Mô hình bậc 2:
Yếu tố phân loại
Yếu tố chỉ loại
Bậc 1
Bậc 2
3.2.3.1. Nhóm danh từ
­ Đối với các từ được phân loại ở mức độ  loại, nhóm từ này chủ  yếu là từ 
đơn. 
­ Đối với các từ  được phân loại  ở  mức độ  tiểu loại, nhóm từ này thể  hiện 
độ sâu phân loại theo hướng chi tiết hoá ở hai mức độ: bậc 1 và bậc 2. 
Những từ thuộc mô hình bậc 1 chiếm số lượng nhiều nhất, với 174/ 183 từ.  
Chẳng hạn, từ  ghe, xuồng,… Đối chiếu với từ thuyền trong NNTD, ghe lại được 
chia thành 26 loại và xuồng được chia thành 4 loại khác nhau. Sự đa dạng này đã 
phản ánh rõ môi trường tự nhiên và môi trường hoạt động cụ  thể  của sông nước  
NB.
Những từ  thuộc mô hình bậc 2 có số  lượng không nhiều, chỉ  có 9/ 183 từ,  
như: áo vá quàng, bánh bò bông, bánh tầm xe, giông khói đèn, thuốc bìa son... Tuy 
nhiên, đây lại là lớp từ góp phần biểu đạt tinh tế về hiện thực của người dân NB.
3.2.3.2. Nhóm động từ
Đối với nhóm từ thuộc cấp độ  loại, chúng có số lượng không nhiều, chỉ có 
5/ 56 từ, gồm:  bủa, gay, rổn, trót. Những từ  này không có từ  tương  ứng trong 
NNTD.
Đối với nhóm từ thuộc cấp độ  tiểu loại, những từ này chiếm số lượng lớn  
với 48/ 53 từ, như: bú thép, buộc đùm, chiều lòn, chim chạ, đánh đèo, kho tiêu... Về 
độ sâu phân loại, các ĐgT chỉ được phân loại ở bậc 1 mà không phân loại đến bậc  
2.
Trong nhóm ĐgT, có những từ  trong PNNB chỉ  tiểu loại dựa trên cơ  sở  từ 

chỉ chủng hoặc từ chỉ loại của NNTD. Chẳng hạn, buộc đùm, kho tiêu...
Có thể  thấy, trong PNNB, những từ  ngữ  được phân loại theo mức độ  tiểu  
loại có số lượng nhiều hơn trong NNTD. Trong đó, nhiều nhất là các từ phân loại 
dựa trên yếu tố  cơ  sở  là các từ  toàn dân như:  nướng trui, thả  lèo, vá quàng, xé  
17


phay...
3.2.3.3. Nhóm tính từ
Nhóm TT cũng là những từ phản ánh đặc trưng riêng của hiện thực NB mà 
không thể  nhầm lẫn với các địa phương khác, như: chơm bơm, đèo, êm rìu, héo  
xàu, non èo, ốm o, rã rượi, tèm hem... Trong đó, đặc trưng nhất là các TT chỉ mức 
độ.
Về độ sâu phân loại, nhóm TT cũng được phân loại theo hai mức độ: loại và 
tiểu loại. Tuy nhiên, nhóm TT chỉ loại chỉ có 2 từ: đèo và lang, các trường hợp còn 
lại là những từ thuộc tiểu loại. Trong tiểu loại, TT chỉ được phân loại ở bậc 1 mà 
không phân chia đến bậc 2, chẳng hạn: ốm o, héo queo, héo xàu...
Như  vậy, các từ  ngữ  chỉ  tiểu loại có số  lượng nhiều hơn cả.  Điều này  
chứng tỏ độ sâu phân loại của từ ngữ NB được chi tiết hóa rõ ràng hơn, sâu hơn so 
với NNTD.
3.3. Đặc trưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ địa phương NB qua cách  
định danh sự vật
3.3.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.2. Số lượng và số lần xuất hiện các nhóm từ chỉ sự vật
Số 
Tỉ lệ % Số lần xuất hiện Tỉ lệ %
lượng
Nhóm từ chỉ đồ vật, vật dụng
80 
47,6

417 
41,8
Nhóm từ chỉ động vật
48 
28,6
250 
25,05
Nhóm từ chỉ thực vật
33 
19,6
299 
29,95
Nhóm từ chỉ địa hình, địa vật

4,2
32 
3,2
Tổng
168 
100
998 
100
3.3.2. Các nhóm từ chỉ sự vật trong thơ ca dân gian Nam Bộ 
3.3.2.1. Nhóm từ chỉ đồ vật, vật dụng
Trong nhóm từ  này, chủ  thể  định danh đã dựa vào các đặc trưng khác nhau 
để gọi tên, đó là: hình dạng, kích thước, chất liệu, công dụng, động tác, âm thanh,  
cấu tạo, màu sắc, hoạt động...
Khi định danh, chủ thể định danh có thể nêu trực tiếp thuộc tính của sự vật.  
Chẳng hạn, lồng đèn, khăn lông...
Có khi thuộc tính của đối tượng được gọi tên không chỉ  có một đặc trưng  

mà có thể  có hai đặc trưng, như: khăn bàng lông thì ta có thể  dễ  dàng nhận thấy 
được hai đặc trưng chính là kích cỡ (bàng) và hình dạng (lông).
3.3.2.2. Nhóm từ chỉ động vật
Các tên động vật trong TCDGNB gắn liền với môi trường sống  ở  NB và  
quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của những người dân lao động như: cá, lịch,  
Nhóm từ chỉ sự vật

18


tép, nhái, cu, cưỡng... Đặc trưng hình thức được lựa chọn của nhóm từ  chỉ  động 
vật ở đây chủ yếu là: hình dạng, kích thước, cấu tạo, màu sắc và hoạt động. 
Cách định danh các loài động vật khác gắn liền với môi trường sống tự 
nhiên của vùng đất NB cũng đa dạng không kém, như: nhái bầu (bụng to), tép bạc  
(màu trắng tươi), tôm đất (giống màu của đất), tôm rằn (có vằn đen trên lưng)...
3.3.2.3. Nhóm từ chỉ thực vật
Trong TCDGNB, chỉ có 33 từ ngữ gọi tên các loại thực vật như: bông súng,  
bần, kèo nèo, bắp, gòn, mận, so đũa, bông hường, bông lài... 
Về  phương thức định danh, chủ  thể  định danh đã dùng tên gọi vừa có chức 
năng gọi tên, vừa có chức năng nêu thuộc tính của loại thực vật. Có nhóm từ được 
định danh bằng cách kết hợp giữa yếu tố  chỉ  loại với yếu tố  chỉ  thuộc tính. Có 
những từ tự thân vừa mang chức năng chỉ loại, vừa mang chức năng chỉ thuộc tính.  
Kiểu tên gọi này chỉ có một thành tố: bắp, mận, bần, lác... 
Về  cách định danh, chủ  thể  định danh nơi đây căn cứ  vào nhiều thuộc tính  
khác nhau để  gọi tên, đó có thể  là công dụng (bình linh, vông nem, vạn thọ), đặc 
điểm (lục bình, nhãn lồng, rau dừa, bình bát), mùi vị (bạc hà, giấp cá, bông lài)...
3.3.2.4. Nhóm từ chỉ địa hình, địa vật
Trong TCDGNB, nhóm từ  chỉ  địa hình, địa vật có số  lượng và tần số  xuất 
hiện ít nhất, chỉ có 7 từ. Tuy nhiên, mỗi một từ  đều mang một giá trị  có tính đặc 
trưng, thể hiện đặc điểm riêng trong tên gọi của người dân vùng NB, như: ba rò,  

bờ đắp, bưng biền, con hói, cù lao, kinh xáng, miệt vườn.
Cơ  sở  định danh của các từ  loại này có thể  căn cứ  vào các đặc điểm khác 
nhau của sự vật, trong đó chủ yếu là dựa vào cấu tạo ( cù lao), số lượng (ba rò)... 
Những  căn cứ  này cũng giống như  cách định danh trong NNTD và các vùng PN 
khác. Tuy nhiên, xét cụ thể hơn về cách gọi tên thì PNNB có sự khác biệt.
Như vậy, từ những dẫn dụ trên chúng ta thấy điều kiện tự nhiên NB đã ảnh 
hưởng không nhỏ vào quá trình tri nhận và cách định danh của người dân nơi đây.
3.4.  Đặc trưng ngôn ngữ  ­ văn hóa thể  hiện qua nhóm từ  ngữ  địa phương  
Nam Bộ định danh đánh giá mức độ đặc tính sự vật

3.4.1. Thống kê định lượng
Bảng 3.3. Số lượng các nhóm từ ngữ chỉ mức độ đánh giá sự vật
Các nhóm từ ngữ chỉ sự đánh giá mức độ các đặc tính sự 
vật
Nhóm từ ngữ đánh giá theo mức độ cao
Nhóm từ ngữ đánh giá theo mức độ giảm nhẹ
Tổng

3.4.2. Các nhóm từ ngữ chỉ mức độ đánh giá sự vật 
3.4.2.1. Nhóm từ đánh giá theo mức độ cao
19

Số từ Tỉ lệ %
91
33
124

73.4
26.6
100%



Nhóm từ này bao gồm cả từ ghép và từ láy.
Xét về  cấu tạo, các từ  ghép  có nghiã đánh giá  trong TCDGNB gồm có hai 
yếu tố. Để tiện miêu tả, chúng tôi gọi tổ hợp này là AX. Trong đó, yếu tố X trong 
kết cấu AX có nguồn gốc từ  NNTD (rũ liệt); yếu tố  X có nguồn gốc từ  PNNB 
(héo xàu, mỏng dánh, héo don...)
Ngoài ra, trong TCDGNB còn có một số từ láy mà nghĩa của chúng cũng hàm 
nghĩa đánh giá mức độ  cao đặc tính sự vật: ốm o, tèm hem, chơm bơm, rặc ròng,  
rũ rượi, tùm lum...
3.4.2.2. Nhóm từ đánh giá theo mức độ giảm nhẹ
Nhóm từ này chủ yếu là từ láy, như: hân hấn, lăng líu, le the, lẩn đẩn..
Một số  từ  mang đặc trưng riêng,  chỉ  sử  dụng  ở  địa phương NB, có thể 
người  ở  các vùng khác nghe không hiểu được ý nghĩa của chúng, như:  hân hấn,  
lăn líu...
Như vậy, hai nhóm từ được sử dụng ở đây là những lớp từ bình dị, thân quen 
nhưng gây ấn tượng bởi vừa gợi hình vừa gợi cảm. Đó là những từ gắn liền với 
những nếp nghĩ, thói quen sử  dụng hàng ngày  nhưng thể  hiện  văn hóa  ứng xử 
mang đặc trưng riêng của người Việt ở vùng đất NB.
3.5. Tiểu kết chương 3
Ở chương này, luận án đã phân tích độ sâu phân loại, cách định danh và đánh  
giá sự  vật. Nhìn chung, người NB định danh sự  vật chi tiết hơn so với NNTD và  
các vùng PN khác.
Chương 4
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ ­ VĂN HÓA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG NAM BỘ
XÉT Ở PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO THƠ CA DÂN GIAN
4.1. Từ  ngữ  địa phương Nam Bộ  ­ công cụ  nghệ  thuật sáng tạo thơ 
ca dân gian
4.1.1. Từ ngữ địa phương được sử dụng với vai trò thể hiện nội dung ngữ  
nghĩa

4.1.1.1. Vai trò phản ánh hiện thực
Trong TCDG, chúng tôi thu được kết quả: 409 DT, với 3129 lần xuất hiện;  
262 ĐgT, với 3873 lần xuất hiện; 164 TT, với 1037 lần xuất hiện; và 25 ĐT, với  
1238 lần xuất hiện.
Như vậy, với một hệ thống vốn từ địa phương xuất hiện dày đặc, hiện thực  
đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người dân NB mang những nét 
đặc thù của vùng sông nước đã hiện lên một cách sinh động. Đồng thời, vốn từ 
ngữ trên còn cho thấy TCDGNB gắn bó chặt chẽ với môi trường văn hoa t
́ ự nhiên 
20


của vùng đất mới. 
4.1.1.2. Vai trò biểu hiện sắc thái nghĩa tinh tế phù hợp với văn hóa Nam Bộ
Qua sự so sánh giữa từ địa phương trong TCDGNB với từ toàn dân, chúng tôi 
thấy có những từ  có thể  có sự  tương đồng nhau về  nghĩa nhưng chúng thường  
phân biệt nhau về  sắc thái nghĩa hoặc sắc thái biểu cảm nhất định, như:  đụng,  
tởn, xá, thắc thẻo; tèm hem; xuê; eo; gầy; lận… Điều này cho thấy từ ngữ NB đã 
phản ánh lối tư duy mang đặc trưng riêng của người dân nơi đây.
4.1.1.3. Vai trò biểu cảm phù hợp với văn hóa Nam Bộ
TCDGNB co cac tiêu t
́ ́ ̉ ừ tình thái va đông t
̀ ̣
ừ tinh thai phù h
̀
́
ợp với đặc điểm 
dùng từ mang tính cách riêng của người dân NB, như: dữ, hoài, lận, phải dè…
Ngoài ra, tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong TCDGNB cũng là lớp từ  đặc 
trưng mang sắc thái biểu cảm của người địa phương mà trong NNTD hay các  

phương ngữ khác không có các yếu tố này, như: nghen, hông, không dè, bộ... 
Trong   TCDGNB,   từ   láy   cũng   là   lớp   từ   có   giá   trị   biểu   cảm   m ạnh   mà  
ngườ i  ở  các vùng địa phươ ng khác khó có thể  tìm thấy từ  tươ ng  ứng và khó 
hình dung v ề  nghĩa của nó, như:  tùm lum (bừa bãi), chàng ràng (quanh qu ẩn), 
lươ ng khươ ng  (do dự)...
Lớp tính từ thể hiện mức độ đánh giá cao đặc điểm tính chất sự vật cũng là  
một trong các lớp từ  địa phương thể  hiện tính biểu cảm phong phú của từ  ngữ 
địa phương NB.
4.1.2. Từ ngữ địa phương được sử dụng với vai trò thể hiện nghệ thuật
4.1.2.1. Vai trò hiệp vần, ngắt nhịp
Theo khảo sát của chúng tôi qua các tư liệu, trong tổng s ố 294 t ừ bi ến âm, 
có 246 từ  biến âm tham gia hiệp vần. Cách gieo vần trong TCDGNB r ất bi ến  
hoá và đa dạng. Phần lớn vần được gieo trong sự  phối h ợp v ới nh ịp, t ạo nên 
điểm nhấn nghệ  thuật, gây  ấn tượng cho người nghe và đồng thời tạo nên sắc 
thái văn hóa riêng biệt.
Bên cạnh việc sử dụng hình thức gieo vần trong các thể thơ lục bát và song 
thất lục bát quen thuộc thì rất nhiều bài ca dao NB còn sử dụng hình thức gieo vần 
trong cả thể thơ hỗn hợp và thể thơ tự do.
Như vậy, nhờ sự lựa chọn, tổ chức khá đa dạng các vần trong sự  phối hợp  
hài hoà với ngắt nhịp nên từ  địa phương đã đóng vai trò nghệ  thật góp phần tạo  
nên sắc thái địa phương riêng biệt cho TCDGNB. 
4.1.2.2. Vai trò tạo cấu trúc sóng đôi và biểu tượng nghệ thuật
Trong TCDGNB, chúng ta bắt gặp các biểu tượng sóng đôi mang tính địa  
phương, như: áo vá vai ­ áo vá quàng; miễu ­ chùa, đình, trang; phụng ­ loan, nút ­  
khuy… mang đặc trưng NN­VH rất riêng cho TCDGNB.
21


4.1.2.3. Vai trò nghệ thuật chơi chữ
a. Chơi chữ bằng hình thức điệp âm

Trong TCDGNB, chơi chữ  bằng hình thức điệp âm được thể  hiện  ở  hai  
cách: điệp một bộ  phận của âm tiết (chủ  yếu điệp phần vần) và điệp hoàn toàn  
âm tiết.
b. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương đồng âm
Đây cũng là cách chơi chữ  thể  hiện khả  năng sáng tạo nhạy bén trong quá 
trình ứng tác của người dân NB.
c. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương cùng nghĩa
Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng nghĩa; trước hết thể hiện  ở cặp từ tương  
ứng về nghĩa giữa một từ toàn dân với một từ địa phương. Chẳng hạn: sợ ­ kinh...; 
thứ  hai, dùng các cặp từ có sự  tương ứng giữa từ địa phương với từ  địa phương. 
Chẳng hạn: đành ­ ưng.
d. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương trái nghĩa
Đây là cách thức khai thác yếu tố đồng âm địa phương để nói tới yếu tố thứ 
hai nào đó. Chẳng hạn: chua lét ­ ngọt; non èo ­ già...
e. Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng trường nghĩa
Đây cũng là một trong những hình thức chơi chữ độc đáo trong TCDGNB.  
Ví dụ:
Rô, trê, sặt, dầy dầy,
Ròng ròng, hủng hỉnh lộn bầy lia thia.
f. Chơi chữ bằng cách dùng từ địa phương đa nghĩa
Đây cũng là một hình thức chơi chữ  quen thuộc của các tác giả  dân gian 
trong TCDGNB. Chẳng hạn: tượng (ảnh, tranh)
Tóm lại, từ ngữ địa phương NB được sử dụng trong các hình thức chơi chữ 
không nhiều bằng từ  toàn dân. Tuy nhiên, lớp từ  ngữ  này đã cho thấy vai trò của 
nó nhằm thể hiện sắc thái địa phương rất rõ. 
4.2. Đặc trưng ngôn ngữ ­ văn hóa của từ ngữ địa phương NB thể hiện 
qua ý nghĩa biểu trưng nghệ thuật
4.2.1. Biểu trưng bằng hình thức so sánh tu từ
4.2.1.1. Thống kê định lượng
Bảng 4.1. Số lượng và tỉ lệ % các kiểu kết cấu của từ ngữ địa phương 

NB trong TCDG
Kiểu kết cấu DT Cụm DT
Số lượng
106
41
Tỉ lệ %
58,24
22,52

ĐgT
14
7,7
22

ĐT
13
7,14

TT
6
3,3

Kết cấu C­V Tổng
182
2
100
1,1


4.2.1.2. Từ địa phương Nam Bộ trong vế so sánh và vế được so sánh

Những hình ảnh được so sánh trong TCDGNB là những hình ảnh xuất phát 
từ  thực tế  của một vùng đất vốn gắn bó với sông nước, miệt vườn và thói quen 
của người dân NB như: trái bần trôi; bông hường; bông gòn; cá lý ngư; nhành mai  
khô...
Hình  ảnh khác mang giá trị NN­VH riêng của vùng NB, không thấy trong ca  
dao các vùng khác cũng thường được đưa ra đối chiếu so sánh trong TCDGNB đó 
là: đỉa ­ bánh canh, em ­ bì nem gỏi cuốn, qua ­ chùm gởi,…
4.2.1.3. Từ địa phương làm từ so sánh
Về  từ  so sánh, ngoài cách dùng quen thuộc từ  so sánh  như  mà ca dao các 
vùng thường sử dụng thì trong TCDGNB ta còn bắt gặp những từ so sánh bằng từ 
địa phương: tợ; tợ như… mang đậm sắc thái địa phương NB. 
4.2.1.4. Giá trị  biểu trưng của quan hệ so sánh có sử  dụng từ  địa danh, từ  địa  
phương
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có nhiều từ  chỉ  địa danh trong vế  so sánh 
mang nghĩa biểu trưng. Chẳng hạn: địa danh Nam Vang biểu trưng cho sự xa xôi, 
cách trở, nguy hiểm.
Các hình ảnh so sánh mang nghĩa biểu trưng là thực vật như:  vạn thọ, bông  
sen, chùm gởi... được dùng để chỉ về các cô gái trong tình yêu đôi lứa.
Trong TCDGNB các hình  ảnh so sánh mang nghĩa biểu trưng là động vật  
như: cá lý ngư, cá lia thia, cá liệt, phụng hoàng, gỏi cá kìm.
Các vật thể  nhân tạo cũng là những hình  ảnh biểu trưng quen thuộc trong 
cấu trúc so sánh như: bánh canh, đờn, ghe, nút, khuy...
Như  vậy, trong cấu trúc so sánh, các vật mẫu được  dùng để  so sánh là  
những cái cụ  thể  vốn có trong tự  nhiên hay trong cuộc sống gần gũi, quen thuộc 
với người dân NB.
4.2.2. Biểu trưng bằng ẩn dụ tu từ
4.2.2.1. Khái niệm ẩn dụ và ẩn dụ tu từ 
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu cho rằng, về mặt hình thái ­ cấu trúc,  ẩn 
dụ tu từ có hai nhóm: 1) ẩn dụ tu từ là từ ngữ và 2) ẩn dụ tu từ là phát ngôn. Đối 
tượng nghiên cứu của luận án chúng tôi thuộc nhóm 1.

4.2.2.2. Thống kê định lượng
Bảng 4.2. Số lượng các nhóm ẩn dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
Các nhóm ẩn dụ tu từ 
theo nghĩa biểu trưng
Thế giới   Đồ dùng cá nhân
Dụng cụ sinh hoạt gia đình
23

Số lượng
49

20
13

Tỉ lệ %
53,8

40,8
26,5


con người

Thế giới 
tự nhiên

Công trình kiến thiết
Dụng cụ sản xuất
Điển tích
Tình cảm con người

Thực vật
Động vật
Địa danh
Hiện tượng tự nhiên
Tổng

8
5
2
1
21
13
5
3

42
91

16,3
10,2
4,08
2,04
50,0
31,0
11,9
7,1

46,2
100


4.2.2.3. Các ẩn dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
a. TĐP được dùng biểu trưng cho hiện thực cuộc sống vùng Nam Bộ
Để  biểu thị hiện thực cuộc sống vùng đất NB, tác giả  dân gian đã sử  dụng  
phong phú các hình  ảnh biểu trưng khác nhau, như:   miễu biểu trưng cho sự  linh 
thiêng trong văn hoa tâm linh;
́
 Sài Gòn, Gia Định  biểu trưng cho cuộc sống văn 
minh, nơi phồn hoa đô hội; đèn Huê Kỳ  biểu trưng cho cuộc sống sung túc, đầy 
đủ; rẫy biểu trưng cho sự khó khăn, vất vả...
 a1. Biểu trưng  châu thành
 
   
Trong tâm thức văn hoa dân gian c
́
ủa mình, người Việt vùng NB xem châu 
thành biểu trưng cho chốn phồn hoa, đô hội, nơi đông đúc, nhộn nhịp, văn minh. 
Do đó, địa danh Châu Thành có thể là tên huyện của một tỉnh bất kì trong vùng đất  
NB.
 a2. Biểu trưng  v  ườn, miệt vườn   
Trong TCDGNB, tác giả  dân gian không chỉ  dùng từ  vườn, miệt vườn  với 
nghĩa phản ánh hiện thực NB mà còn dùng với nghĩa biểu trưng về vùng nông thôn 
xa xôi, nơi lao động vất vả  nhưng chân tình. Có khi, từ  vườn vừa được dùng để 
chỉ  nơi chốn quê mùa, vừa hàm ý coi thường.   Nhưng,  vườn  hay  miệt vườn  còn 
được dùng để biểu trưng cho sự sung túc, dân dã, yên bình.
 a3. Biểu trưng  c  ầu 
Trong TCDGNB, chúng tôi thấy có tên gọi hai cây cầu mang ý nghĩa biểu  
trưng là cầu ván, cầu tre biểu trưng cho cuộc sống, đường đời khó khăn, vất vả, 
gian truân. Hình  ảnh cầu ván và cầu tre còn biểu trưng cho sự  khó khăn, trắc trở 
trong quan hệ tình yêu nam nữ.
b. Từ địa phương được dùng biểu trưng cho con người vùng Nam Bộ

 b1. Biểu trưng  áo
   
Trước hết, áo bà ba là hình ảnh biểu trưng cho sự giản dị, nền nã của người  
NB. Ngược lại,  áo bành tô  là sản phẩm được du nhập từ  phương Tây, nên nó 
24


được dùng biểu trưng cho sự sang trọng, quý phái. Áo chẹt, áo vá quàng biểu trưng 
cho sự nghèo khổ của người dân.
 b2. Biểu trưng  b
  ần   
Khi nói tới bần, trong ý niệm, người dân NB thường nghĩ tới sự  tầm thường, 
khổ sở, nghèo hèn của những người bình dân thời xưa.
Thứ hai, trái bần biểu trưng cho sự nhỏ bé, bất hạnh, bầm dập, lạc lõng, vô 
định của những số phận, những cuộc đời. 
Thứ ba, cây bần biểu trưng cho sự quyết tâm đến với nhau trong tình yêu, dù 
cho số phận có lênh đênh, trôi dạt đến đâu. 
 b3. Biểu trưng  l  ục bình   
Trong TCDGNB, lục bình biểu trưng về thân phận của người phụ nữ không 
nơi nương tựa, trôi dạt như  bèo. Hình ảnh của cây lục bình còn biểu trưng cho sự 
sống, sự vươn lên vượt qua hoàn cảnh.
Như  vậy, bức tranh PNNB hiện lên với những biểu hiện cảm xúc, trạng  
thái tâm lí, tình cảm của người   địa phương  rõ nét. Những biểu tr ưng trong  ẩn  
dụ  tu từ có sự  gắn kết chặt chẽ  với văn hoa c
́ ủa địa phươ ng tạo nên đặc trưng  
riêng biệt.
4.2.3. Biểu trưng bằng hoán dụ tu từ
4.2.3.1. Khái niệm hoán dụ tu từ
Hoán dụ là “hiện tượng chuyển tên gọi từ sự vật hoặc hiện tượng này sang 
sự  vật hoặc hiện tượng khác dựa trên mối quan hệ  logic giữa các sự  vật hoặc 

hiện tượng ấy” (Nguyễn Thiện Giáp, 2010).
4.2.3.2. Thống kê định lượng
Bảng 4.3. Số lượng các nhóm hoán dụ theo nghĩa biểu trưng
Các nhóm hoán dụ tu từ 

Số lượng

theo nghĩa biểu trưng
Thế giới  
con người
Thế giới 
tự nhiên

Dụng cụ sản xuất

Tỉ lệ %

9
13

Đồ dùng cá nhân

2

Cơ thể người

69,2
59,1

15,4


2

Địa danh

8

9

Thực vật
Tổng

1
22

4.2.3.3. Các hoán dụ tu từ theo nghĩa biểu trưng
25

15,4
88,9

40,9

11,1
100


×