1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề mới, liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực. Thời gian qua, tại Việt Nam chưa có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu về quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng của Bộ Công Thương. Nhằm tìm kiếm các giải pháp có luận cứ
khoa học về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cũng như đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước của Bộ
Công Thương về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” để
nghiên cứu.
1.2. Về thực tiễn
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề mới không chỉ tại Việt Nam.
Vấn đề này chính thức được Đảng và Nhà nước quan tâm từ năm 1999 bằng
việc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số 13/1999/PL
UBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999[7]. Pháp lệnh quy định rõ các quyền,
nghĩa vụ của người tiêu dùng, trách nhiệm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng
hóa dịch vụ, các quyền khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng và gần đây Quốc
hội khóa XII kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
ngày 17 tháng 11 năm 2011.
Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế theo nền kinh t ế th ị tr ường đị nh
hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986, từ đó đến nay nền kinh tế Việt Nam
luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, sản phẩm s ản xuất ra không chỉ đáp ứng nhu
cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh những tích cực nền
kinh tế thị trường cũng xuất hiện những mặt trái như: tình trạng kinh doanh
2
hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, không đủ điều kiện về tiêu chuẩn,
quy chuẩn. Tình trạng này đã xuất hiện tại hầu hết các địa phươ ng trong cả
nước vi phạm đến quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, đồng thời cũng
gây hại cho doanh nghi ệp s ản xu ất kinh doanh chân chính. Thời gian gần đây
các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa ra công luận rất nhiều vụ việc vi
phạm nghiêm trọng quyền lợi người tiêu dùng như: Vụ xăng pha acetone, Vụ
nước tương nhiễm chất 3 MCPD Vụ việc phở nhiễm phormol, Xe máy Honda
loạn giá, Vụ việc Công ty Vedan thả nước thải ra Sông Thị Vải và gần đây là vụ
Công ty cổ phần thanh toán điện tử Vietpay đã dùng mạng di động Mobiphone để
lừa đảo người tiêu dùng hàng tỉ đồng. Đây chỉ là minh họa của một số vụ việc
điển hình xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Có thể nói rằng,
người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường không an toàn,
quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng.
Để quyền lợi người tiêu dùng được bảo vệ tốt hơn cần có sự phối hợp đồng
bộ của các thành phần tham gia như: cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa
và dịch vụ, cơ quan truyền thông báo chí và chính người tiêu dùng. Trong đó, cơ
quan quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vừa định hướng, vừa quyết định các bộ
phận khác trong xã hội thực hiện. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về bảo
vệ người tiêu dùng chưa đượ c quan tâm đúng mức, chưa huy động đượ c sứ c
mạnh của toàn xã hội tham gia vào công tác bảo vệ người tiêu dùng. Tại
nhiều địa phương việc thành lập tổ chức bảo vệ người tiêu dùng chư a đượ c
triển khai, hoặc k ết qu ả còn nhiều hạn chế.
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban hành là hành lang pháp lý
quan trọng để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người tiêu dùng. Đây là bước tiến lớn trong
việc luật hóa các quy định nhằm đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Mặc dù, Luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có nhiều bước tiến mới so với pháp lệnh bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề hạn chế mà tại thời
3
điểm ban hành luật, do nhận thức chung của toàn xã hội cũng như điều kiện phát
triển kinh tế đất nước chưa thể hoàn thiện để đưa vào luật. Dưới góc độ khoa học,
tác giả đi nghiên cứu thực tiễn trên thế giới, đặc biệt thực tiễn của một số nước có
tổ chức quản lý nhà nước tốt nhất trên thế giới như Nhật Bản, Malaysia, Hà Lan để
làm cơ sở định hướng đề xuất kiến nghị cho Việt Nam. Theo Luật BVQLNTD, Bộ
Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức, cá nhân khác để thực hiện
các nội dung quản lý nhà nước về BVQLNTD. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ
này của Bộ Công Thương đã bộc lộ một số hạn chế.
Đề tài sẽ làm rõ về vị trí, chức năng, vai trò, nhiệm vụ và những nội dung
quản lý nhà nước của Bộ Công Thương trong triển khai công tác bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng để thấy được những đóng góp của Bộ Công Thương trong thời gian
qua, những hạn chế cần khắc phục, đồng thời đề xuất các giải pháp thực thi tốt
hơn các nội dung quản lý trong thời gian tới.
Hơn nữa, cuối năm 2015, cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ được thành lập, theo
lộ trình hội nhập kinh tế khu vực ASEAN, Ủy ban bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của ASEAN sẽ ban hành luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong khu vực.
Do vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
Bộ Công Thương là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu và lộ trình của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới.
Vì vậy, việc nghiên cứu tìm các giải pháp có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện
quản lý nhà nước của Bộ Công Thương về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở
Việt Nam là cần thiết, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày càng tốt
hơn. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước của
Bộ Công Thương về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” để
làm đề tài nghiên cứu luận án Tiến sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
4
Tìm kiếm các giải pháp có luận cứ khoa học và thực tiễn nhằm đề xuất
các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước của Bộ Công Thương về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tổng quan các công trình khoa học đã thực hiện liên quan đến quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề đã được nghiên
cứu, xác định những vấn đề chưa được nghiên cứu, hoặc nghiên cứu chưa sâu để
tập trung nghiên cứu.
Hệ thống hóa và tìm kiếm giải pháp có luận cứ khoa học về quản lý nhà
nước nói chung và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng nền kinh tế.
Đánh giá thực tiễn thực thi nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ người
tiêu dùng của Bộ Công Thương, những thành công, tồn tại, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra cần giải quyết theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm có thể tham khảo vận dụng
cho Việt Nam.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của những dự báo về xu hướng xâm
phạm quyền lợi người tiêu dùng, những định hướng hoàn thiện công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, tác giả sẽ kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý nhà nước của Bộ Công Thương về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước của Bộ Công
Thương đối với bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về quản lý nhà nước đối với bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng; Nghiên cứu thực tiễn triển khai các nội dung quản lý
nhà nước của Bộ Công Thương về BVQLNTD với tư cách là cơ quan dược
Chính phủ giao thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng theo luật BVNTD ở Việt Nam, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Thời gian nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng của Bộ Công Thương từ năm 2007 đến nay và đề
xuất các giải pháp áp dụng đến năm 2025.
Không gian nghiên cứu:
Trên lãnh thổ Việt Nam, tập trung khảo sát ở một số địa phương điển
hình, nghiên cứu kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới có mô hình tương
đồng và có hiệu quả để định hướng cho Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu thu thập dữ liệu sơ cấp
Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận tại bàn về các vấn đề liên quan đến
công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tác giả còn tiến hành khảo sát điều
tra thực tế như: trao đổi với chuyên gia trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh
vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và trực tiếp trao đổi những cán bộ thực thi
công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Trung ương, địa phương, các Hội
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tiến hành điều tra xã hội học với đối tượng là
các Sở Công Thương và Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể như:
6
Trao đổi trực tiếp với các chuyên gia và cán bộ thực thi công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng tại các địa phương
Trao đổi trực tiếp với các chuyên gia của tổ chức JICA của Nhật Bản về
kinh nghiệm triển khai công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Đối tượng trao đổi: Chuyên gia thường trú của Nhật Bản tại Cục Quản lý
cạnh tranh, Bộ Công Thương.
Câu hỏi là: Để công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đạt hiệu quả
cao cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần được hoàn thiện theo hướng
nào? Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa
phương có vai trò như thế nào với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Kết quả: Để công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu quả thì cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải có quyền lực,
có tính độc lập cao, phải thành lập hệ thống xuyên suốt từ Trung ương đến địa
phương. Bên cạnh cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tại Trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tại các địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng chính sách
và thực thi chính sách tại các địa phương.
Trao đổi trực tiếp với các chuyên gia hoạt động ở trong nước trong lĩnh
vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như TS.Vũ Thị Bạch Nga – Trưởng Ban
Bảo vệ người tiêu dùng, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, PGS.TS.Bùi
Nguyên Khánh – Viện phó Viện Nhà nước và Pháp luật, Ông Đỗ Gia Phan
Nguyên Tổng Thư ký, Phó chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam...
Nội dung câu hỏi:
Khó khăn lớn nhất trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
Việt Nam hiện nay là gì?
Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại Việt Nam là gì?
7
Kết quả:
Nhận thức của toàn xã hội về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
chưa cao, cần thành lập hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng từ Trung ương đến địa phương, trao thêm thẩm quyền cho cơ
quan này, cần bổ sung nguồn nhân lực và vật lực cho hoạt động bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
Điều tra, khảo sát cán bộ thực thi công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại các địa phương như: Hà Nội,
Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Nam
Định, Hà Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Đak Lak, Gia Lai, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Long
An, Tây Ninh, Bến Tre, Cà Mau, Tây Ninh, Bình Dương, Vũng Tầu, Lai Châu,
Điện Biên...
Đối tượng trao đổi: Cán bộ trực tiếp triển khai công tác bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại Sở Công Thương và Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Nội dung câu hỏi: Khó khăn của địa phương trong triển khai công tác bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng là gì? Có đề xuất gì để nâng cao hiệu quả công tác
này?
Kết quả:
Chưa có bộ phận chuyên trách về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo địa phương, thiếu kinh phí hoạt
động cho các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Kiến nghị là Bộ Công Thương cần phối hợp với Bộ Nội vụ sớm ban hành
thông tư liên tịch quy định rõ con người, đơn vị chịu trách nhiệm thực thi công tác
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại các Sở Công Thương. Cần có cơ chế chính
sách hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất cho các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng các địa phương hoạt động.
Điều tra xã hội học
8
Đối tượng khảo sát: Phát 230 phiếu điều tra tới cán bộ của 45 Hội bảo
vệ người tiêu dùng, cán bộ của 63 Sở Công Thương các tỉnh/thành phố trong cả
nước.
Nội dung câu hỏi và kết quả khảo sát:
Sau khi thu thập các phiếu điều tra tác giả đã tổng hợp, phân tích và đánh
giá các dữ liệu thông qua máy tính để đưa ra các nhận định theo từng nội dung
khảo sát thu được kết quả như sau:
Tại cơ quan anh chị có những hoạt động nào nhằm bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng?
Kết quả thu được là thành lập văn phòng giải quyết khiếu nại; Tuyên
truyền phổ biến pháp luật; Kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ; Tư vấn cho
người tiêu dùng.
Khó khăn của các cơ quan tổ chức trong việc triển khai công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng là gì?
Kết quả thu được là: Nhận thức của người tiêu dùng còn hạn chế; Ý thức
của doanh nghiệp chưa tốt; Thiếu sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý nhà nước; Thiếu
cơ sở pháp lý để thực hiện; Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chưa tốt.
Nhiệm vụ nào là nhiệm vụ trọng tâm khi triển khai công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng?
Kết quả thu được là tuyên truyền phổ biến pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Người tiêu dùng hay bị vi phạm trong lĩnh vực nào là nhiều nhất?
Kết quả thu được theo thứ tự là: An toàn vệ sinh thực phẩm; hàng hóa,
dịch vụ kém chất lượng; Hàng nhái, hàng giả; Cung cấp thông tin sai sự thật cho
người tiêu dùng; Trách nhiệm bảo hành sản phẩm.
Có nên thành lập bộ phận chuyên trách và giao thêm thẩm quyền cho cơ
quan này ở Bộ Công Thương và Sở Công Thương các tỉnh hay không?
9
Hơn 90 % ý kiến cho rằng nên thành lập và nên trao thêm thẩm quyền cho
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thực trạng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi công tác bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng như thế nào?
Kết quả cho thấy chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả, rõ ràng, việc phối
hợp chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả.
Khó khăn của các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang gặp phải
là gì?
Kết quả cho thấy là chưa nhận được sự quan tâm của toàn xã hội và thiếu
kinh phí, nguồn lực cho hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4.2. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Tác giả thu thập các văn bản pháp luật, các công trình khoa học, đề tài, bài
báo, sách, thông tin liên quan đến quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng để nghiên cứu:
Phương pháp điều tra chéo
Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu thập, tác giả đã
sử dụng phương pháp điều tra chéo để đưa ra số liệu, thông tin được sát thực với
thực tế.
Chọn lọc, phân tích, đánh giá và tổng hợp
Lựa chọn nguồn số liệu và điều tra trong số các đối tượng được khảo sát
để tiến hành phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm đưa ra các nhận định, đánh giá
và đề xuất giải pháp.
Phương pháp mô tả thống kê
Căn cứ trên báo cáo của các địa phương, các hội bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng tác giả đã đưa ra các tiêu chí và tổng hợp số liệu làm cơ sở cho các
nhận định và đề xuất các giải pháp cho đề tài.
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Các nghiên cứu của nước ngoài
Http://www.answers.com/Q/What_is_the_Role_of_government_in_consume
r_protection[73]. Tại trang web nêu trên, đã nêu vai trò của Chính phủ trong bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng như là: Ban hành các quy định pháp luật để điều
chỉnh những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. Ngoài ra, Chính phủ còn tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người
tiêu dùng về quyền lợi chính đáng của họ.
Tại website của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Canada:
/>k=PROTECT_RIGHTS&faq_id=4000264 [100] đã nêu Chính phủ chịu trách
nhiệm tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, hiệu quả và cạnh tranh bình
đẳng giữa nhà sản xuất, đơn vị kinh doanh và người tiêu dùng. Chính phủ cũng
phải chịu trách nhiệm về an toàn của sản phẩm. Vấn đề an toàn bao gồm cả dán
11
nhãn và quảng cáo sản phẩm. Chính phủ tiến hành kiểm tra an toàn không chỉ
thực phẩm, mà còn cả thực vật và động vật tại biên giới của Canada. Nhiệm vụ
này Chính phủ giao cho Cục kiểm dịch thực phẩm Canada.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về các vấn đề kinh doanh tại
các địa phương, điều kiện về cấp phép kinh doanh cũng như các vấn đề về an
toàn công cộng. Những dịch vụ được cung cấp trên địa bàn của địa phương sẽ do
cơ quan quản lý địa phương quy định về điều kiện kinh doanh.
IOCU (1992), Cunsumers and the Environment, published by International
Organization of Consumers Unions Penang, Malaysia [70]. Đây là cuốn sách viết
về cách thức tiêu dùng để bảo vệ môi trường, do tổ chức quốc tế về bảo vệ
người tiêu dùng Malaysia xuất bản. Cuốn sách nêu nên tầm quan trọng của ý
thức người tiêu dùng trong việc bảo vệ môi trường, cách thức thay đổi thói quen
nhằm bảo vệ môi trường trong điều kiện các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
càng cạn kiệt. Muốn vậy cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng cần:
Tăng cường giáo dục cho người tiêu dùng về tiêu dùng bền vững, thay đổi
quan điểm và lựa chọn sản phẩm năng lượng tự nhiên như gió, ánh sáng mặt
trời.
Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời cho người tiêu dùng về hàng hóa
dịch vụ sử dụng năng lượng thay thế, cũng như các cách thức để quảng bá , nhân
rộng đối tượng sử dụng sản phẩm này.
Chỉ ra những lợi ích của người tiêu dùng có được khi tiêu dùng hướng tới
môi trường ở các hội thảo quốc gia và quốc tế.
Ban hành chính sách khuyến khích về thuế để hưởng ứng và hỗ trợ việc
sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ vì môi trường.
Sẵn sàng phối hợp với các doanh nghiệp hoạt động vì sự phát triển của xã
hội, môi trường bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
12
Chính phủ cần phối hợp với các doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức có liên
quan để đảm bảo việc cung cấp hàng hóa dịch vụ nhằm đảm bảo phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường.
Richard M.Alderman (2006), Know your rights, Taylor Trade Publishing
Lanham, New York, Boulder, Toronto, Oxford [71]. Đây là cuốn sách viết về
quyền của người tiêu dùng gồm 19 chương. Cuốn sách viết về các lĩnh vực khác
nhau như cho vay vốn, di cư, khiếu nại tại tòa án rút gọn, thủ tục li hôn, trình tự
bắt đầu kinh doanh, luật tiêu dùng, quyền và nghĩa vụ của người cho thuê nhà và
người thuê nhà. Cuốn sách nhấn mạnh và đề cao vai trò của luật sư trong việc
giúp đỡ người tiêu dùng trong các hợp đồng ký kết với các đơn vị sản xuất kinh
doanh, nơi mà pháp luật được thực hiện rất tốt như Mỹ, Anh, Canada.
CUTS (2004), Is it really safe, CUTS Publications, India [68]. Cuốn sách
“nó có thực sự an toàn” do tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Ấn Độ viết
vào năm 2004 gồm 6 chương, hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, dịch
vụ an toàn: Từ các đồ chơi trẻ em, đồ mỹ phẩm đến sử dụng dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, sử dụng thực phẩm, di chuyển trên các phương tiện giao thông. Cuốn
sách đưa ra các chỉ dẫn cho người tiêu dùng sử dụng các hàng hóa, dịch vụ trong
cuộc sống sao cho an toàn và đạt được mục tiêu sử dụng.
Mudah Murah & Cepat (2008), Tribunal for consumer claims, Published by
Tribunal for consumer claims, Malaysia [69]. Cuốn sách giới thiệu về phương
thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp nhanh chóng và
tốn ít chi phí đó là tòa án rút gọn tại Malaysia. Đồng thời cuốn sách cũng hướng
dẫn người tiêu dùng cách thức viết đơn khiếu nại, trình tự thủ tục giải quyết
khiếu nại, thủ tục điều trần, các phán quyết của tòa án rút gọn.
Nội dung các trang web, các cuốn sách, bài viết đều khẳng định vai trò
Chính phủ trong việc banh hành chính sách và thực thi chính sách, tạo lập môi
trường cạnh tranh lành mạnh, an toàn nhằm đảm bảo quyền lợi của cả doanh
nghiệp và người tiêu dùng hướng tới phát triển ổn định và bền vững của xã hội,
13
điều đó cũng hoàn toàn tương đồng với các quy định pháp luật của Việt Nam. Ở
một số quốc gia phát triển đã có nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu, thậm
chí có các luật sư chuyên nghiên cứu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Các nghiên cứu ở trong nước
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mã số 9778082 (1999), Luận cứ
khoa học của tổ chức thị trường và lưu thông một số mặt hàng thiết yếu theo yêu
cầu bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng, do PGS.TS Đinh Văn
Thành, Viện Nghiên cứu Thương mại làm chủ nhiệm đề tài [12].
Đề tài được thực hiện năm 1999 tập trung vào tổ chức và lưu thông mặt
hàng thiết yếu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng.
Đây là đề tài khoa học cấp bộ đầu tiên đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong đề tài này được
đặt trong mối quan hệ với bảo hộ sản xuất trong nước. Đề tài đã đề cập đến
một số vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng như: chống nâng giá,
ép giá, được sử dụng hàng hóa có chất lượng, được bảo hành, được cung cấp
đầy đủ thông tin về công dụng, quy cách phẩm chất của hàng hóa, dịch vụ do
mình mua.
Đề tài được tiến hành trong khi vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
ở Việt Nam vẫn rất mới, hoàn toàn sơ khai, khuôn khổ pháp lý chưa được hoàn
thiện, bởi trong thời gian này Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường đang xây
dựng Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Đoàn Văn Trường (2002), Nghiên cứu người tiêu dùng những vấn đề
về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam , NXB Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội [33].
Đây là một trong những cuốn sách đầu tiên viết về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, cuốn sách được xuất bản ngay sau khi Pháp lệnh bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng được ban hành năm 1999. Tác giả đã đưa ra được những vấn
đề chung nhất về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như: Khái niệm về người
14
tiêu dùng, các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng; Các quyền
cơ bản của người tiêu dùng theo hướng dẫn của Liên hiệp quốc; Giới thiệu về
hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới như Úc, Pháp,
Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan; Vai trò của Chính phủ
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Các hoạt động thương mại thường
gây thiệt hại đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, cuối cùng là
tác giả đưa ra một số giải pháp chính sách để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Việt Nam.
Đây là một cuốn sách mô tả tương đối khái quát về các vấn đề bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam, là một cuốn sách hữu ích với người tiêu
dùng Việt Nam. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh khái quát về người tiêu dùng, về
các quyền của người tiêu dùng, những hành vi gây hại đến quyền lợi người tiêu
dùng, vai trò của Chính phủ, của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng Việt Nam.
Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Thương mại (2006), Sổ tay công tác bảo vệ
người tiêu dùng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [17].
Cuốn sách tập trung vào ba phần, phần I giới thiệu khái quát về sự cần
thiết phải bảo vệ người tiêu dùng, hoạt động bảo vệ người tiêu dùng trên thế
giới, lịch sử ngày Quyền của người tiêu dùng trên thế giới, các hoạt động bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức xã hội,
một số vấn đề đặt ra. Phần II của cuốn sách giới thiệu về hướng dẫn của Liên
hiệp quốc về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Phần III cuốn sách giới
thiệu về các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến công tác bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
Cuốn sổ tay công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã cung cấp cho
người đọc những kiến thức cơ bản về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
hướng dẫn của Liên hiệp quốc và các văn bản pháp luật có liên quan.
15
TS. Đinh Thị Mỹ Loan (2007), Hỏi – đáp về quyền lợi người tiêu dùng,
Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội [28].
Đây là cuốn sách được soạn thảo công phu với các câu hỏi và trả lời về
những nhóm đối tượng trực tiếp liên quan đế công tác bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng như quyền, trách nhiệm của người tiêu dùng, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ, trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giải quyết khiếu nại và
xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mã số 200678013 (2007), Hoàn
thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở VN trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, do TS. Đinh Thị Mỹ Loan Cục Quản lý cạnh tranh làm chủ
nhiệm đề tài, Hà Nội [10].
Đề tài đã tập trung làm rõ các vấn đề sau: lý thuyết về NTD và sự cần
thiết phải bảo vệ quyền lợi NTD trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế; Đánh giá khách quan thực trạng pháp luật và thực thi pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD, nêu bật những bất cập và nguyên nhân của những
bất cập này; Tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
một số nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; Đề xuất phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là đề tài tương đối công phu, nghiên cứu về sự bất cập của các văn
bản pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước thực tiễn
phát triển kinh tế của đất nước, tác giả đã phân tích kinh nghiệm xây dựng của
các nước tiên tiến trên thế giới để đề xuất xây dựng luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng cũng như những nội dung cần đạt được trong luật.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mã số 048.RD/HĐKHCN (2009),
Nghiên cứu giải pháp bảo vệ người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường , do
16
ThS Hoàng Thanh Tùng – Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ Công Thương
Trung ương làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội [13].
Đề tài tập trung vào ba nhóm vấn đề chính là: Tổng quan các vấn đề bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường; Thực trạng bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam những vấn đề đặt ra; Các giải pháp và
kiến nghị về các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam trong nền kinh
tế thị trường.
Tại phần tổng quan các vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tác giả
đã khái quát về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong bối cảnh hội nhập
kinh tế thế giới, các quy định pháp luật của Việt Nam và Thế giới về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, kinh nghiệm một số nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. Tuy nhiên, trong phần này tác giả chưa đề cập đến các vấn đề như các
hình thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh
doanh hàng hóa dịch vụ, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, các tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ.
Trong phần thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tác giả đã đưa ra
việc quyền lợi người tiêu dùng đang bị xâm hại nghiêm trọng, thực trạng trong
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
thực trạng của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và cuối cùng là những vấn đề đặt ra.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2009) , Trách nhiệm sản phẩm của
doanh nghiệp – công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng, do GS.TS Lê Hồng
Hạnh, Viện Khoa học pháp lý làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội [9].
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề: Tổng quan về trách nhiệm sản
phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng; Kinh nghiệm xây dựng và áp dụng
pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của một số hệ thống pháp luật trên thế giới
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thực trạng pháp luật về chế định trách
17
nhiệm sản phẩm ở Việt Nam và tình hình thực thi trách nhiệm sản phẩm của
doanh nghiệp. Trên cơ sở các phân tích trên tác giả đưa ra giải pháp hoàn thiện
cơ chế pháp lý về trách nhiệm sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam.
Đề tài đã tập trung nghiên cứu về một trong bốn nhóm đối tượng mà luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đưa ra, đó là trách nhiệm sản phẩm của doanh
nghiệp với người tiêu dùng. Trong đó, tác giả đã khái quát các quy định của pháp
luật Việt Nam và thế giới của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, những kẽ
hở pháp luật cần hoàn chỉnh để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường mã số LH201003/ĐHLHN
(2011), Nghiên cứu vai trò của hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc
bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam, do TS. Nguyễn Thị Vân Anh – Giảng viên
đại học Luật làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội [8].
Đề tài phân tích khái quát về các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Việt Nam, những nhiệm vụ của hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (như
tuyên truyền phổ biến pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, tư vấn, giải quyết
khiếu nại người tiêu dùng, thực hiện chức năng phản biện với các quyết định,
chủ trương chính sách của nhà nước, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng), những khó khăn, tồn tại mà các hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng gặp phải, đề xuất để các tổ chức xã hội hoạt động tốt hơn.
Đề tài là công trình khoa học nghiên cứu về các hội bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại Việt Nam, trong đó đã chỉ ra đầy đủ chức năng nhiệm vụ của
các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các hoạt động của hội trong thời gian
qua, những khó khăn, tồn tại cũng như đề xuất để hội phát huy vai trò trong thời
gian tới.
Đề tài cấp Bộ mã số 24.12.RD/HĐKHCN (2012), Nghiên cứu các
phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức
18
kinh doanh để thực thi luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, do TS. Vũ Thị
Bạch Nga, Cục Quản lý cạnh tranh làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội [11].
Đề tài tập trung nghiên cứu các phương thức giải quyết khiếu nại của
người tiêu dùng tại Việt Nam, thực trạng giải quyết khiếu nại tại Việt Nam
những tồn tại vướng mắc. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu một số mô hình
giải quyết khiếu nại hiệu quả trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. Trên cơ sở
thực tiễn tại Việt Nam, kinh nghiệm thế giới và quy định của luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng tác giả đưa ra các đề xuất để giải quyết tốt hơn khiếu nại
của người tiêu dùng trong thời gian tới.
3. Những vấn đề đã được nghiên cứu, khoảng trống chưa được nghiên cứu
Những vấn đề đã được nghiên cứu
Theo quy định trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nay là
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có 4 nhóm đối tượng được điều chỉnh là:
Người tiêu dùng; tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ; cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; các phương thức giải
quyết khiếu nại về người tiêu dùng; Các bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Việt Nam từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 đã có những đề tài
công trình đề cập đến công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhưng chỉ đến
năm 2000 trở đi mới có công trình khoa học thực sự nghiên cứu chuyên sâu về các
đối tượng tham gia vào công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như: Hội bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, trách nhiệm bảo hành sản phẩm của các tổ chức
cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ, các phương thức giải quyết tranh chấp
người tiêu dùng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Về người tiêu dùng, các đề tài trước đây đã nêu ra những quyền theo quy
định của Liên hiệp quốc cũng như giải thích nội dung của những quyền đó là gì.
Do các đề tài này được nghiên cứu trước khi luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng nên chưa đề cập đến nghĩa vụ của người tiêu dùng.
19
Về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ đã
được nghiên cứu dưới góc độ là trách nhiệm bảo hành sản phẩm, tuy nhiên đây
chỉ là một trong những trách nhiệm của tổ chức kinh doanh hàng hóa dịch vụ.
Theo quy định của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa dịch vụ có rất nhiều trách nhiệm như trách nhiệm cung cấp thông
tin, trách nhiệm bảo hành, trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật, trách
nhiệm bồi thường hàng hóa có khuyết tật gây ra…
Về các tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được
nghiên cứu dưới góc độ các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Về khía cạnh
các hội được nghiên cứu khá kỹ, tuy nhiên chưa đề cập đến các tổ chức xã hội
khác không phải là hội nhưng cũng tham gia vào công tác bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng như câu lạc bộ tiêu dùng nữ, các tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng được thành lập tại các đài truyền hình, báo, các doanh nghiệp.
Về các hình thức giải quyết khiếu nại, đây là Đề tài nghiên cứu của Cục
Quản lý cạnh tranh. Đề tài đã khái quát các phương thức giải quyết khiếu nại
của người tiêu dùng, những tồn tại, kết quả trong công tác giải quyết khiếu nại
của người tiêu dùng, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm giúp người tiêu
dùng trong quá trình giải quyết tranh chấp với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa được hiệu quả hơn.
Các đề tài, tài liệu trên đây mặc dù không trực tiếp viết về hoàn thiện
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Bộ Công Thương,
nhưng đều viết về các đối tượng tham gia công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của Việt Nam. Do vậy các kết quả nghiên cứu của các đề tài, tài liệu nêu
trên đều là những tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu đề tài luận án và có
thể kế thừa phát triển thêm các kết quả nghiên cứu đã có.
Khoảng trống chưa được nghiên cứu
Kinh nghiệm thế giới trong việc xây dựng cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hiện nay trên thế giới có các loại mô hình nào,
20
ưu điểm nhược điểm của từng loại mô hình, mô hình nào có thể áp dụng cho
Việt Nam trong quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế đất nước trong quá
trình hội nhập nền kinh tế thế giới;
Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam
trong thời gian qua, cần đưa ra cái nhìn tổng quan về quản lý nhà nước, nội dung
quản lý nhà nước, mục tiêu và vai trò của quản lý nhà nước nói chung và lĩnh vực
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng. Vị trí, vai trò của Bộ Công Thương
trong việc thực hiện chức năng là cơ quan được Chính phủ giao thống nhất quản
lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi cả nước, những
kết quả đã đạt được, hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Từ thực trạng thực thi các
nội dung quản lý nhà nước cần đưa ra dự báo tình hình vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng, định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong thời gian tới về nội dung quản lý, về tổ chức quản lý, về cơ chế
phối hợp các Bộ ngành, về giải pháp nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp
và ý thức tự bảo vệ chính mình của người tiêu dùng cũng như đề xuất kiến nghị
với Chính phủ để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong thời gian tới.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận án
1. Tại sao quản lý nhà nước là quan trọng đối với công tác bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng? Những mục tiêu, nội dung, công cụ và tổ chức quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là gì?
2. Trong triển khai các nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thời gian qua có kết quả, tồn tại và nguyên nhân là gì? Từ đó
những vấn đề đặt ra cần giải quyết là gì?
3. Các mô hình tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trên thế giới có những ưu điểm, nhược điểm gì, bài học kinh nghiệm có thể
áp dụng cho Việt Nam?
21
4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng của Bộ Công Thương như thế nào?
PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng, quyền và nghĩa vụ của người tiêu
dùng
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Người tiêu dùng là bất cứ ai trong chúng ta khi mua hàng hóa dịch vụ hoặc
được cho, tặng hàng hóa dịch vụ để sử dụng vì mục đích tiêu dùng cho cá nhân
hoặc hộ gia đình. Trên thế giới luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia
cũng đều quy định người tiêu dùng với những nội dung cơ bản như: “ Người tiêu
dùng là cá nhân mua sử dụng hàng hóa dịch vụ, không vì mục đích kinh doanh”
Theo Chỉ thị số 1999/44/EC của nghị viện Châu Âu và Hội đồng Châu Âu
ngày 25/5/1999 định nghĩa người tiêu dùng như sau:
22
Người tiêu dùng là bất kỳ người nào thực hiện việc mua hàng theo hợp
đồng được quy định bởi Chỉ thị này, thực hiện vì mục tiêu không liên quan đến
thương mại, kinh doanh hay nghề nghiệp.
Theo luật bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 thì người tiêu dùng
được định nghĩa như sau:
Người tiêu dùng là người nhận hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho
mục đích cá nhân, sử dụng trong hộ gia đình, sử dụng hoặc tiêu dùng và không
sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vào mục đích thương mại, tiêu dùng cho quá
trình sản xuất.
Theo luật bảo vệ người tiêu dùng của Singapore hay luật thương mại bình
đẳng của Singapore năm 2003, người tiêu dùng được định nghĩa như sau:
“Người tiêu dùng là cá nhân nhận hoặc có quyền nhận hàng hóa và dịch
vụ từ người cung cấp hoặc có nghĩa vụ thanh toán cho người cung cấp đối với
hàng hóa, dịch vụ mình đã mua tặng cho cá nhân khác và các hoạt động tiêu dùng
đó không nhằm mục đích kinh doanh”.
Theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam,
người tiêu dùng được hiểu như sau:
Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích
tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Như vậy, người tiêu dùng không chỉ là các cá nhân mà còn là tổ chức mua,
sử dụng hàng hóa, dịch vụ mà không nhằm mục đích bán lại hoặc cho thuê.
Người tiêu dùng là các tổ chức có“vị trí yếu thế” hơn so với các tổ chức cá nhân
kinh doanh hàng hóa dịch vụ về tài chính, thông tin, tính chuyên nghiệp nên việc
bảo vệ các tổ chức với tư cách là người tiêu dùng cũng là cần thiết.
1.1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng
Quyền của người tiêu dùng
23
Nhằm tạo ra một sự thống nhất cho các nước trên thế giới trong việc bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngày 9 tháng 4 năm 1985, Đại hội đồng Liên hợp
quốc phê chuẩn bản hướng dẫn của liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng,
công nhận ngày 15 tháng 3 hàng năm là ngày người tiêu dùng Thế giới. Bản
hướng dẫn là kết quả của nhiều thập kỷ đấu tranh, thuyết phục của Quốc tế
người tiêu dùng và các tổ chức người tiêu dùng toàn thế giới. Bản hướng dẫn
đưa ra nguyên tắc 8 quyền của người tiêu dùng và vạch ra những nguyên tắc
khung để tăng cường các chính sách bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia.
Việc phê chuẩn này đã khẳng định quyền của người tiêu dùng đã được
đưa lên vị trí hợp pháp và được quốc tế thừa nhận. Ngày nay, 8 quyền cơ bản
của người tiêu dùng đã được liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế và Chính phủ các
nước thừa nhận và đưa vào các văn bản pháp luật của mình để bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
8 quyền của người tiêu dùng theo quy định của Liên hiệp quốc là:
Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
Quyền được an toàn;
Quyền được thông tin;
Quyền được lựa chọn;
Quyền được lắng nghe;
Quyền được khiếu nại bồi thường;
Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Những quyền này là cơ sở để các nước xây dựng chính sách bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng cũng như hoạt động của các tổ chức quốc tế về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Việt Nam, trên tinh thần tiếp thu và học hỏi những tiến bộ trên thế
giới và đúc kết kinh nghiệm sau hơn 10 năm thực thi pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, ngày 17 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 8 đã
24
thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [5], trong đó tại Điều 8 quy
định các quyền của người tiêu dùng như sau:
Trong 8 quyền theo bản hướng dẫn của liên hiệp quốc có quyền được
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản và quyền được có môi trường sống lành mạnh
và bền vững đã được quy định cụ thể trong Bộ Luật dân sự năm 2005, và Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi và bổ sung năm 2013, nên Luật này không quy định thêm
mà cụ thể 6 quyền còn lại thành 8 quyền sau:
Được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và các quyền, lợi
ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ cung cấp;
Được cung cấp các thông tin chính xác và đầy đủ;
Được Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ;
Được góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
Được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về BVQLNTD;
Được yêu cầu bồi thường thiệt hại;
Được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện;
Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ.
Như vậy, theo quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì
người tiêu dùng Việt Nam cũng có những quyền như những người tiêu dùng tại
các quốc gia khác trên thế giới.
Lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
Theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngoài việc
được bảo vệ 8 quyền nêu trên, người tiêu dùng còn được bảo vệ lợi ích hợp
pháp trong giao dịch với các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên
lãnh thổ Việt Nam.
Lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là gì? Lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng được hiểu là lợi ích có được trong giao dịch với các tổ chức, cá
25
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đúng quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ theo quy định tại khoản 2
Điều 3, của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là tổ chức, cá nhân thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm:
Thương nhân theo quy định của Luật Thương mại;
Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng
ký kinh doanh.
Cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở đây được hiểu là các
thương nhân theo quy định của luật thương mại, các cá nhân hoạt động thương
mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh. Như vậy, tất cả các
cá nhân, tổ chức tham gia vào quá trình kinh doanh hàng hóa dịch vụ bao gồm nhà
sản xuất, nhà nhập khẩu, người bán buôn, người bán lẻ khi tham gia cung ứng
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đều chịu sự điều chỉnh của Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
Lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là lợi ích có được khi giao dịch với
các tổ chức, kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Việc bảo vệ lợi ích hợp pháp đó đồng
nghĩa với việc bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch với các tổ chức, cá
nhân kinh doanh thông qua việc yêu cầu các tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ thực hiện đúng các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cũng như các tiêu chuẩn, quy chuẩn của đơn vị đó đã công bố.
Trách nhiệm của tố chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ theo quy
định của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm: Trách nhiệm bảo vệ
thông tin của người tiêu dùng; Trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu
dùng (về giá, nhãn mác, cảnh báo khả năng nguy hiểm, linh phụ kiện thay thế,
điều kiện bảo hành, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung); Trách