BÀI TẬP NHÓM
(Nhóm 3)
Chủ đề: ODA của Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA)
Danh sách thành viên:
Đoàn Vân Anh
Trần Thị Như Nguyệt
Nguyễn Thị Mai Loan
Nguyễn Thị Loan
Lý luận chung về ODA JICA
1.1 Nguồn gốc ODA
Kế hoạch Marshall ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, với mục đích là giúp
các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp
nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương
trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế
Châu Âu (OECD). Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra
những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC). Uỷ ban
này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD
cho các nước đang và kém phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra
đời vào năm 1961, thuật ngữ ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ
giúp có ưu đãi về mặt tài chính của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các
nước nghèo.
1.2 Định nghĩa ODA
ODA là viết tắt của cụm từ Official Development Assistance khi được dịch
sang tiếng Việt nó có nghĩa là “Viện trợ phát triển chính thức”. Đây là các nguồn
hỗ trợ, hình thức đầu tư nước ngoài cho một quốc gia nào đó. Gọi là Hỗ trợ bởi vì
các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất
thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu
danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở
nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Một khoản tài trợ được gọi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một là, được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức
cung
cấp.
Tổ chức chính thức là các nhà nước mà đại diện là Chính Phủ, các tổ chức liên
Chính
Phủ,
liên
quốc
gia
Các tổ chức phi Chính Phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
Hai là, mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc
lợi
xã
hội.
Ba là, thành tố hỗ trợ ( grant element) yếu tố không hoàn lại phải đạt ít nhất
25%. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước hỗ trợ. Chỉ tiêu này được
xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố: lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số
lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu.
1.3 Phân loại
1.3.1 Phân loại theo cách thức hoàn trả ODA:
1.3.1.1 Viện trợ không hoàn lại
I.
Viện trợ không hoàn lại là loại ODA mà bên nước nhận không phải hoàn
lại, nguồn vốn này nhằm để thực hiện các dự án ở nước nhận vốn ODA, theo
sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một
nguồn thu ngân sách của nhà nước, được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số ODA trên thế giới và được
ưu tiên cho những dự án về các lãnh vực như y tế, dân số, giáo dục, môi
trường...
1.3.1.2 Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi, có yếu tố không hoàn lại
chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay)
Tín dụng ưu đãi là vốn ODA với một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả
nợ thích hợp, nó chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới.
Nó không được dùng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được dùng
cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lãnh vực giao thông vận tải, nông
nghiệp, thủy lợi, năng lượng...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng
trưởng kinh tế. Các điều kiện ưu đãi bao gồm:
Lãi suất thấp
Thời gian trả nợ dài
Có khoảng thời gian không trả lãi hay trả nợ
1.3.1.3. ODA cho vay hỗn hợp:
Đây là loại ODA kết hợp hai dạng trên, bao gồm một phần không hoàn
lại và tín dụng ưu đãi.
1.3.2 Phân loại theo mục đích
1.3.2.1
Hỗ trợ cơ bản:
Hỗ trợ cơ bản là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho
vay ưu đãi.
1.3.2.2
Hỗ trợ kỹ thuật
Hỗ trợ kỹ thuật là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu
tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực… Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ
không hoàn lại.
1.3.3 Phân loại theo điều kiện
1.3.3.1 ODA không ràng buộc
ODA không ràng buộc là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc
bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng
1.3.3.2 ODA có ràng buộc
Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp
dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số
công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương),
hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ
được cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này
cho những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.
1.3.3.3. ODA ràng buộc một phần:
Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở nước viện trợ (như
mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ của nước cung cấp ODA), phần
còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
1.3.4 Phân loại theo hình thức
1.3.4.1. Hỗ trợ dự án:
Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có
thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu
đãi. 1.3.4.2. Hỗ trợ phi dự án:
Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện. Khi nhận
thấy các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính phủ nước sở
tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được chính phủ chấp
thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận của hai bên. Loại
ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ phía chính phủ
nước tài trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các đòi hỏi từ phía
nhà tài trợ xem có thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng thì phải tiến
hành đàm phán nhằm dung hoà điều kiện của cả hai phía. Loại ODA này
thường có mức không hoàn lại khá cao, bao gồm các loại hình sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực
tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu.
Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử
dụng để hỗ trợ cho ngân sách.
Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món
nợ mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử
dụng như thế nào.
1.4 Đặc điểm
ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc
tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
1.4.1 Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn
dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm
và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại( cho
không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn
và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở
đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang
và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các
nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu
người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp
và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải
phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có
những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà
họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên
của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể.
Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ
chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại
trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các
nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về
mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp
cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Và quan trọng ODA là nguồn vốn có
khả năng gây nợ.
1.4.2 Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng
buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ
cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ
đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được
thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không
quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng
hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá
dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%.
1.4.3 ODA do chính nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nhưng luôn có
sự giám sát từ phái nhà tài trợ, tuy nhiên sự giám sát này không trực tiếp.
Chính vì nguyên nhân này mà ODA đôi khi sử dụng kém hoặc không hiệu
quả nếu như nước tiếp nhận ODA thiếu hoặc chưa nhận thức được trách
nhiệm của mình trong việc quả lý và sử dụng nguồn viện trợ này sao cho hiệu
quả. Hơn nữa, cùng với sự ưu đãi từ nguồn viện trợ này như việc vay ưu đãi
với lãi suất thấp chỉ băng 1/10 so với vốn vay thông thường và một phần cho
không, thời gian trả nợ dài gồm cả thời gian ân hạn. Điều kiện ưu đãi này đã
dẫn đến một số người có tư tưởng xem nhẹ hiệu quả sử dụng ODA với tư
cách là khoản vay cần phải trả nợ.
1.4.4 ODA là một giao dịch quốc tế
Thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao dịch này không có cùng quốc tịch.
Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên
tiếp nhận thường là các nước đang phát triển hay các nước gặp khó khăn về
nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường.
ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song
phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA
trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương, các tổ chức
quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung
cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là
cách cung cấp ODA gián tiếp.
ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện
ở chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự
chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp
nhận đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với
nhà tài trợ.
1.5 Ý nghĩa của ODA
1.5.1 Với nước tiếp nhận ( các nước đang phát triển)
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các
nước đang phát triển thực hiện các chiến lược phát triển KTXH của mình. Vai
trò của ODA thể hiện trên các giác độ cơ bản như:
ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu
tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính
ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ
0,25% đến 2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như
vậy Chính phủ các nước ĐPT mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng
xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng KTXH được xây dựng mới
hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của
WB, đối với các nước ĐPT có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1%
GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
ODA giúp các nước ĐPT phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi
trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên
dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho
việc dạy và học của các nước ĐPT. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn
cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ
cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã gia tăng
đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một
trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành
phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo
của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1%
GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và
nếu như các nước giầu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25
triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán
quốc tế của các nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt
cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia
này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh
hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho
đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai
trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD
viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn
góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của
Chính phủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với
đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng
thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều
này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một
lượng ODA lớn của cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được
rất ít vốn FDI.
ODA giúp các nước ĐPT tăng cường năng lực và thể chế thông qua các
chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và
xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.5.2 Với nước tài trợ
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến
lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục
tiêu về an ninh quốc phòng hay theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều
có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi
thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế
chính trị xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước
mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ;
yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho
phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch
đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của nước tài trợ. Cụ thể là nước cấp
ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá,
dịch vụ do họ sản xuất.
Việc cung cấp ODA giúp các nước tài trợ mở rộng mối quan hệ hợp
tác, ngoại giao và tạo được vị thế vững chắc của mình trên thế giới.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục
tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với
trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ
kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế
giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt
khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào...
1.6 Khái niệm JICA
JICA là chữ viết tắt của Văn phòng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (The
Japan International Cooperation Agency). JICA là cơ quan triển khai viện trợ
phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản cho các dự án hợp tác mang tính kỹ
thuật, hợp tác vốn vay và viện trợ không hoàn lại . Mục tiêu của JICA là đóng
góp một phần vào việc tái thiết các nước đang phát triển, hướng tới việc có thể
độc lập giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của riêng mỗi nước. Do đó,
JICA đặt trọng tâm hành động vào việc chia sẻ các kinh nghiệm và kiến thức
của Nhật Bản với các nước đang phát triển. JICA hiện có đại diện tại hơn 100
nước trên thế giới và đang mở rộng hoạt động tại hơn 160 quốc gia và vùng
lãnh thổ.
JICA có nguồn gốc từ “Tổ chức Hợp tác Quốc tế” được thành lập từ
năm 1974. Với tư cách là một trong những cơ quan thực hiện ODA của Chính
Phủ Nhật Bản, cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (gọi tắt là JICA) chịu trách
nhiệm thực hiện phần hợp tác kỹ thuật. Từ tháng 10 năm 2003, JICA chuyển
thành một Cơ quan hành chính độc lập. Với mục đích giúp cho các nước đang
phát triển có thể phát triển kinh tế xã hội một cách tự lực và bền vững, JICA đã
thực hiện các hoạt động hợp tác chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
cho công cuộc xây dựng đất nước.
Từ tháng 10/2008, phần hợp tác vốn vay của JBIC (Ngân hàng hợp tác
Quốc tế Nhật Bản) được hợp nhất vào JICA, theo đó JICA mới được hình
thành. JICA mới thực hiện cả 3 hình thức viện trợ ODA: Hợp tác kỹ thuật,
Hợp tác vốn vay và Viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, các hoạt động viện trợ sẽ
được tiến hành hiệu quả hơn từ xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô lớn tới
hợp tác kỹ thuật cấp cơ sở tại cộng đồng phù hợp với nhu cầu đa dạng của các
nước đang phát triển.
1.7 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của JICA
* Mục đích
Giúp đỡ cho các nước đang phát triển có thể phát triển kinh tế xã hội
một cách tự lực và bền vững
Tăng cường hợp tác quốc tế của Nhật Bản.
* Nguyên tắc hoạt động
JICA áp dụng 3 nguyên tắc sau trong các hoạt động viện trợ của mình để
tiến hành cải cách các hoạt động tại nước nhận viện trợ và thực hiện hợp tác
quốc tế một cách toàn diện với chất lượng cao:
Speedup: Đẩy nhanh hợp tác viện trợ từ khâu chuẩn bị đến khi thực
hiện
Scaleup: Mở rộng quy mô viện trợ
Spreadout: Nhân rộng các kết quả viện trợ
II. Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản
2.1 Quá trình phát triển của JICA tại Việt Nam
1992
JICA bắt đầu các hoạt động hợp tác tại Viêt Nam b
̣
ằng việc cử
chuyên gia Nhật Bản sang Việt Nam và tiếp nhận học viên đi
đào tạo tại Nhật Bản
1994
Ky kêt Công hàm vê C
́ ́
̀ ử Tình nguyện viên Hợp tac Hai ngoai
́
̉
̣
Nhật Bản
1995
Chính thức thành lâp
̣ Văn phong
̀ JICA Viêṭ Nam taị Hà Nôị
Bắt đầu cử Tình nguyện viên Hợp tac Hai ngoai Nh
́
̉
̣
ật Bản
1998
Ký kết Hiêp đinh H
̣
̣
ợp tac Ky thuât Vi
́
̃
̣
ệt Nam – Nhât B
̣ ản
10/1999
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) được thành lập từ
việc sáp nhập hai tổ chức: OECF và Ngân hàng XuấtNhập
khẩu Nhật Bản (JEXIM)
2002
Thành lâp Văn phong Liên lac JICA t
̣
̀
̣
ại TP Hồ Chí Minh
Hình thành JICA Mới (Bô phân vôn vay ODA cua JBIC sat nhâp
̣
̣
́
̉
́
̣
với JICA thanh JICA M
̀
ơi)
́
2.2 Chính sách ODA của Nhật Bản dành cho VN
10/2008
2.2.1 Hợp tác hỗ trợ về kinh phí
2.2.1.1 Hợp tác vay vốn
Đơn vị: Tỷ yên
Vốn vay ODA
Năm tài khóa 2008
83.2
Viện trợ không hoàn Tổng cộng
lại
1.4
84.6
Năm tài khóa 2009
Năm tài khóa 2010
Năm tài khóa 2011
Tổng chi phí trong 20
năm
145.6
86.6
270
1.836
3.5
3.5
5.4
83.4
1149.1
90.1
275.4
1914.9
Vào tháng 11/1992 Việt Nam được bắt đầu bằng vốn vay hàng hoá với
khoản vay trị giá 45,5 tỉ Yên. Tiếp đó vào năm 1993, bắt đầu thực hiện vốn vay
luôn đặt trọng tâm hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng – nền tảng cho phát triển kinh tế
của Việt Nam. Tổng số vốn cam kết mỗi năm tài khoá tăng dần, với 95,1 tỉ Yên
năm 2006; 97,9 tỉ Yên năm 2007; 83,2 tỉ Yên năm 2008 và đạt gần ngưỡng 100 tỉ
Yên mỗi năm. Năm 2009 số vốn cam kết đạt mức kỉ lục 145,6 tỉ Yên bao gồm cả
kinh phí hỗ trợ đối phó với khủng hoảng kinh tế thế giới (500 triệu USD); cuối
năm 2010 số vốn cam kết là 86,6 tỉ Yên, đưa tổng số vốn cam kết lên đến 1.566,1 tỉ
Yên (cuối năm 2010). Bên cạnh đó, tổng mức giải ngân là 79,2 tỉ Yên năm 2007;
71,8 tỉ Yên năm 2008; 121,4 tỉ Yên năm 2009; 84,1 tỉ Yên năm 2010. Các ngành chủ
yếu trong các lĩnh vực nhận viện trợ là các ngành phát triển cơ sở hạ tầng gồm chủ
yếu là giao thông vận tải và điện lực (chiếm khoảng 40% và 30% trong tổng số
vốn cam kết). Thành tích hỗ trợ trong mỗi ngành cụ thể như sau:
Giao thông vận tải
Trong ngành giao thông vận tải, suốt thập kỉ 90, JICA đã bắt đầu hỗ trợ
bằng việc cải tạo, xây dựng các tuyến đường liên tỉnh ở miền Bắc nối với Hà Nội
– Hải Phòng – Hạ Long và các cầu (Cầu Bãi Cháy ở Hạ Long, cầu Bính ở Hải
Phòng), mở rộng các cảng (Cảng Hải Phòng và Cảng Cái Lân), nâng cấp Quốc lộ 1
nối liền Bắc – Nam, cải tạo cầu đường sắt tuyến Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh, tiếp
đó là xây dựng đường hầm Hải Vân và cải tạo cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng.
Từ những năm 2000, sau khi hoàn thành xây dựng nhà ga hành khách của
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất bằng vốn vay ODA, JICA đã bắt đầu hỗ trợ những
công trình như: xây dựng nhà ga sân bay Nội Bài; phát triển cảng Cái Mép Thị Vải
– cảng đầu mối của miền Nam; xây dựng cảng nước sâu đầu tiên ở phía Bắc –
cảng Lạch Huyện; xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam (đoạn TP.Hồ Chí Minh –
Dầu Giây; Bến Lức – Long Thành; Đà Nẵng – Quảng Ngãi),… và giúp đỡ thực
hiện nhiều dự án khác
Ngành điện
JICA đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy điện quan trọng nhằm đáp ứng
nhu cầu tăng mạnh về điện do phát triển kinh tế. Đó là các nhà máy sử dụng tài
nguyên than đá phong phú tại miền Bắc (Nhà máy nhiệt điện Phả Lại), các nhà
máy sử dụng năng lượng nước và khí đốt tự nhiên ngoài khơi tại miền Trung và
miền Nam (Thuỷ điện Hàm Thuận Đa Mi, Thuỷ điện Đại Ninh, Nhiệt điện Phú
Mỹ, Nhiệt điện Ô Môn). Tại Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, sau khi xây dựng xong
Phú Mỹ 1 bằng vốn vay ODA, Phú Mỹ 2 và 3 đã được thực hiện dưới dạng IPP
(đơn vị mua bán điện độc lập) có sự tham gia của doanh nghiệp Nhật Bản. Đây là
công trình điển hình về sự kết hợp giữa nhà nước và tư nhân trong xây dựng hệ
thống truyền tải điện bằng vốn vay ODA. Tiếp theo giai đoạn 1 xây dựng nhà máy
nhiệt điện Nghi Sơn ở miền Bắc bằng nguồn vốn vay ODA, giai đoạn 2 dự định
sẽ thực hiện theo mô hình IPP.
Giao thông đô thị, cải thiện môi trường
Để cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội, JICA đã sử dụng
vốn vay ODA mở rộng các tuyến đường chính trong thành phố, chuyển các nút giao
thông ùn tắc nghiêm trọng thành giao cắt khác mức. Bên cạnh đó, để hình thành các
tuyến vành đai, cầu Nhật Tân (cầu hữu nghị Việt – Nhật) đã được bắt đầu xây
dựng tiếp sau xây dựng cầu Thanh Trì qua sông Hồng. Tại TP. Hồ Chí Minh, JICA
đã hỗ trợ vốn vay ODA để xây dựng Đại lộ Đông Tây, trục đường xuyên tâm thành
phố, nhằm phát triển lại đô thị và cải thiện tình hình giao thông. Hơn nữa, với mục
đích cải thiện triệt để tình hình giao thông đô thị, JICA đã bắt đầu khởi động dự án
xây dựng đường sắt đô thị trên cao (tuyến số 1) và tàu điện ngầm cho Hà Nội
(tuyến số 2) cũng như tàu điện ngầm cho TP.Hồ Chí Minh (tuyến số 1).
Tại các đô thị, do năng lực thoát nước yếu nên đã phát sinh vấn đề ngập
lụt và môi trường xuống cấp, để cải thiện tình trạng này, JICA đã thực hiện các dự
án cải thiện môi trường nước và hệ thống thoát nước cho Hà Nội và TP.Hồ Chí
Minh. Các dự án này đều đã hoàn thành giai đoạn 1 và bắt đầu giai đoạn 2. Ngoài
ra, các dự án tương tự cũng đã bắt đầu tại Hải Phòng, Huế và Bình Dương.
Cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Kể từ năm 1993, JICA đã hỗ trợ cải tạo đường bộ, cấp nước và cấp
điện cho các khu vực nông thôn và sau đó liên tục cung cấp tín dụng chuyên ngành
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về cơ sở hạ tầng nông thôn gồm hệ thống tưới
tiêu quy mô nhỏ, trồng rừng,… giúp cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn của các tỉnh,
đóng góp vào sự phát triển kinh tế cũng như cải thiện điều kiện sống của các địa
phương.
Hơn nữa, từ giữa những năm 1990, nhằm thúc đẩy phát triển các ngành
nghề sản xuất, JICA tiến hành cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông
qua Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra, JICA còn hợp
tác với các nhà tài trợ như Ngân hàng Thế giới để cho vay hỗ trợ ngân sách phục
vụ kế hoạch giảm nghèo.
Đảm bảo chất lượng và an toàn công trình
Để Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh về kinh tế và phát triển
bền vững, lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, điện lực…đòi
hỏi phải được nâng lên một tầm cao mới. Do vậy, gần đây các dự án hợp tác vốn
vay tập trung vào những công trình có quy mô lớn và độ khó về kỹ thuật cao như tài
điện ngầm, đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh… JICA hiện đang thực
hiện hợp tác kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và tính an toàn của các công trình,
đồng thời cũng hợp tác với các nhà tài trợ khác để giúp cải thiện các chính sách cần
thiết cho việc triển khai thuận lợi các công trình như chính sách giải phóng mặt
bằng, tái định cư, các thủ tục và công tác đấu
2.2.1.2 Viện trợ không hoàn lại
Trong hợp tác hỗ trợ về kinh phí, hợp tác viện trợ không hoàn lại được
kết hợp với hợp tác kỹ thuật, đặt trọng tâm vào việc nâng cao mức sống cho người
dân, tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực y tế sức khoẻ và phát triển nông thôn. Năm
1992 dự án cải tạo bệnh viện Chợ Rẫy, sau đó liên tục triển khai nhằm hỗ trợ nâng
cấp các bệnh viện trọng điểm tại Hà Nội, Huế và Hoà Bình; xây dựng trường học
tại các vùng khó khăn; xây dựng cầu và đường nông thôn; cấp nước; trồng rừng…
với mức hỗ trợ khoảng 69 tỉ Yên/năm. Trong những năm gần đây, để đáp ứng
những nhu cầu mới trong lĩnh vực y tế sức khoẻ, JICA đã hỗ trợ xây dựng nhà máy
sản xuất vắcxin sởi và lắp đặt phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp độ 3 cho
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương để tiến hành xét nghiệm cần thiết nhằm tăng
cường biện pháp phòng chống các bệnh truyền nhiễm như cúm gia cầm…JICA đã
cung cấp các trang thiết bị như máy soi Xquang cỡ lớn nhằm nâng cao năng lực
hải quan. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, kinh phí
cho viện trợ không hoàn lại hàng năm đang có khuynh hướng giảm dần. Những
năm gần đây tổng kinh phí cho viện trợ không hoàn lại còn khoảng 3 tỉ Yên/năm.
2.2.2 Hợp tác kỹ thuật
Năm tài
khóa
Tổng kinh
phí ( trăm
triệu yên )
Số học
viên mới
Số chuyên
gia mới
( dài hạn)
Số tình
nguyện
viên mới
2006
2007
2008
2009
2010
2011
52.75
51.98
59.65
61.42
71.52
104.86
1.410
1.221
1.597
983
1.176
1.195
448
443
423
556
793
967
22
49
53
69
39
32
Hỗ trợ xây dựng quy hoạch phát triển
Hợp tác kỹ thuật cho Việt Nam được bắt đầu từ năm 1993. Thông qua
các nghiên cứu phát triển như Quy hoạch phát triển giao thông khu vực phía Bắc,
Nghiên cứu cải thiện môi trường nước ở Hà Nội…, JICA đã hỗ trợ phát triển kinh
tế xã hội cho Việt Nam một cách tổng thể. Những nghiên cứu phát triển sau đó về
chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc gia ở Việt Nam, quy hoạch tổng thể
phát triển năng lượng điện, quy hoạch giao thông cho Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh,
khu vực Tây Bắc, phát triển liên kết TP Đà Nẵng và vùng phụ cận
Dự án hợp tác kỹ thuật
JICA tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam và chuyển giao các
kỹ thuật, kinh nghiệm của Nhật Bản thông qua việc cử các chuyên gia dài hạn (25
năm) và cử cán bộ đối tác đi đào tạo ở Nhật Bản trong các dự án hợp tác kỹ thuật
trong các lĩnh vực ưu tiên như: y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn và cải
thiện môi trường.
Trong lĩnh vực y tế, JICA đã liên tục cử chuyên gia Nhật Bản đến 3
bệnh viện trọng điểm ở miền Bắc (bệnh viện Bạch Mai), miền Trung (Bệnh viện
Trung ương Huế) và miền Nam (bệnh viện Chợ Rẫy) hỗ trợ đào tạo nguồn nhân
lực ngành y tế. JICA cũng đã thực hiện hợp tác kỹ thuật đối với bệnh viện tỉnh
Hoà Bình nhằm xây dựng và tăng cường cơ chế liên kết với các bệnh viện tuyến
huyện, qua đó góp phần cải thiện dịch vụ y tế tại địa phương.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, hỗ trợ cho trường
Đại học Nông nghiệp và các viện nghiên cứu để nâng cao năng suất, JICA đã thực
hiện các dự án hợp tác kỹ thuật với đối tượng là khu vực nông thôn điển hình tại
miền Bắc nhằm tăng cường quản lí hệ thống tưới tiêu với sự tham gia của nông
dân và nâng cao chức năng của các hợp tác xã, qua đó góp phần nâng cao mức sống
cho nông dân
Trong lĩnh vực môi trường, ngoài việc tiến hành hợp tác kỹ thuật để cải
thiện môi trường nước của đô thị và tăng cường quản lí rừng, lấy Hà Nội làm mẫu,
JICA hợp tác với các tổ chức đoàn thể nhân dân và các tổ chức phi chính phủ thực
hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến sáng kiến 3R hướng đến xây dựng một
xã hội bền vững
Cải thiện chế độ chính sách
JICA đã cử chuyên gia với tư cách cố vấn chính sách đến làm việc tại
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế…
Trong lĩnh vực tài chính, thông qua việc cử chuyên gia đến Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, JICA thực hiện hợp tác kỹ thuật hỗ trợ các nghiệp vụ như chính sách tài
chính, phát hành trái phiếu, giám sát ngân hàng… nhằm nâng cao năng lực cho Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Tại Việt Nam, được hỗ trợ của Đại sứ quán Nhật Bản và Hiệp hội
Doanh nghiệp Nhật Bản, chương trình hợp tác nhà nước và tư nhân Việt – Nhật
với tên gọi “Sáng kiến chung Việt – Nhật” nhằm cải thiện môi trường kinh doanh
đã được hình thành vào năm 2003. Chương trình này đã được đưa ra những khuyến
nghị cụ thể đối với Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư với sự
hợp tác của Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam…và
chủ yếu với Bộ Kế hoạch đầu tư
Từ nửa sau thập kỉ 90 cho đến nay, JICA liên tục cử các nhóm chuyên gia
gồm thẩm phán, luật sư và kiểm sát viên sang Việt Nam hỗ trợ xây dựng dự thảo
Luật dân sự và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực luật pháp.
Chương trình tình nguyện viên và Chương trình đối tác phát triển
Từ năm 1995, JICA đã bắt đầu cử các tình nguyện viên hợp tác hải ngoại
Nhật Bản đến Việt Nam trong các lĩnh vực y tế sức khoẻ, phát triển nông thôn,
dạy tiếng Nhật, hỗ trợ trẻ khuyết tật…Cho đến cuối tháng 12 năm 2011 đã có tổng
cộng 320 tình nguyện viên sang làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, từ năm 2001,
JICA đã bắt đầu cử tình nguyện viên cao cấp hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ và ngành công nghiệp phụ trợ. Vào thời điểm cuối tháng 1/2012, hiện
đang có 45 tình nguyện viên và 23 tình nguyện viên cao cấp làm việc tại các tỉnh
thành trên toàn quốc, từ tỉnh Quảng Ninh đến tận tỉnh Cà Mau.
JICA đã và đang triển khai các hoạt động trong những lĩnh vực sau: cải
thiện dinh dưỡng cho mẹ và bé, cung cấp nước sạch, hỗ trợ giáo dục cho khu vực
nghèo, tăng cường khả năng ứng phó với thiên tai của cộng đồng, tăng cường giáo
dục cho trẻ khuyết tật…
Một số lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ ODA của JICA cho Việt Nam
Các lĩnh vực ưu tiên hợp tác của ODA Nhật Bản cho Việt Nam được xác
định như dưới đây nhằm mục đích thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của Việt
Nam:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc
tế (kiểm soát lạm phát, tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước, tăng cường năng lực
cạnh tranh ngành công nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cấp cơ sở hạ tầng
v.v)
Tăng cường Quản trị Nhà nước (cải cách pháp luật và hệ thống tư pháp,
tăng cường chức năng và năng lực hành chính, thúc đẩy sự tham gia của người dân
v.v)
Hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương (giảm nghèo, thu hẹp khoảng
cách phát triển, cải thiện các dịch vụ xã hội cơ bản; các đối sách với vấn đề môi
trường và biến đổi khí hậu v.v)
2.3 Ý thức trách nhiệm của việt nam trong quản lý sử dụng và hoàn trả vốn hay
ODA
* Nhận thức rằng ODA là một nguồn lực ý nghĩa quan trọng từ bên ngoài, Chính
phủ Việt Nam đã tuyên bố quan điểm của mình về việc quản lý, sử dụng vốn
ODA, điều quan trọng là phải có trách nhiệm về điều phối và sử dụng nguồn vốn
vay.
* Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý năm 1997 – 1999, Chính
phủ ban hành Nghị định 87/1997/NĐCP ngày 05081997 và Nghị định 90/1998/NĐ
CP ngày 07111998 về quy chế vay và trả nợ nước ngoài thay thế cho hai Nghị
định trên, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, phân công rõ trách
nhiệm của các cơ quan tổng hợp của Chính phủ, các bộ, các ngành, địa phương và
các tổ chức kinh tế trong việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài.
*Bên cạnh đó chúng ta cần phải khắc phục những quan điểm cho là vốn vay ODA
như là một món quà tặng, cho không mà không có ý thức trách nhiệm trong việc
hoàn trả sau này, phải xác định rõ có vay thì phải có trả. Trên quan điểm đó sẽ tạo
được uy tín và thu hút ODA vào Việt Nam, không chỉ JICA mà từ các quốc gia khác,
ngày càng nhiều hơn.
III. Thực trạng huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam
3.1 Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ODA
-
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình hình thực hiện và giải ngân các chương
trình, dự án ODA và vốn vay ưu đãi tuy có những chuyển biến tích cực song
vẫn còn chậm hơn so với tiến độ đã cam kết. Bên cạnh đó, mức giải ngân
giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương còn chưa đồng đều. Xét
theo địa phương, giải ngân của các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh cao hơn nhiều so với các địa phương khác.
-
Công tác quản lý, sử dụng vốn ODA cũng còn một số hạn chế. Hạn chế và
yếu kém mang tính tổng hợp nhất có thể kể tới, đó là năng lực hấp thụ
nguồn vốn ODA quốc gia cũng như ở cấp ngành và địa phương chưa đáp
ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, thời gian xem xét và phê duyệt danh mục tài
trợ của các cơ quan trước khi trình Thủ tướng Chính phủ còn kéo dài;
Vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến quy định quản lý rút vốn hay liên
quan đến việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi đối với các hạng mục
chi tiêu thường xuyên vì sự nghiệp phát triển; liên quan đến cơ chế tài chính
trong nước đối với các khoản vay ODA và vốn vay ưu đãi; khác biệt về quy
trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ…
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới,
Việt Nam cần chứng tỏ được thế mạnh và tiềm năng phát triển của mình, khi đó
mới có thể thu hút tốt hơn nữa nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Do đó, để nâng
cao hiệu quả tiến độ giải ngân và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, các bộ,
ngành, địa phương cần tích cực hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong việc giải phóng mặt bằng, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị dự án, vốn
đối ứng.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước nguồn vốn ODA, cơ quan chủ quản, chủ
dự án và các nhà tài trợ cần tổ chức thường xuyên các cuộc họp kiểm điểm tình
hình thực hiện, xác định và kịp thời xử lý các vướng mắc nảy sinh; thúc đẩy tiến
độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân các chương trình, dự án ODA.
3.2. Những thành tựu đạt được
-
Hoạt động thu hút và sử dụng ODA Nhật Bản đã góp phần tích cực vào thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hình thành động lực và
phương hướng cho điều chỉnh chính sách theo hướng CNHHĐH, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghòe, nâng cao chất lượng cuộc sống và giải quyết
các vấn đề xã hội
Nguồn vốn ODA Nhật Bản là nguồn lực bên ngoài quan trọng bổ sung cho
nguồn vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của quá trình cải cách trong điều
kiện cơ sở hạ tầng còn yếu, đòi hỏi cần có nguồn vốn lớn trong khi vốn trong
nước không thể đáp ứng
Nguồn vốn ODA Nhật Bản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNHHĐH. ODA Nhật Bản được tập trung nhiều cho việc nâng cấp và xây dựng
các công trình quy mô quốc gia trong các lĩnh vực quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
tới sự phát triển kinh tế như giao thông, thủy điện, cấp thoát nước, y tế, giáo
dục…
Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam là lĩnh vực rất được quan tâm và tài
trợ chủ yếu bằng nguồn viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật của Nhật Bản.
Nhiều các chương trình dự án như xây dựng, nâng cấp các trường tiểu học, trường
dạy nghề và tăng cường năng lực các trường đại học…. giúp Việt Nam thu được
các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại, năng lực thể
chế và phát triển thể chế pháp lý cho các cán bộ và cơ quan Việt Nam
Cùng với những nỗ lực của phía Việt Nam, việc nâng cấp, phát triển cơ sở hạ
tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong
nước, ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế, theo sau ODA Nhật
Bản, dòng FDI của nước này vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên (năm 2003
là 1,2 tỷ USD, năm 2004 là 2,2 tỷ USD, năm 2005 là 4,4 tỷ USD, năm 2006 là 9,4 tỷ
USD). Môi trường đầu tư của Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản không
chỉ bởi Việt Nam là một thị trường tiềm năng mà còn vì sự hỗ trợ phát triển của
Chính phủ Nhật Bản tạo sự tin cậy cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào Việt Nam. Như
vậy, ODA và FDI có mối tương tác tích cực cho nền kinh tế Việt Nam
3.3. Những tồn tại trong tiếp nhận và sử dụng ODA Nhật Bản tại Việt Nam
Bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình hợp tác phát triển giữa
Nhật Bản và Việt Nam, thúc đẩy quan hệ hai nước, việc thu hút và sử dụng
nguồn vốn ODA Nhật Bản ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại cần nhanh chóng
giải quyết nhằm phát huy hiệu quả từ nguồn lực này cho phát triển kinh tế đất
nước.
Thứ nhất, các chương trình và dự án ODA Nhật Bản chủ yếu được thực
hiện theo định hướng ngành, lĩnh vực mà ít định hướng theo vùng, lãnh thổ. Các
khu vực được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhiều chủ yếu là vùng đồng bằng,
duyên hải, các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa ít được quan tâm hơn tạo sự
cách biệt về vùng, miền.
Thứ hai, nhiều dự án có tiến độ thi công diễn ra chậm chạp ngay từ khâu
thẩm định, phê duyệt, lựa chọn và tư vấn.
Thứ ba, tuy tỷ lệ giải ngân các dự án đã có nhiều biểu hiện tích cực, song
nói chung tỷ lệ vốn giải ngân ở nước ta còn ở mức thấp. Hiệu quả đầu tư và
chất lượng công trình trong nhiều dự án chưa cao. Về vấn đề giải ngân, năm
2000 có 5 dự án ODA cơ sở hạ tầng được giải ngân 5,68 tỉ Yên. Năm 2008, có 6
dự án giải ngân đạt 9,13 tỉ Yên, tăng 25,52 % so với năm 1999. Năm 2010, có 8
dự án giải ngân thuộc lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật với tổng giá trị 9,92 tỉ Yên tăng
36,32% so với mức giải ngân năm 2008.
Thứ tư, xuất hiện tình trạng lợi dụng nguồn vốn vào những mục đích
riêng. Theo đó làm nảy sinh tham nhũng, hối lộ…(Ví dụ gần đây là vụ nghi nhận
hối lộ ODA 80 triệu Yên xảy ra tại dự án xây dựng đường sắt đô thị số 1 Hà
Nội)
3.4. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Việt Nam chưa tạo được môi trường pháp lý hữu hiệu và hệ
thống các quy chế nhằm phù hợp với sự vận động của nguồn vốn ODA nói
chung và ODA Nhật Bản nói riêng. Cơ chế chính sách để quản lý và sử dụng
còn nhiều bất cập, tạo kẽ hở trong quản lý nhà nước về ODA, gây cản trợ trong
quá trình thực hiện dự án.
Sự tạo lập được môi trường chính trị, kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường
luật pháp thông thoáng đã tạo ra sức hấp dẫn thu hút đầu tư bên ngoài cũng như
nâng cao khả năng hấp thụ ODA. Mặc dù vậy, một cách khách quan thì cơ cấu
pháp luật vẫn chưa thực sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ các nhà tài trợ. Cụ thể:
Hệ thống chính sách có tính ổn định chưa cao, nhiều quy định chồng
chéo, thiếu đồng bộ, tạo kẽ hở. Thêm vào đó, thời gian ban hành văn bản kéo
dài, có độ trễ cao.
Khâu đánh giá sau dự án để xác định tính hiệu quả và lợi ích kinh tế do
dự án ODA mang lại còn nhiều hạn chế, chưa có sự quan tâm đúng mức.
Cơ chế tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao. Thủ tục
rườm rà, đặc biệt là trong chính sách về chi phí đền bù giải phóng mặt bằng,
chính sách cho vay lại hay chi phí cho chuyên gia và ban quản lý dự án.
Năng lực của Chính phủ trong việc điều phối và sử dụng nguồn vốn
ODA còn hạn chế bởi cơ chế và bộ máy hành chính phức tạp của Việt Nam,
những mặt yếu kém trong hoạt động đầu tư nước ngoài như hệ thống pháp lý
còn nhiều bất cập, văn bản dưới luật chưa ổn định và không đồng bộ, công tác
quản lý còn non yếu, thủ tục hành chính còn rườm rà, cải tiến chậm, việc thực
thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm túc. Chính phủ đã cố gắng xây dựng khuôn
khổ pháp lý, nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến các dự án đầu tư, như quản
lý tài chính, thủ tục đấu thầu, mua sắm thiết bị, giải phóng mặt bằng và tái định
cư. Mặc dù nhằm đơn giản hoá và cải thiện quá trình thực hiện ODA, song
những nỗ lực đó cũng phần nào làm chậm lại nhất thời việc triển khai dự án vì
cả các nhà tài trợ cũng như các cơ quan chủ dự án đều cần phải có thời gian để
làm quen với các quy định mới. Sự chậm trễ này trong một số trường hợp có thể
trở nên trầm trọng hơn do việc giải thích các hướng dẫn thực hiện được triển
khai chậm hơn rất nhiều so với việc ban hành các quy định mới. Tình trạng này
có thể đã làm chậm trễ nhiều dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án mới được triển
khai.
Thứ hai, việc tổ chức quản lý và điều hành quá trình huy động và sử
dụng ODA chưa hợp lý, kéo dài thời gian thực hiện, khiến tốc độ giải ngân
chậm, giảm thời gian ân hạn và hiệu quả đầu tư.
Công tác chuẩn bị dự án thiếu kỹ lưỡng về quy mô, công suất thiết
kế… dẫn tới phải điều chỉnh nhiều lần. Ví dụ như dự án lưới điện Hà Nội –
Hải Phòng – Nam Định giải ngân với tốc độ quá chậm là do khâu duyệt thiết kế
kỹ thuật quá lâu và tổ chức đấu thầu triển khai chậm. Thực tế, quá trình chuẩn
bị lập duyệt dự án thường kéo dài 13 năm, có dự án lâu hơn do sau khi ký hiệp
định lại thay đổi quy trình công nghệ như dự án Phú Mỹ, thay đổi cả mục tiêu
dự án như dự án cầu Bính Lợi…
Thời gian thẩm định, phê duyệt dự án kéo dài, chất lượng thẩm định
chưa cao, có khi độ trễ quá lớn, dự án thẩm định phê duyệt xong đã lạc hậu với
tình hình mới như dự án thoát nước Hà Nội; dự án thuỷ lợi kế hoạch giải ngân
năm 1999 là 35 triệu USD song chỉ giải ngân được 17 triệu USD do công tác giải
phóng mặt bằng mất quá nhiều thời gian. Nguyên nhân chủ yếu do trình độ
chuyên môn của cơ quan thẩm định còn hạn chế, chưa có sự phối hợp tốt giữa
các cơ quan thẩm định.
Công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư được coi là vấn đề nổi cộm
với phần lớn các chương trình dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Do có sự khác biệt
giữa chính sách đền bù giải phóng mặt bằng đối với các công trình giao thông
của phía Việt Nam và phía nhà tài trợ dẫn tới kéo dài thời gian đàm phán điều
chỉnh để đi tới thống nhất hoặc do việc triển khai kế hoạch đền bù tiến hành
chậm. Ví dụ như dự án cải tạo quốc lộ 5, dự án cải tạo quốc lô 18 phải xử lý 15
điểm ở Quảng Ninh, dự án nhà máy nhiệt điện Phả Lại có 100 hộ dân không
chịu di dời…
Vấn đề vốn đối ứng thiếu và không kịp thời (các dự án ODA đã và đang
thực hiện ở Việt Nam, thông thường Nhật Bản góp 85%, Việt Nam góp 15%
tổng giá trị dự án). Vốn mà Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thực tế không phụ
thuộc vào vốn cam kết mà hoàn toàn phụ thuộc vào việc triển khai các dự án vay
vốn phía Việt Nam. Theo phân tích, phía Việt Nam còn thiếu quy hoạch, yếu về
năng lực điều phối và quản lý các nguồn vốn ODA. Tình trạng thiếu vốn đối
ứng cho từng dự án là cản trở cơ bản trong việc triển khai các dự án.
Thứ ba, trình độ và năng lực chuyên môn của các cán bộ tham gia quản lý,
điều hành và thực hiện dự án còn hạn chế.
Hạn chế về chuyên môn – kỹ thuật được thể hiện rõ nhất trong khâu
thẩm định. Thực tế một số dự án tín dụng ưu đãi Nhật Bản sau hai bước tiền
thẩm định đến thẩm định phải thay đổi thiết kế. Sự thiếu chuyên môn dẫn tới
các quyết định đầu tư trùng lặp, thiếu đồng bộ.
Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm chính trong quản lý nguồn vốn phân
bổ, lựa chọn nhà thầu, thực hiện mua sắm, nghiệm thu công việc hoàn thành và
quyết định thanh toán cho nhà thầu. Do vậy, đòi hỏi cán bộ quản lý dự án phải
có chuyên môn tốt, ngoại ngữ tốt,…
Thứ tư, đối với các dự án chỉ sử dụng vốn vay ODA song phương, khó
khăn chủ yếu lại do khâu đàm phán hợp đồng tư vấn, thiết kế và thương mại.
Một số dự án quy mô lớn nhưng triển khai chậm làm ảnh hưởng đến tình hình
giải ngân chung.
Ví dụ : dự án cảng Hải Phòng, do nhà thầu cung cấp thiết bị là một công
ty Thái Lan đang gặp khó khăn về tài chính nên giao hàng chậm. Dự án nhà máy
nhiệt điện Phú Mỹ, dự án nhà máy thủy điện Hàm Thuận Đa Mi do đàm phán
thực hiện các hợp đồng thi công kéo dài và thay đổi nhà thầu cung cấp thiêt bị.
Dự án cảng Cái Lân (Quảng Ninh) thì chưa tổ chức đấu thầu do điều chỉnh kế
hoạch. Dự án đường hầm qua đèo Hải Vân lại không thống nhất được phương
án thiết kế. Ngoài ra, một số dự án khác như dự án hạ tầng cơ sở nội thành Hà
Nội giai đoạn I, dự án hệ thống viễn thông dọc bờ biển (miền Trung), dự án cấp
nước cho các tỉnh Đồng Nai, Bà RịaVũng Tàu... đàm phán hợp đồng tư vấn
chậm.
4.5 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, việc các nhà tài trợ đưa ra các quy định tài trợ phức tạp, nhiều
khoản vay bị ràng buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu. Các nhà tài trợ
Nhật Bản khi cung cấp ODA đều kèm them điều kiện phải sử dụng nhà thầu,
thiết bị và tư vấn của phía Nhật Bản theo phương thức chỉ định thầu hoặc đấu
thậu hạn chế làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Thứ hai, sự biến động của nền kinh tế Nhật Bản và nền kinh tế thế giới,
sự thay đổi tỷ giá đồng đô la so với đồng Yên, khủng ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng… gây ảnh hưởng tới nguồn vốn ODA trên thế giới nói chung và
của Nhật Bản nói riêng, giảm nguồn cung ODA cho các nước và cho Việt Nam.
Tóm lại, những trở ngại mang tính chất căn bản đối với quá trình thực
hiện các dự án đầu tư, ví dụ như các vấn đề về giải phóng mặt bằng, tái định
cư, đấu thầu và mua sắm thiết bị, có lẽ sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ thực
hiện. Trong khi có thể còn có những điểm khác biệt trong việc nhìn nhận những
nguyên nhân gây ra các khó khăn trên, cả Chính phủ Việt Nam và phía Nhật Bản
đã đẩy mạnh những nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này và đã bắt đầu
quá trình xem xét, kiểm điểm các vấn đề thực hiện chung, xác định những khâu
ách tắc và các biện pháp tháo gỡ. Có thể nói, tương lai ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam ra sao phụ thuộc rất lớn vào việc giải quyết những tồn tại nói trên.
Nếu không khắc phục được những yếu kém đó, việc thu hút và sử dụng ODA
không những không có hiệu quả mà còn trở thành gánh nặng cho thế hệ mai sau.
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA
4.1 Cần năng động trong nhận thức về ODA.
Nắm được các điều ước quốc tế mới ký kết và các thông lệ quốc tế trong hợp tác
phát triển và tăng cường khả năng vận dụng nhuần nhuyễn các hiểu biết này để ký
kết các hiệp định vay vốn.
Tạo điều kiện cho VN có quyền làm chủ và để được chủ động đề xuất và sử
dụng vốn ODA.
4.2 Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chiến lược thu hút vốn và quản lý sử
dụng ODA.
Chọn hướng "tham gia của cộng đồng " cho các dự án ODA (ở dạng như dự án cơ
sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng mà chúng ta vừa ký kết mới WB vào
tháng 6 năm 2001 vừa qua).
Các qui định của chính phủ nên được xem xét, điều chỉnh lại cho phù hợp trong
việc triển khai các dự án ODA, bởi vì chúng có tác động hạn chế đến những tiềm
năng nội lực của từng vùng và từng lĩnh vực.
4.3 Ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ cho các khu vực nghèo đói .
Trong quan hệ với các tổ chức phi chính phủ quôc tế, cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa chính phủ VN với các tổ chức phi chính phủ, hướng các nguồn viện
trợ của họ tới các vùng nghèo nhất của VN như vùng Tây nguyên, vùng đồng bằng
sông Cửu Long và các vùng nùi phìa Bắc.
Chính phủ cần đưa ra các qui định đối với các hoạt động của nhà tài trợ theo khu
vực địa lý, đưa ra các danh mục cho các chương trình, quốc gia về lĩnh vực xã hội
như chương trình quốc gia về việc làm , về dân số và KHHGĐ, danh mục các xã
vùng nghèo đói của VN để kêu gọi sự chú ý của các nhà tài trợ .
4.4 Hoàn thiện môi trường pháp lý đối với quản lý ODA và quá trình phân công,
phân cấp ra quyết định trong qui trình dự án.
Nên thiết lập một cơ chế nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng thông suốt của
cả hệ thống tổ chức liên quan đến viện trợ.
Về công tác quản lý , đầu tư xây dựng : Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn
thiện nghị định 42/CP, 92/CP về qui chế đấu thầu . Nhưng cần qui định trách
nhiệm rõ ràng hơn của từng cơ quan và các đon vị trong quá trình thẩm định và phê
duyệt dự án , tăng cường trách nhiệm của từng cơ quan theo hướng giảm các thủ
tục trình duyệt qua nhiều cấp . Tiếp tục hoàn thiện các nghị định trên tiến tới hài
hòa độ "vênh" giữa các thủ tục về phía nhà tài trợ và phía VN , tránh làm phức tạp
hoá chu trình thực hiện dự án ở VN.
Về cơ chế tài chính trong nước : Cơ chế tài chính đã dần dần được cải thiện , đã
ban hành qui chế vốn đối ứng và qui trình thủ tục vốn đối với các dự án ODA .Tuy
nhiên vẫn cần phải theo dõi chặt chẽ đảm bảo tín hiệu theo đúng qui trình , đồng
thời tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh những bất cập mới nảy sinh .Vốn đối ứng cho
các dự án ODA đều được bố trí từ ngân sách . Vấn đề là các cơ quan TW cũng như
địa phương phải giải quyết như thế nào cho đủ vốn khi mà ngân sách NN còn hạn
hẹp . Muốn giải quyết vấn đề này trước hết phải kiểm soát chặt chẽ việc lập kế
hoạch cân đối nguồn vốn đối ứng để kịp thời đảm bảo vốn đối ứng cho các
chương trình, dự án ODA .Thứ hai vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ
của từng chương trình dự án cụ thể , không được tuỳ tiện giao cho các mục tiêu
khác . Chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ các cam kết của chính phủ trong các điều
ước Quốc tế về ODA. Các cơ quan chủ quản và cơ quan thực hiện dự án đều phải
cân đối với vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm của mình .
4.5 Hoàn thiện hơn nữa công tác kế hoạch hoá.
Cần phải có một qui hoạch tổng thể ODA nhằm tăng cường chất lượng đầu vào
của công tác kế hoạch hoá đầu tư bằng vốn ODA. Qui hoạch nếu được Chính phủ
thông qua sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để cơ quan điều phối viện trợ, hình
thành kế hoạch viện trợ.
Tinh giảm bộ máy cồng kềnh trong quản lý để giải ngân đỡ phức tạp, có những
chính sách ưu đãi thiết thực cho cơ sở.
4.6 Nâng cao công tác thông tin và theo dõi dự án ODA.
Cần khẩn trương thiét lập một hệ thống thông tin hữu hiệu về ODA, những thông
tin đó phải thể hiện rõ vấn đề sau:
+ Chiến lược hành động, cơ sở hợp tác, quy trình thủ tục ODA của từng nhà tài trợ.
Nêu những đặc điểm , nguyên tắc luật lệ của từng nhà đối tác viện trợ.
+ Các điều ước quốc tế về hợp tác phát triển , qui chế mà chính phủ ta đã kí kết
với các nhà tài trợ để đảm bảo thi hành nhất quán các văn bản này.
+ Thông tin về cam kết ODA của các nhà tài trợ , định hướng ưu tiên chiến lược sử
dụng ODA của chính phủ , tình hình giải ngân ODA theo nghành , vùng, lĩnh vực cụ
thể.
+ Thông tin về hệ thống văn bản luật , các qui định , qui chế trong quản lý sử dụng
ODA, các hướng dẫn về qui trình thủ tục đối với một dự án ODA cụ thể.
4.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các dự án ODA.
Trong thời gian tới, chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến kiểm tra ,giám sát dự án
ở giai đoạn sau dự án. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đầy đủ góp phần làm
tăng tính bền vữngcủa dự án, tạo khả năng giải ngân nhanh và củng cố niềm tin
của các nhà tài trợ đốivới Việt Nam.
Các đơn vị thực hiện vốn ODA cần phải thực hiện nghiêm chỉnh và thường xuyên
báo cáo vốn đầu tư thực hiện và quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành .Báo
cáo quyết toán cần phải được kiểm toán để đảm bảo tính chính xác trước khi gửi
đến các cơ quan chức năng thẩm tra phê duyệt quyết toán.
4.8 Tăng cường công tác đào tạo và điều phối bố trí cán bộ trong quản lý và sử
dụng ODA.
Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về
nhận thức, thái độ và kỹ năng ở tất cả các cấp, tăng cườngcông tác quản lý nhà
nước về ODA. Các cán bộ quản lý ODA phải có kiến thức đầy đủ về các mặt:
+ Các loại hình viện trợ có thể vận động và các chi phí có liên quan để hấp thụ
viện trợ
+ Chính sách và lợi ích của các nhà tài trợ.
+ Chu kỳ dự án, sự phối hợp giữa các cơ quan cũng như trách nhiệm, quyền hạn
của mỗi cơ quan ở từng giai đoạn của chu kỳ dự án.
+ Các kiến thức về kinh tế thị trường, phương pháp phân tích chính sách kinh tế
phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
+ Những kiến thức cơ bản về ngoại giao, luật pháp quốc tế, trình độ ngoại ngữ...
Công tác điều phối bố trí cán bộ tham gia quản lý dự án ODA cũng cần phải xem
xét lại.Trong quá trình thực hiện dự án, không nên thay thế nửa chừng các cán bộ
chủ chốt của dự án, nhất là người quản lý điều hành vì làm như vậy sẽ dẫn đến
tình trạng mất tính liên tục của dự án, đứt đoạn cho công tác thực thi dự án đúng
tiến độ.
KẾT LUẬN
Trong quá trình quản lý và sử dụng ODA, Chính phủ cần luôn luôn phát huy vai trò
làm chủ của mình, các nhà tài trợ chỉ đóng vai trò hỗ trợ.Tăng cường thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là một phương hướng chiến
lược trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hóa đất nước ta. Phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những tác động
tiêu cực trong sử dụng nguồn vốn này là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn mới.