Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Bài tập nhóm: ODA của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.59 KB, 24 trang )

BÀI TẬP NHÓM
(Nhóm 3)

Chủ đề: ODA của Cơ quan hợp tác quốc tế 
Nhật Bản (JICA)

Danh sách thành viên:
Đoàn Vân Anh
Trần Thị Như Nguyệt 
Nguyễn Thị Mai Loan
Nguyễn Thị Loan
    


Lý luận chung về ODA­ JICA
1.1  Nguồn gốc ODA
        Kế hoạch Marshall ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, với mục đích là giúp  
các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp 
nhận viện trợ  của kế  hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương  
trình phục hồi kinh tế  có sự  phối hợp và thành lập một tổ  chức hợp tác kinh tế 
Châu Âu (OECD). Trong khuôn khổ  hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra 
những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ  ban viện trợ phát triển (DAC). Uỷ  ban 
này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD 
cho các nước đang và kém phát triển. Kể từ  khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra  
đời vào năm 1961, thuật ngữ  ODA được chính thức sử  dụng, với ý nghĩa là sự  trợ 
giúp có  ưu đãi về  mặt tài chính của các nước giàu, các tổ  chức quốc tế  cho các  
nước nghèo.
1.2  Định nghĩa ODA
             ODA là viết tắt của cụm từ  Official Development Assistance khi được dịch 
sang tiếng Việt nó có nghĩa là “Viện trợ  phát triển chính thức”. Đây là các nguồn 
hỗ trợ, hình thức đầu tư nước ngoài cho một quốc gia nào đó. Gọi là Hỗ trợ bởi vì 


các khoản đầu tư  này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất 
thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu  
danh nghĩa của các khoản đầu tư  này là phát triển kinh tế  và nâng cao phúc lợi  ở 
nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Một khoản tài trợ  được gọi là ODA nếu đáp  ứng đầy đủ  3 điều kiện sau đây:
­ Một là, được các tổ  chức chính thức hoặc đại diện của các tổ  chức chính thức  
cung
 
cấp. 
Tổ  chức chính thức là các nhà nước mà đại diện là Chính Phủ, các tổ  chức liên 
Chính
 
Phủ,
 
liên
 
quốc
 
gia
Các   tổ   chức   phi   Chính   Phủ   hoạt   động   không   vì   mục   tiêu   lợi   nhuận 
­ Hai là, mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc 
lợi
 

 
hội. 
­ Ba là, thành tố  hỗ  trợ  ( grant element) ­ yếu tố không hoàn lại ­ phải đạt ít nhất  
25%. Thành tố  hỗ  trợ càng cao càng thuận lợi cho nước hỗ  trợ. Chỉ tiêu này được  
xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố: lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số 
lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu. 

1.3 Phân loại
1.3.1 Phân loại theo cách thức hoàn trả ODA:
1.3.1.1 Viện trợ không hoàn lại
I.


           Viện trợ không hoàn lại là loại ODA mà bên nước nhận không phải hoàn 
lại, nguồn vốn này nhằm để thực hiện các dự  án ở nước nhận vốn ODA, theo  
sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một 
nguồn thu ngân sách của nhà nước, được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển 
kinh tế xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số ODA trên thế  giới và được  
ưu tiên cho những dự   án về  các lãnh vực như  y tế, dân số, giáo dục, môi 
trường...
1.3.1.2 Viện trợ  có hoàn lại (còn gọi là tín dụng  ưu đãi, có yếu tố  không hoàn lại  
chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay)
Tín dụng ưu đãi là vốn ODA với một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả 
nợ thích hợp, nó  chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới.  
Nó không được dùng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được dùng 
cho các dự  án về  cơ  sở  hạ  tầng thuộc các lãnh vực giao thông vận tải, nông 
nghiệp, thủy lợi, năng lượng...làm nền tảng vững chắc cho  ổn định và tăng  
trưởng kinh tế. Các điều kiện ưu đãi bao gồm:
­

Lãi suất thấp

­

Thời gian trả nợ dài


­

Có khoảng thời gian không trả lãi hay trả nợ

     1.3.1.3. ODA cho vay hỗn hợp:
Đây là loại ODA kết hợp hai dạng trên, bao gồm một phần không hoàn 
lại và tín dụng ưu đãi.
     1.3.2 Phân loại theo mục đích
1.3.2.1
  Hỗ trợ cơ bản: 
Hỗ  trợ  cơ  bản là những nguồn lực được cung cấp để  đầu tư  xây dựng  
cơ sở hạ tầng kinh tế ­ xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho  
vay ưu đãi.
1.3.2.2

 Hỗ trợ kỹ thuật 

Hỗ trợ kỹ thuật là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công 
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu  
tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực… Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ 
không hoàn lại.


1.3.3 Phân loại theo điều kiện
1.3.3.1 ODA không ràng buộc
ODA không ràng buộc là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị  ràng buộc  
bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng
      1.3.3.2 ODA có ràng buộc
­ Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp 
dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số 

công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương),  
hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
­ Ràng buộc bởi mục đích sử  dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ  chỉ 
được cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này 
cho những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.
      1.3.3.3. ODA ràng buộc một phần: 
Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở nước viện trợ (như 
mua sắm hàng hoá hay sử  dụng các dịch vụ  của nước cung cấp ODA), phần  
còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
1.3.4 Phân loại theo hình thức
1.3.4.1. Hỗ trợ dự án: 
Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có 
thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu 
đãi.  1.3.4.2. Hỗ trợ phi dự án: 
Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ  sở tự  nguyện. Khi nhận  
thấy các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính phủ nước sở 
tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được chính phủ chấp 
thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả  thuận của hai bên. Loại  
ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ  phía chính phủ 
nước tài trợ. Do đó, chính phủ  nước này phải cân nhắc kỹ  các đòi hỏi từ  phía 
nhà tài trợ  xem có thoả  đáng hay không. Nếu không thoả  đáng thì phải tiến  
hành   đàm   phán  nhằm   dung  hoà   điều   kiện   của   cả   hai   phía.   Loại   ODA   này  
thường có mức không hoàn lại khá cao, bao gồm các loại hình sau:
­
Hỗ  trợ  cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ  trợ  tài chính trực  
tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ  trợ  xuất nhập khẩu.  
Ngoại tệ  hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể  được sử 
dụng để hỗ trợ cho ngân sách.



­
Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món 
nợ mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
­
Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng 
quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ  được sử 
dụng như thế nào. 
1.4 Đặc điểm
        ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc  
tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
1.4.1 Vốn ODA mang tính ưu đãi 
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả  vốn dài), có thời gian ân hạn 
dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm 
và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông   thường,   trong   ODA   có   thành   tố   viện   trợ   không   hoàn   lại(   cho 
không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.  
Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn  
và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở 
đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang  
và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các 
nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ  nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu  
người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ 
lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp  
và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ  hai: Mục tiêu sử  dụng vốn ODA của các nước này phải 
phù hợp với chính sách và phương hướng  ưu tiên xem xét trong mối quan hệ 
giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có  
những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà 

họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên 
của các nước cung cấp ODA cũng có thể  thay đổi theo từng giai đoạn cụ  thể. 
Vì vậy, nắm bắt được xu hướng  ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ 
chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về  thực chất, ODA là sự  chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại 
trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ  các 


nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về 
mặt xã hội và chịu sự  điều chỉnh của dư  luận xã hội từ  phía nước cung cấp  
cũng như  từ  phía nước tiếp nhận ODA. Và quan trọng ODA là nguồn vốn có 
khả năng gây nợ.
1.4.2 Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể  ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng 
buộc) nước nhận về  địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ 
cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ 
đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được 
thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không  
quên dành được lợi ích cho mình vừa gây  ảnh hưởng chính trị  vừa thực hiện  
xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ  tư  vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng  
hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ  phải mua hàng hoá 
dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%.
1.4.3 ODA do chính nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nhưng luôn có  
sự giám sát từ phái nhà tài trợ, tuy nhiên sự giám sát này không trực tiếp. 
Chính vì nguyên nhân này mà ODA đôi khi sử dụng kém hoặc không hiệu 
quả  nếu như  nước  tiếp nhận ODA thiếu hoặc chưa nhận thức  được trách 
nhiệm của mình trong việc quả lý và sử dụng nguồn viện trợ này sao cho hiệu  
quả. Hơn nữa, cùng với sự   ưu đãi từ  nguồn viện trợ  này như  việc vay  ưu đãi  
với lãi suất thấp chỉ băng 1/10 so với vốn vay thông thường và một phần cho  

không, thời gian trả  nợ dài gồm cả  thời gian ân hạn. Điều kiện  ưu đãi này đã  
dẫn đến một số  người có tư  tưởng xem nhẹ  hiệu quả  sử  dụng ODA với tư 
cách là khoản vay cần phải trả nợ.
1.4.4 ODA là một giao dịch quốc tế
Thể hiện  ở chỗ hai bên tham gia giao dịch này không có cùng quốc tịch.  
Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên  
tiếp nhận thường là các nước đang phát triển hay các nước gặp khó khăn về 
nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường.
­   ODA   thường   được   thực   hiện   qua   hai   kênh   giao   dịch   là   kênh   song 
phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA 
trực tiếp cho chính phủ  quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương, các tổ  chức  
quốc tế  hoạt động nhờ  các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung 


cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là  
cách cung cấp ODA gián tiếp.
­ ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện  
ở chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự 
chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ  quốc gia tiếp nhận. Sự  đồng ý tiếp  
nhận đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với  
nhà tài trợ.
      1.5 Ý nghĩa của ODA
      1.5.1 Với nước tiếp nhận ( các nước đang phát triển)
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các 
nước đang phát triển thực hiện các chiến lược phát triển KT­XH của mình. Vai 
trò của ODA thể hiện trên các giác độ cơ bản như:
­ ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu 
tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính 
ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 ­ 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 
0,25% đến 2%/năm. Chỉ  có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay  ưu đãi như 

vậy Chính phủ  các nước ĐPT mới có thể  tập trung đầu tư  cho các dự  án xây 
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ  tầng 
xã hội như  giáo dục, y tế. Những cơ  sở  hạ  tầng KTXH được xây dựng mới 
hoặc   cải   tạo   nhờ   nguồn   vốn   ODA   là   điều   kiện   quan   trọng   thúc   đẩy   tăng  
trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của  
WB, đối với các nước ĐPT có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% 
GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
­   ODA   giúp   các   nước   ĐPT   phát   triển   nguồn   nhân   lực,   bảo   vệ   môi 
trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên  
dành cho đầu tư  phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và 
hiệu quả  của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho  
việc dạy và học của các nước ĐPT. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn 
cũng được dành cho các chương trình hỗ  trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ 
cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã gia tăng 
đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình. 
­ ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một  
trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành  
phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo 
của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% 
GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và 


nếu như  các nước giầu tăng 10 tỷ  USD viện trợ  hằng năm sẽ  cứu được 25 
triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo. 
­ ODA là nguồn bổ  sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán 
quốc tế của các nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt 
cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế  của các quốc gia  
này. ODA, đặc biệt các khoản trợ  giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh 
hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
­ ODA được sử  dụng có hiệu quả  sẽ  trở  thành nguồn lực bổ  sung cho 

đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai  
trò như  nam châm “hút” đầu tư  tư  nhân theo tỷ  lệ  xấp xỉ  2 USD trên 1 USD 
viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn 
góp phần củng cố  niềm tin của khu vực tư  nhân vào công cuộc đổi mới của 
Chính phủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với  
đầu tư  tư  nhân. Ở  những nền kinh tế có môi trường bị  bóp méo nghiêm trọng  
thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều  
này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ  nhiều, mặc dù nhận được một  
lượng ODA lớn của cộng đồng quốc tế  song lại không hoặc tiếp nhận được 
rất ít vốn FDI.
­ ODA giúp các nước ĐPT tăng cường năng lực và thể  chế  thông qua các  
chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và 
xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.5.2 Với nước tài trợ
Các nước giàu khi viện trợ  ODA đều gắn với những lợi ích và chiến 
lược như  mở  rộng thị  trường, mở  rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục  
tiêu về an ninh ­ quốc phòng hay theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều 
có chính sách riêng hướng vào một số  lĩnh vực mà họ  quan tâm hay họ  có lợi 
thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế ­ 
chính trị ­ xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
­ Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào 
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu 
hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước  
mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; 
yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư  trực tiếp nước ngoài như  cho  
phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
­ Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch 
đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của nước tài trợ. Cụ thể là nước cấp 
ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, 
dịch vụ do họ sản xuất.



­ Việc cung cấp ODA giúp các nước tài trợ  mở  rộng mối quan hệ  hợp  
tác, ngoại giao và tạo được vị thế vững chắc của mình trên thế giới.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục  
tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như  không thay đổi so với  
trước đây: tập trung cho an ninh của hệ  thống TBCN, tuyên truyền dân chủ 
kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế 
giới thứ  ba vào trong một trật tự  tự  do mà các trung tâm tự  bản đã sắp đặt  
khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào...
1.6 Khái niệm JICA
JICA là chữ  viết tắt của Văn phòng Hợp tác quốc tế  Nhật Bản (The  
Japan International Cooperation Agency). JICA là cơ  quan triển khai viện trợ 
phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản cho các dự án hợp tác mang tính kỹ 
thuật, hợp tác vốn vay và viện trợ không hoàn lại . Mục tiêu của JICA là đóng  
góp một phần vào việc tái thiết các nước đang phát triển, hướng tới việc có thể 
độc lập giải quyết những vấn đề  kinh tế  ­ xã hội của riêng mỗi nước. Do đó,  
JICA đặt trọng tâm hành động vào việc chia sẻ các kinh nghiệm và kiến thức  
của Nhật Bản với các nước đang phát triển. JICA hiện có đại diện tại hơn 100  
nước trên thế  giới và đang mở  rộng hoạt động tại hơn 160 quốc gia và vùng 
lãnh thổ.
JICA có nguồn gốc từ  “Tổ  chức Hợp tác Quốc tế” được thành lập từ 
năm 1974. Với tư  cách là một trong những cơ quan thực hiện ODA của Chính 
Phủ Nhật Bản, cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (gọi tắt là JICA) chịu trách 
nhiệm thực hiện phần hợp tác kỹ  thuật. Từ  tháng 10 năm 2003, JICA chuyển 
thành một Cơ quan hành chính độc lập. Với mục đích giúp cho các nước đang  
phát triển có thể phát triển kinh tế xã hội một cách tự lực và bền vững, JICA đã 
thực hiện các hoạt động hợp tác chủ  yếu là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ 
cho công cuộc xây dựng đất nước.
Từ  tháng 10/2008, phần hợp tác vốn vay của JBIC (Ngân hàng hợp tác 

Quốc tế  Nhật Bản) được hợp nhất vào JICA, theo đó JICA mới được hình 
thành. JICA mới thực hiện cả  3 hình thức viện trợ  ODA: Hợp tác kỹ  thuật,  
Hợp tác vốn vay và Viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, các hoạt động viện trợ sẽ 
được tiến hành hiệu quả  hơn từ  xây dựng cơ  sở  hạ  tầng với quy mô lớn tới  
hợp tác kỹ thuật cấp cơ sở tại cộng đồng phù hợp với nhu cầu đa dạng của các  
nước đang phát triển.
1.7 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của JICA
* Mục đích
­Giúp đỡ  cho các nước đang phát triển có thể  phát triển kinh tế  xã hội 
một cách tự lực và bền vững


 ­Tăng cường hợp tác quốc tế của Nhật Bản.
 *  Nguyên tắc hoạt động
JICA áp dụng 3 nguyên tắc sau trong các hoạt động viện trợ của mình để 
tiến hành cải cách các hoạt động tại nước nhận viện trợ và thực hiện hợp tác  
quốc tế một cách toàn diện với chất lượng cao: 
­Speed­up: Đẩy nhanh hợp tác viện trợ  từ  khâu chuẩn bị  đến khi thực 
hiện
­Scale­up: Mở rộng quy mô viện trợ
­Spread­out: Nhân rộng các kết quả viện trợ
II. Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản
2.1 Quá trình phát triển của JICA tại Việt Nam
1992

JICA bắt đầu các hoạt động hợp tác tại Viêt Nam b
̣
ằng việc cử 
chuyên gia Nhật Bản sang Việt Nam và tiếp nhận học viên đi 
đào tạo tại Nhật Bản


1994

Ky kêt Công hàm vê C
́ ́
̀ ử  Tình nguyện viên Hợp tac Hai ngoai
́
̉
̣ 
Nhật Bản

1995

Chính   thức   thành   lâp
̣   Văn   phong
̀   JICA   Viêṭ   Nam   taị   Hà  Nôị
Bắt đầu cử Tình nguyện viên Hợp tac Hai ngoai Nh
́
̉
̣
ật Bản

1998

Ký kết Hiêp đinh H
̣
̣
ợp tac Ky thuât Vi
́
̃

̣
ệt Nam – Nhât B
̣ ản

10/1999

Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) được thành lập từ 
việc   sáp   nhập   hai   tổ   chức:   OECF   và   Ngân   hàng   Xuất­Nhập  
khẩu Nhật Bản (JEXIM)

2002

Thành lâp Văn phong Liên lac JICA t
̣
̀
̣
ại TP Hồ Chí Minh

Hình thành JICA Mới (Bô phân vôn vay ODA cua JBIC sat nhâp
̣
̣
́
̉
́
̣  
với JICA thanh JICA M
̀
ơi)
́
2.2 Chính sách ODA của Nhật Bản dành cho VN

10/2008

2.2.1 Hợp tác hỗ trợ về kinh phí
2.2.1.1 Hợp tác vay vốn 
Đơn vị: Tỷ yên
Vốn vay ODA
Năm tài khóa 2008

83.2

Viện trợ  không hoàn  Tổng cộng
lại
1.4
84.6


Năm tài khóa 2009
Năm tài khóa 2010
Năm tài khóa 2011
Tổng chi phí trong 20 
năm

145.6
86.6
270
1.836

3.5
3.5
5.4

83.4

1149.1
90.1
275.4
1914.9

Vào tháng 11/1992 Việt Nam được bắt đầu bằng vốn vay hàng hoá với  
khoản vay trị  giá 45,5 tỉ  Yên. Tiếp đó vào năm 1993, bắt đầu thực hiện vốn vay 
luôn đặt trọng tâm hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng – nền tảng cho phát triển kinh tế 
của Việt Nam. Tổng số vốn cam kết mỗi năm tài khoá tăng dần, với 95,1 tỉ  Yên 
năm 2006; 97,9 tỉ  Yên năm 2007; 83,2 tỉ  Yên năm 2008 và đạt gần ngưỡng 100 tỉ 
Yên mỗi năm. Năm 2009 số vốn cam kết đạt mức kỉ  lục 145,6 tỉ Yên bao gồm cả 
kinh phí hỗ  trợ  đối phó với khủng hoảng kinh tế  thế  giới (500 triệu USD); cuối  
năm 2010 số vốn cam kết là 86,6 tỉ Yên, đưa tổng số vốn cam kết lên đến 1.566,1 tỉ 
Yên (cuối năm 2010). Bên cạnh đó, tổng mức giải ngân là 79,2 tỉ  Yên năm 2007;  
71,8 tỉ Yên năm 2008; 121,4 tỉ Yên năm 2009; 84,1 tỉ Yên năm 2010. Các ngành chủ 
yếu trong các lĩnh vực nhận viện trợ là các ngành phát triển cơ sở hạ tầng gồm chủ 
yếu là giao thông vận tải và điện lực (chiếm khoảng 40% và 30% trong tổng số 
vốn cam kết). Thành tích hỗ trợ trong mỗi ngành cụ thể như sau:
­ Giao thông vận tải
Trong ngành giao thông vận tải, suốt thập kỉ 90, JICA đã bắt đầu hỗ trợ 
bằng việc cải tạo, xây dựng các tuyến đường liên tỉnh ở miền Bắc nối với Hà Nội  
– Hải Phòng – Hạ  Long và các cầu (Cầu Bãi Cháy  ở  Hạ  Long, cầu Bính  ở  Hải  
Phòng), mở rộng các cảng (Cảng Hải Phòng và Cảng Cái Lân), nâng cấp Quốc lộ 1  
nối liền Bắc – Nam, cải tạo cầu đường sắt tuyến Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh, tiếp  
đó là xây dựng đường hầm Hải Vân và cải tạo cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng.
Từ những năm 2000, sau khi hoàn thành xây dựng nhà ga hành khách của 
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất bằng vốn vay ODA, JICA đã bắt đầu hỗ trợ những  
công trình như: xây dựng nhà ga sân bay Nội Bài; phát triển cảng Cái Mép Thị Vải  

– cảng đầu mối của miền Nam; xây dựng cảng nước sâu đầu tiên  ở  phía Bắc –  
cảng Lạch Huyện; xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam (đoạn TP.Hồ Chí Minh – 
Dầu Giây; Bến Lức – Long Thành; Đà Nẵng – Quảng Ngãi),… và giúp đỡ  thực  
hiện nhiều dự án khác
­ Ngành điện
JICA đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy điện quan trọng nhằm đáp ứng  
nhu cầu tăng mạnh về  điện do phát triển kinh tế. Đó là các nhà máy sử  dụng tài  
nguyên than đá phong phú tại miền Bắc (Nhà máy nhiệt điện Phả  Lại), các nhà 
máy sử  dụng năng lượng nước và khí đốt tự  nhiên ngoài khơi tại miền Trung và  
miền Nam (Thuỷ  điện Hàm Thuận Đa Mi, Thuỷ  điện Đại Ninh, Nhiệt điện Phú 


Mỹ, Nhiệt điện Ô Môn). Tại Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, sau khi xây dựng xong 
Phú Mỹ  1 bằng vốn vay ODA, Phú Mỹ  2 và 3 đã được thực hiện dưới dạng IPP  
(đơn vị mua bán điện độc lập) có sự tham gia của doanh nghiệp Nhật Bản. Đây là  
công trình điển hình về  sự  kết hợp giữa nhà nước và tư  nhân trong xây dựng hệ 
thống truyền tải điện bằng vốn vay ODA. Tiếp theo giai đoạn 1 xây dựng nhà máy 
nhiệt điện Nghi Sơn  ở miền Bắc bằng nguồn vốn vay ODA, giai đoạn 2 dự  định 
sẽ thực hiện theo mô hình IPP.
­ Giao thông đô thị, cải thiện môi trường
Để  cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội, JICA đã sử  dụng 
vốn vay ODA mở rộng các tuyến đường chính trong thành phố, chuyển các nút giao 
thông ùn tắc nghiêm trọng thành giao cắt khác mức. Bên cạnh đó, để hình thành các  
tuyến vành đai, cầu Nhật Tân (cầu hữu nghị  Việt – Nhật) đã được bắt đầu xây  
dựng tiếp sau xây dựng cầu Thanh Trì qua sông Hồng. Tại TP. Hồ Chí Minh, JICA  
đã hỗ trợ vốn vay ODA để xây dựng Đại lộ Đông Tây, trục đường xuyên tâm thành 
phố, nhằm phát triển lại đô thị và cải thiện tình hình giao thông. Hơn nữa, với mục  
đích cải thiện triệt để tình hình giao thông đô thị, JICA đã bắt đầu khởi động dự án 
xây dựng đường sắt đô thị  trên cao (tuyến số  1) và tàu điện ngầm cho Hà Nội 
(tuyến số 2) cũng như tàu điện ngầm cho TP.Hồ Chí Minh (tuyến số 1).

Tại các đô thị, do năng lực thoát nước yếu nên đã phát sinh vấn đề ngập  
lụt và môi trường xuống cấp, để cải thiện tình trạng này, JICA đã thực hiện các dự 
án cải thiện môi trường nước và hệ  thống thoát nước cho Hà Nội và TP.Hồ  Chí 
Minh. Các dự  án này đều đã hoàn thành giai đoạn 1 và bắt đầu giai đoạn 2. Ngoài 
ra, các dự án tương tự cũng đã bắt đầu tại Hải Phòng, Huế và Bình Dương.
­Cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Kể  từ  năm 1993, JICA đã hỗ  trợ  cải tạo đường bộ, cấp nước và cấp 
điện cho các khu vực nông thôn và sau đó liên tục cung cấp tín dụng chuyên ngành  
nhằm đáp  ứng nhu cầu đa dạng về  cơ  sở  hạ  tầng nông thôn gồm hệ  thống tưới  
tiêu quy mô nhỏ, trồng rừng,… giúp cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn của các tỉnh,  
đóng góp vào sự phát triển kinh tế cũng như  cải thiện điều kiện sống của các địa  
phương.
Hơn nữa, từ  giữa những năm 1990, nhằm thúc đẩy phát triển các ngành 
nghề  sản xuất, JICA tiến hành cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ  thông 
qua Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra, JICA còn hợp  
tác với các nhà tài trợ  như  Ngân hàng Thế  giới để  cho vay hỗ  trợ  ngân sách phục 
vụ kế hoạch giảm nghèo.
­Đảm bảo chất lượng và an toàn công trình
Để  Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh về  kinh tế  và phát triển  
bền vững, lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, điện lực…đòi 


hỏi phải được nâng lên một tầm cao mới. Do vậy, gần đây các dự  án hợp tác vốn 
vay tập trung vào những công trình có quy mô lớn và độ khó về kỹ thuật cao như tài  
điện ngầm, đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh… JICA hiện đang thực  
hiện hợp tác kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và tính an toàn của các công trình, 
đồng thời cũng hợp tác với các nhà tài trợ khác để giúp cải thiện các chính sách cần 
thiết cho việc triển khai thuận lợi các công trình như  chính sách giải phóng mặt 
bằng, tái định cư, các thủ tục và công tác đấu
2.2.1.2 Viện trợ không hoàn lại

Trong hợp tác hỗ trợ  về kinh phí, hợp tác viện trợ không hoàn lại được 
kết hợp với hợp tác kỹ thuật, đặt trọng tâm vào việc nâng cao mức sống cho người  
dân, tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực y tế sức khoẻ và phát triển nông thôn. Năm  
1992 dự án cải tạo bệnh viện Chợ Rẫy, sau đó liên tục triển khai nhằm hỗ trợ nâng  
cấp các bệnh viện trọng điểm tại Hà Nội, Huế và Hoà Bình; xây dựng trường học 
tại các vùng khó khăn; xây dựng cầu và đường nông thôn; cấp nước; trồng rừng… 
với mức hỗ  trợ  khoảng 6­9 tỉ  Yên/năm. Trong những năm gần đây, để  đáp  ứng  
những nhu cầu mới trong lĩnh vực y tế sức khoẻ, JICA đã hỗ trợ xây dựng nhà máy  
sản xuất vắc­xin sởi và lắp đặt phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp độ  3 cho  
Viện Vệ  sinh Dịch tễ  Trung  ương để  tiến hành xét nghiệm cần thiết nhằm tăng 
cường biện pháp phòng chống các bệnh truyền nhiễm như cúm gia cầm…JICA đã 
cung cấp các trang thiết bị  như  máy soi X­quang cỡ  lớn nhằm nâng cao năng lực 
hải quan. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế  của Việt Nam, kinh phí 
cho viện trợ  không hoàn lại hàng năm đang có khuynh hướng giảm dần. Những  
năm gần đây tổng kinh phí cho viện trợ không hoàn lại còn khoảng 3 tỉ Yên/năm.
2.2.2 Hợp tác kỹ thuật
Năm   tài 
khóa
Tổng   kinh 
phí   (   trăm 
triệu yên )
Số   học 
viên mới 
Số   chuyên 
gia   mới 
( dài hạn)
Số   tình 
nguyện 
viên mới 


2006

2007

2008

2009

2010

2011

52.75

51.98

59.65

61.42

71.52

104.86

1.410

1.221

1.597


983

1.176

1.195

448

443

423

556

793

967

22

49

53

69

39

32


­Hỗ trợ xây dựng quy hoạch phát triển


Hợp tác kỹ  thuật cho Việt Nam được bắt đầu từ  năm 1993. Thông qua 
các nghiên cứu phát triển như  Quy hoạch phát triển giao thông khu vực phía Bắc,  
Nghiên cứu cải thiện môi trường nước ở Hà Nội…, JICA đã hỗ trợ phát triển kinh  
tế xã hội cho Việt Nam một cách tổng thể. Những nghiên cứu phát triển sau đó về 
chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc gia ở Việt Nam, quy hoạch tổng thể 
phát triển năng lượng điện, quy hoạch giao thông cho Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh,  
khu vực Tây Bắc, phát triển liên kết TP Đà Nẵng và vùng phụ cận
­Dự án hợp tác kỹ thuật
JICA tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam và chuyển giao các  
kỹ thuật, kinh nghiệm của Nhật Bản thông qua việc cử các chuyên gia dài hạn (2­5 
năm) và cử cán bộ đối tác đi đào tạo ở Nhật Bản trong các dự án hợp tác kỹ thuật  
trong các lĩnh vực  ưu tiên như: y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn và cải  
thiện môi trường.
Trong lĩnh vực y tế, JICA đã liên tục cử  chuyên gia Nhật Bản đến 3 
bệnh viện trọng điểm ở miền Bắc (bệnh viện Bạch Mai), miền Trung (Bệnh viện  
Trung  ương Huế) và miền Nam (bệnh viện Chợ Rẫy) hỗ trợ đào tạo nguồn nhân  
lực ngành y tế. JICA cũng đã thực hiện hợp tác kỹ  thuật đối với bệnh viện tỉnh  
Hoà Bình nhằm xây dựng và tăng cường cơ  chế liên kết với các bệnh viện tuyến  
huyện, qua đó góp phần cải thiện dịch vụ y tế tại địa phương.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, hỗ  trợ  cho trường 
Đại học Nông nghiệp và các viện nghiên cứu để nâng cao năng suất, JICA đã thực 
hiện các dự  án hợp tác kỹ  thuật với đối tượng là khu vực nông thôn điển hình tại  
miền Bắc nhằm tăng cường quản lí hệ  thống tưới tiêu với sự  tham gia của nông 
dân và nâng cao chức năng của các hợp tác xã, qua đó góp phần nâng cao mức sống  
cho nông dân
Trong lĩnh vực môi trường, ngoài việc tiến hành hợp tác kỹ thuật để cải 
thiện môi trường nước của đô thị và tăng cường quản lí rừng, lấy Hà Nội làm mẫu,  

JICA hợp tác với các tổ chức đoàn thể nhân dân và các tổ chức phi chính phủ  thực 
hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến sáng kiến 3R hướng đến xây dựng một  
xã hội bền vững
­Cải thiện chế độ chính sách
JICA đã cử  chuyên gia với tư  cách cố  vấn chính sách đến làm việc tại  
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế…
Trong lĩnh vực tài chính, thông qua việc cử  chuyên gia đến Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam, JICA thực hiện hợp tác kỹ thuật hỗ trợ các nghiệp vụ như chính sách tài 
chính, phát hành trái phiếu, giám sát ngân hàng… nhằm nâng cao năng lực cho Ngân  
hàng Nhà nước Việt Nam.


Tại Việt Nam, được hỗ  trợ  của Đại sứ  quán Nhật Bản và Hiệp hội  
Doanh nghiệp Nhật Bản, chương trình hợp tác nhà nước và tư  nhân Việt – Nhật  
với tên gọi “Sáng kiến chung Việt – Nhật” nhằm cải thiện môi trường kinh doanh 
đã được hình thành vào năm 2003. Chương trình này đã được đưa ra những khuyến  
nghị cụ thể đối với Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư với sự 
hợp tác của Bộ  Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam…và 
chủ yếu với Bộ Kế hoạch đầu tư
Từ nửa sau thập kỉ 90 cho đến nay, JICA liên tục cử các nhóm chuyên gia 
gồm thẩm phán, luật sư và kiểm sát viên sang Việt Nam hỗ trợ xây dựng dự  thảo  
Luật dân sự và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực luật pháp.
­Chương trình tình nguyện viên và Chương trình đối tác phát triển
Từ năm 1995, JICA đã bắt đầu cử các tình nguyện viên hợp tác hải ngoại 
Nhật Bản đến Việt Nam trong các lĩnh vực y tế  sức khoẻ, phát triển nông thôn, 
dạy tiếng Nhật, hỗ trợ trẻ khuyết tật…Cho đến cuối tháng 12 năm 2011 đã có tổng 
cộng 320 tình nguyện viên sang làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, từ năm 2001, 
JICA đã bắt đầu cử tình nguyện viên cao cấp hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp  
vừa và nhỏ  và ngành công nghiệp phụ  trợ. Vào thời điểm cuối tháng 1/2012, hiện 
đang có 45 tình nguyện viên và 23 tình nguyện viên cao cấp làm việc tại các tỉnh 

thành trên toàn quốc, từ tỉnh Quảng Ninh đến tận tỉnh Cà Mau.
JICA đã và đang triển khai các hoạt động trong những lĩnh vực sau: cải 
thiện dinh dưỡng cho mẹ và bé, cung cấp nước sạch, hỗ trợ giáo dục cho khu vực  
nghèo, tăng cường khả năng ứng phó với thiên tai của cộng đồng, tăng cường giáo 
dục cho trẻ khuyết tật…
Một số lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ ODA của JICA cho Việt Nam
Các lĩnh vực ưu tiên hợp tác của ODA Nhật Bản cho Việt Nam được xác 
định như  dưới đây nhằm mục đích thúc đẩy sự  tăng trưởng bền vững của Việt  
Nam:
­Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc  
tế  (kiểm soát lạm phát, tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước, tăng cường năng lực 
cạnh tranh ngành công nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cấp cơ sở hạ tầng 
v.v)
­Tăng cường Quản trị Nhà nước (cải cách pháp luật và hệ thống tư pháp,  
tăng cường chức năng và năng lực hành chính, thúc đẩy sự tham gia của người dân  
v.v)
­Hỗ  trợ  các đối tượng dễ  bị  tổn thương (giảm nghèo, thu hẹp khoảng 
cách phát triển, cải thiện các dịch vụ  xã hội cơ  bản; các đối sách với vấn đề  môi 
trường và biến đổi khí hậu v.v)


2.3 Ý thức trách nhiệm của việt nam trong quản lý sử dụng và hoàn trả vốn hay  
ODA
* Nhận thức rằng ODA là một nguồn lực ý nghĩa quan trọng từ  bên ngoài, Chính  
phủ  Việt Nam đã tuyên bố  quan điểm của mình về  việc quản lý, sử  dụng vốn 
ODA, điều quan trọng là phải có trách nhiệm về điều phối và sử dụng nguồn vốn  
vay. 
* Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý năm 1997 – 1999, Chính 
phủ ban hành Nghị định 87/1997/NĐ­CP ngày 05­08­1997 và Nghị định 90/1998/NĐ­
CP ngày 07­11­1998 về  quy chế  vay và trả  nợ  nước ngoài thay thế  cho hai Nghị 

định trên, đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, phân công rõ trách 
nhiệm của các cơ quan tổng hợp của Chính phủ, các bộ, các ngành, địa phương và 
các   tổ   chức   kinh   tế   trong   việc   quản   lý,   sử   dụng   vốn   vay   nước   ngoài.
*Bên cạnh đó chúng ta cần phải khắc phục những quan điểm cho là vốn vay ODA  
như  là một món quà tặng, cho không mà không có ý thức trách nhiệm trong việc 
hoàn trả sau này, phải xác định rõ có vay thì phải có trả. Trên quan điểm đó sẽ tạo  
được uy tín và thu hút ODA vào Việt Nam, không chỉ JICA mà từ các quốc gia khác,  
ngày càng nhiều hơn.
III. Thực trạng huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam 
3.1 Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ODA
-

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình hình thực hiện và giải ngân các chương  
trình, dự án ODA và vốn vay ưu đãi tuy có những chuyển biến tích cực song  
vẫn còn chậm hơn so với tiến độ  đã cam kết. Bên cạnh đó, mức giải ngân 
giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương còn chưa đồng đều. Xét 
theo địa phương, giải ngân của các thành phố  lớn như  Hà Nội, TP. Hồ  Chí  
Minh cao hơn nhiều so với các địa phương khác.

-

Công tác quản lý, sử dụng vốn ODA cũng còn một số hạn chế. Hạn chế và  
yếu kém mang tính tổng hợp nhất có thể  kể  tới, đó là năng lực hấp thụ 
nguồn vốn ODA quốc gia cũng như   ở  cấp ngành và địa phương chưa đáp  
ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, thời gian xem xét và phê duyệt danh mục tài 
trợ của các cơ quan trước khi trình Thủ tướng Chính phủ còn kéo dài; 


Vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến quy định quản lý rút vốn hay liên 
quan đến việc sử  dụng vốn ODA và vốn vay  ưu đãi đối với các hạng mục 

chi tiêu thường xuyên vì sự nghiệp phát triển; liên quan đến cơ chế tài chính 
trong nước đối với các khoản vay ODA và vốn vay ưu đãi; khác biệt về quy 
trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ… 
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới, 
Việt Nam cần chứng tỏ được thế  mạnh và tiềm năng phát triển của mình, khi đó  
mới có thể  thu hút tốt hơn nữa nguồn vốn đầu tư  từ  nước ngoài. Do đó, để  nâng  
cao hiệu quả  tiến độ  giải ngân và sử  dụng hiệu quả  nguồn vốn ODA, các bộ, 
ngành, địa phương cần tích cực hơn nữa trong việc tháo gỡ  khó khăn, vướng mắc  
trong việc giải phóng mặt bằng, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị dự án, vốn  
đối ứng. 
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước nguồn vốn ODA, cơ quan chủ quản, chủ 
dự  án và các nhà tài trợ  cần tổ  chức thường xuyên các cuộc họp kiểm điểm tình 
hình thực hiện, xác định và kịp thời xử  lý các vướng mắc nảy sinh; thúc đẩy tiến 
độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân các chương trình, dự án ODA. 
3.2. Những thành tựu đạt được
-

      Hoạt động thu hút và sử dụng ODA Nhật Bản đã góp phần tích cực vào thực  
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước, hình thành động lực và  
phương hướng cho điều chỉnh chính sách theo hướng CNH­HĐH, thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghòe, nâng cao chất lượng cuộc sống và giải quyết  
các vấn đề xã hội
       ­ Nguồn vốn ODA Nhật Bản là nguồn lực bên ngoài quan trọng bổ  sung cho  
nguồn vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của quá trình cải cách trong điều 
kiện cơ  sở  hạ  tầng còn yếu, đòi hỏi cần có nguồn vốn lớn trong khi vốn trong  
nước không thể đáp ứng 
      ­ Nguồn vốn ODA Nhật Bản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng  
CNH­HĐH. ODA Nhật Bản được tập trung nhiều cho việc nâng cấp và xây dựng  
các công trình quy mô quốc gia trong các lĩnh vực quan trọng  ảnh hưởng trực tiếp  
tới sự  phát triển kinh tế  như  giao thông, thủy điện, cấp thoát nước, y tế, giáo  

dục…
      ­ Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam là lĩnh vực rất được quan tâm và tài 
trợ chủ yếu bằng nguồn viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật của Nhật Bản.  
Nhiều các chương trình dự án như xây dựng, nâng cấp các trường tiểu học, trường  
dạy nghề  và tăng cường năng lực các trường đại học…. giúp Việt Nam thu được 


các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, kỹ  năng quản lý hiện đại, năng lực thể 
chế và phát triển thể chế pháp lý cho các cán bộ và cơ quan Việt Nam
      ­ Cùng với những nỗ lực của phía Việt Nam, việc nâng cấp, phát triển cơ sở hạ 
tầng phục vụ phát triển kinh tế­ xã hội góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong  
nước, ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế, theo sau ODA Nhật  
Bản, dòng FDI của nước này vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên (năm 2003 
là 1,2 tỷ USD, năm 2004 là 2,2 tỷ USD, năm 2005 là 4,4 tỷ USD, năm 2006 là 9,4 tỷ 
USD). Môi trường đầu tư của Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư  Nhật Bản không 
chỉ  bởi Việt Nam là một thị  trường tiềm năng mà còn vì sự  hỗ  trợ  phát triển của  
Chính phủ Nhật Bản tạo sự tin cậy cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào Việt Nam. Như 
vậy, ODA và FDI có mối tương tác tích cực cho nền kinh tế Việt Nam
3.3. Những tồn tại trong tiếp nhận và sử dụng ODA Nhật Bản tại Việt Nam
Bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình hợp tác phát triển giữa  
Nhật Bản và Việt Nam, thúc đẩy quan hệ  hai nước, việc thu hút và sử  dụng  
nguồn vốn ODA Nhật Bản ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại cần nhanh chóng  
giải quyết nhằm phát huy hiệu quả  từ  nguồn lực này cho phát triển kinh tế  đất 
nước. 
­ Thứ nhất, các chương trình và dự án ODA Nhật Bản chủ yếu được thực  
hiện theo định hướng ngành, lĩnh vực mà ít định hướng theo vùng, lãnh thổ. Các 
khu vực được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhiều chủ yếu là vùng đồng bằng, 
duyên hải, các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa ít được quan tâm hơn tạo sự 
cách biệt về vùng, miền.
 

­ Thứ hai, nhiều dự án có tiến độ thi công diễn ra chậm chạp ngay từ khâu  
thẩm định, phê duyệt, lựa chọn và tư vấn.
 
­ Thứ ba, tuy tỷ lệ giải ngân các dự án đã có nhiều biểu hiện tích cực, song 
nói chung tỷ  lệ  vốn giải ngân  ở  nước ta còn  ở  mức thấp. Hiệu quả  đầu tư  và  
chất lượng công trình trong nhiều dự  án chưa cao.   Về  vấn đề  giải ngân, năm 
2000 có 5 dự án ODA cơ sở hạ tầng được giải ngân 5,68 tỉ Yên. Năm 2008, có 6 
dự  án giải ngân đạt 9,13 tỉ  Yên, tăng 25,52 % so với năm 1999. Năm 2010, có 8 
dự án giải ngân thuộc lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật với tổng giá trị  9,92 tỉ Yên tăng  
36,32% so với mức giải ngân năm 2008. 
   ­Thứ  tư, xuất hiện tình trạng lợi dụng nguồn vốn vào những mục đích  
riêng. Theo đó làm nảy sinh tham nhũng, hối lộ…(Ví dụ gần đây là vụ nghi nhận  
hối lộ  ODA 80 triệu Yên xảy ra tại dự  án xây dựng đường sắt đô thị  số  1 Hà  
Nội)
    3.4. Nguyên nhân chủ quan 


Thứ  nhất, Việt Nam chưa tạo được môi trường pháp lý hữu hiệu và hệ 
thống các quy chế  nhằm phù hợp với sự  vận động của nguồn vốn ODA nói 
chung và ODA Nhật Bản nói riêng. Cơ  chế  chính sách để  quản lý và sử  dụng  
còn nhiều bất cập, tạo kẽ hở trong quản lý nhà nước về ODA, gây cản trợ trong 
quá trình thực hiện dự án. 
Sự tạo lập được môi trường chính trị, kinh tế  vĩ mô ổn định, môi trường  
luật pháp thông thoáng đã tạo ra sức hấp dẫn thu hút đầu tư bên ngoài cũng như 
nâng cao khả năng hấp thụ  ODA. Mặc dù vậy, một cách khách quan thì cơ  cấu  
pháp luật vẫn chưa thực sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ các nhà tài trợ. Cụ thể: 
­ Hệ  thống chính sách có tính  ổn định chưa cao, nhiều quy định chồng  
chéo, thiếu đồng bộ, tạo kẽ  hở. Thêm vào đó, thời gian ban hành văn bản kéo 
dài, có độ trễ cao.
 ­ Khâu đánh giá sau dự án để xác định tính hiệu quả và lợi ích kinh tế do 

dự án ODA mang lại còn nhiều hạn chế, chưa có sự quan tâm đúng mức. 
­ Cơ  chế  tài chính chưa đáp  ứng được yêu cầu ngày càng cao. Thủ  tục 
rườm rà, đặc biệt là trong chính sách về  chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, 
chính sách cho vay lại hay chi phí cho chuyên gia và ban quản lý dự án.
  ­ Năng lực của Chính phủ  trong việc điều phối và sử  dụng nguồn vốn  
ODA còn hạn chế  bởi cơ  chế  và bộ  máy hành chính phức tạp của Việt Nam,  
những mặt yếu kém trong hoạt động đầu tư  nước ngoài như  hệ  thống pháp lý  
còn nhiều bất cập, văn bản dưới luật chưa  ổn định và không đồng bộ, công tác  
quản lý còn non yếu, thủ tục hành chính còn rườm rà, cải tiến chậm, việc thực 
thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm túc. Chính phủ đã cố gắng xây dựng khuôn 
khổ pháp lý, nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến các dự án đầu tư, như quản 
lý tài chính, thủ tục đấu thầu, mua sắm thiết bị, giải phóng mặt bằng và tái định  
cư. Mặc dù nhằm đơn giản hoá và cải thiện quá trình thực hiện ODA, song 
những nỗ lực đó cũng phần nào làm chậm lại nhất thời việc triển khai dự án vì 
cả các nhà tài trợ cũng như các cơ quan chủ dự án đều cần phải có thời gian để 
làm quen với các quy định mới. Sự chậm trễ này trong một số trường hợp có thể 
trở  nên trầm trọng hơn do việc giải thích các hướng dẫn thực hiện được triển 
khai chậm hơn rất nhiều so với việc ban hành các quy định mới. Tình trạng này 
có thể đã làm chậm trễ nhiều dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án mới được triển  
khai. 
     Thứ hai, việc tổ  chức quản lý và điều hành quá trình huy động và sử 
dụng ODA chưa hợp lý, kéo dài thời gian thực hiện, khiến tốc độ  giải ngân  
chậm, giảm thời gian ân hạn và hiệu quả đầu tư.


  ­ Công tác chuẩn bị  dự  án thiếu kỹ  lưỡng về  quy mô, công suất thiết 
kế… dẫn tới phải điều chỉnh nhiều lần. Ví dụ  như  dự  án lưới điện Hà Nội –  
Hải Phòng – Nam Định giải ngân với tốc độ quá chậm là do khâu duyệt thiết kế 
kỹ thuật quá lâu và tổ chức đấu thầu triển khai chậm. Thực tế, quá trình chuẩn 
bị lập duyệt dự án thường kéo dài 1­3 năm, có dự  án lâu hơn do sau khi ký hiệp 

định lại thay đổi quy trình công nghệ  như  dự  án Phú Mỹ, thay đổi cả  mục tiêu  
dự án như dự án cầu Bính Lợi…
  ­ Thời gian thẩm định, phê duyệt dự  án kéo dài, chất lượng thẩm định  
chưa cao, có khi độ trễ quá lớn, dự án thẩm định phê duyệt xong đã lạc hậu với  
tình hình mới như  dự án thoát nước Hà Nội; dự  án thuỷ lợi kế hoạch giải ngân 
năm 1999 là 35 triệu USD song chỉ giải ngân được 17 triệu USD do công tác giải  
phóng mặt bằng mất quá nhiều thời gian. Nguyên nhân chủ  yếu do trình độ 
chuyên môn của cơ  quan thẩm định còn hạn chế, chưa có sự  phối hợp tốt giữa 
các cơ quan thẩm định. 
­ Công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư  được coi là vấn đề  nổi cộm  
với phần lớn các chương trình dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Do có sự khác biệt  
giữa chính sách đền bù giải phóng mặt bằng đối với các công trình giao thông 
của phía Việt Nam và phía nhà tài trợ  dẫn tới kéo dài thời gian đàm phán điều  
chỉnh để  đi tới thống nhất hoặc do việc triển khai kế hoạch đền bù tiến hành  
chậm. Ví dụ như dự án cải tạo quốc lộ 5, dự án cải tạo quốc lô 18 phải xử lý 15 
điểm  ở  Quảng Ninh, dự  án nhà máy nhiệt điện Phả  Lại có 100 hộ  dân không  
chịu di dời… 
­ Vấn đề vốn đối ứng thiếu và không kịp thời (các dự án ODA đã và đang  
thực hiện  ở  Việt Nam, thông thường Nhật Bản góp 85%, Việt Nam góp 15% 
tổng giá trị dự án). Vốn mà Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thực tế không phụ 
thuộc vào vốn cam kết mà hoàn toàn phụ thuộc vào việc triển khai các dự án vay 
vốn phía Việt Nam. Theo phân tích, phía Việt Nam còn thiếu quy hoạch, yếu về 
năng lực điều phối và quản lý các nguồn vốn ODA. Tình trạng thiếu vốn đối 
ứng cho từng dự án là cản trở cơ bản trong việc triển khai các dự án. 
Thứ ba, trình độ và năng lực chuyên môn của các cán bộ tham gia quản lý,  
điều hành và thực hiện dự án còn hạn chế.
 ­ Hạn chế  về  chuyên môn – kỹ  thuật được thể  hiện rõ nhất trong khâu  
thẩm định. Thực tế  một số  dự  án tín dụng  ưu đãi Nhật Bản sau hai bước tiền  
thẩm định đến thẩm định phải thay đổi thiết kế. Sự  thiếu chuyên môn dẫn tới 
các quyết định đầu tư trùng lặp, thiếu đồng bộ. 

­ Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm chính trong quản lý nguồn vốn phân 
bổ, lựa chọn nhà thầu, thực hiện mua sắm, nghiệm thu công việc hoàn thành và  


quyết định thanh toán cho nhà thầu. Do vậy, đòi hỏi cán bộ quản lý dự  án phải 
có chuyên môn tốt, ngoại ngữ tốt,…
 Thứ  tư, đối với các dự  án chỉ  sử  dụng vốn vay ODA song phương, khó  
khăn chủ  yếu lại do khâu đàm phán hợp đồng tư  vấn, thiết kế  và thương mại. 
Một số dự  án quy mô lớn nhưng triển khai chậm làm ảnh hưởng đến tình hình  
giải ngân chung. 
Ví dụ : dự án cảng Hải Phòng, do nhà thầu cung cấp thiết bị là một công 
ty Thái Lan đang gặp khó khăn về tài chính nên giao hàng chậm. Dự án nhà máy  
nhiệt điện Phú Mỹ, dự án nhà máy thủy điện Hàm Thuận ­ Đa Mi do đàm phán  
thực hiện các hợp đồng thi công kéo dài và thay đổi nhà thầu cung cấp thiêt bị. 
Dự  án cảng Cái Lân (Quảng Ninh) thì chưa tổ  chức đấu thầu do điều chỉnh kế 
hoạch. Dự án đường hầm qua đèo Hải Vân lại không thống nhất được phương 
án thiết kế. Ngoài ra, một số dự án khác như dự án hạ tầng cơ sở nội thành Hà 
Nội giai đoạn I, dự án hệ thống viễn thông dọc bờ biển (miền Trung), dự án cấp 
nước cho các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa­Vũng Tàu... đàm phán hợp đồng tư  vấn  
chậm.
   4.5 Nguyên nhân khách quan 
Thứ nhất, việc các nhà tài trợ đưa ra các quy định tài trợ phức tạp, nhiều  
khoản vay bị  ràng buộc về  phương thức mua sắm, đấu thầu. Các nhà tài trợ 
Nhật Bản khi cung cấp ODA đều kèm them điều kiện phải sử  dụng nhà thầu, 
thiết bị và tư vấn của phía Nhật Bản theo phương thức chỉ định thầu hoặc đấu  
thậu hạn chế làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ODA. 
Thứ hai, sự biến động của nền kinh tế Nhật Bản và nền kinh tế thế giới,  
sự thay đổi tỷ  giá đồng đô la so với đồng Yên, khủng  ảnh hưởng của các cuộc  
khủng hoảng… gây  ảnh hưởng tới nguồn vốn ODA trên thế  giới nói chung và  
của Nhật Bản nói riêng, giảm nguồn cung ODA cho các nước và cho Việt Nam.

 Tóm lại, những trở  ngại mang tính chất căn bản đối với quá trình thực 
hiện các dự  án đầu tư, ví dụ  như  các vấn đề  về  giải phóng mặt bằng, tái định 
cư, đấu thầu và mua sắm thiết bị, có lẽ sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ thực  
hiện. Trong khi có thể còn có những điểm khác biệt trong việc nhìn nhận những  
nguyên nhân gây ra các khó khăn trên, cả Chính phủ Việt Nam và phía Nhật Bản  
đã đẩy mạnh những nỗ  lực tìm kiếm giải pháp cho vấn đề  này và đã bắt đầu  
quá trình xem xét, kiểm điểm các vấn đề thực hiện chung, xác định những khâu 
ách tắc và các biện pháp tháo gỡ. Có thể nói, tương lai ODA của Nhật Bản cho  
Việt Nam ra sao phụ thuộc rất lớn vào việc giải quyết những tồn tại nói trên.  
Nếu không khắc phục được những yếu kém đó, việc thu hút và sử  dụng ODA 
không những không có hiệu quả mà còn trở thành gánh nặng cho thế hệ mai sau. 


IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA
4.1 Cần năng động trong nhận thức về ODA.
­Nắm  được các điều ước quốc tế mới ký kết và các thông lệ quốc tế trong hợp tác  
phát triển và tăng cường khả năng vận dụng nhuần nhuyễn các hiểu biết này để ký 
kết các hiệp định vay vốn.
 ­Tạo điều kiện cho VN có quyền làm chủ  và để  được chủ  động  đề  xuất và sử 
dụng vốn ODA. 
4.2 Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chiến lược thu hút vốn và quản lý sử
dụng ODA.
­Chọn hướng "tham gia của cộng đồng " cho các dự án ODA (ở dạng như dự án cơ 
sở  hạ  tầng nông thôn dựa vào cộng đồng mà chúng ta vừa ký kết mới WB vào  
tháng 6 năm 2001 vừa qua).
­Các qui định của chính phủ  nên được xem xét, điều chỉnh lại cho phù hợp trong 
việc triển khai các dự án ODA, bởi vì chúng có tác động hạn chế đến những tiềm 
năng nội lực của từng vùng và từng lĩnh vực.
4.3 Ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ cho các khu vực nghèo đói .

­Trong quan hệ  với các tổ  chức phi chính phủ  quôc tế, cần phải có sự  phối hợp 
chặt chẽ giữa chính phủ VN với các tổ chức phi chính phủ, hướng các nguồn viện 
trợ của họ tới các vùng nghèo nhất của VN như vùng Tây nguyên, vùng đồng bằng 
sông Cửu Long và các vùng nùi phìa Bắc.  
­Chính phủ  cần đưa ra các qui định đối với các hoạt động của nhà tài trợ  theo khu 
vực địa lý, đưa ra các danh mục cho các chương trình, quốc gia về lĩnh vực xã hội  
như  chương trình quốc gia về  việc làm , về  dân số  và KHHGĐ, danh mục các xã 
vùng nghèo đói của VN để kêu gọi sự chú ý của các nhà tài trợ .
4.4 Hoàn thiện môi trường pháp lý đối với quản lý ODA và quá trình phân công,  
phân cấp ra quyết định trong qui trình dự án.
­Nên thiết lập một cơ chế nhằm đảm bảo sự  phối hợp nhịp nhàng thông suốt của 
cả hệ thống tổ chức liên quan đến viện trợ.
­Về  công tác quản lý , đầu tư  xây dựng : Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn 
thiện nghị   định 42/CP, 92/CP về  qui chế   đấu thầu . Nhưng cần qui  định trách  
nhiệm rõ ràng hơn của từng cơ quan và các đon vị trong quá trình thẩm định và phê 
duyệt dự  án , tăng cường trách nhiệm của từng cơ quan theo hướng giảm các thủ 
tục trình duyệt qua nhiều cấp . Tiếp tục hoàn thiện các nghị  định trên tiến tới hài 
hòa độ "vênh" giữa các thủ tục về phía nhà tài trợ và phía VN , tránh làm phức tạp 
hoá chu trình thực hiện dự án ở VN. 
­Về  cơ chế tài chính trong nước : Cơ chế tài chính đã dần dần được cải thiện , đã  
ban hành qui chế vốn đối ứng và qui trình thủ tục vốn đối với các dự án ODA .Tuy  
nhiên vẫn cần phải theo dõi chặt chẽ đảm bảo tín hiệu theo đúng qui trình , đồng  
thời tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh những bất cập mới nảy sinh .Vốn đối ứng cho  
các dự án ODA đều được bố trí từ  ngân sách . Vấn đề là các cơ quan TW cũng như 
địa phương phải giải quyết như thế nào cho đủ  vốn khi mà ngân sách NN còn hạn 
hẹp . Muốn giải quyết vấn đề này trước hết phải kiểm soát chặt chẽ việc lập kế 


hoạch  cân đối  nguồn vốn  đối  ứng để  kịp thời  đảm  bảo  vốn  đối  ứng cho các 
chương trình, dự  án ODA .Thứ  hai vốn đối  ứng cần được giao theo đúng địa chỉ 

của từng chương trình dự  án cụ  thể  , không được tuỳ  tiện giao cho các mục tiêu  
khác . Chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ các cam kết của chính phủ trong các điều 
ước Quốc tế về ODA. Các cơ quan chủ quản và cơ quan thực hiện dự án đều phải 
cân đối với vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm của mình .
4.5 Hoàn thiện hơn nữa công tác kế hoạch hoá.
­Cần phải có một qui hoạch tổng thể ODA nhằm tăng cường chất lượng đầu vào  
của công tác kế hoạch hoá đầu tư bằng vốn ODA. Qui hoạch nếu được Chính phủ 
thông qua sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để cơ quan điều phối viện trợ, hình  
thành kế hoạch viện trợ.
­Tinh giảm bộ máy cồng kềnh trong quản lý để  giải ngân đỡ  phức tạp, có những 
chính sách ưu đãi thiết thực cho cơ sở.
4.6 Nâng cao công tác thông tin và theo dõi dự án ODA.
­Cần khẩn trương thiét lập một hệ thống thông tin hữu hiệu về ODA, những thông 
tin đó phải thể hiện rõ vấn đề sau:
+ Chiến lược hành động, cơ sở hợp tác, quy trình thủ tục ODA của từng nhà tài trợ.  
Nêu những đặc điểm , nguyên tắc luật lệ của từng nhà đối tác viện trợ.
+ Các điều  ước quốc tế về  hợp tác phát triển , qui chế  mà chính phủ  ta đã kí kết  
với các nhà tài trợ để đảm bảo thi hành nhất quán các văn bản này.
+ Thông tin về cam kết ODA của các nhà tài trợ , định hướng ưu tiên chiến lược sử 
dụng ODA của chính phủ , tình hình giải ngân ODA theo nghành , vùng, lĩnh vực cụ 
thể.
+ Thông tin về hệ thống văn bản luật , các qui định , qui chế trong quản lý sử dụng 
ODA, các hướng dẫn về qui trình thủ tục đối với một dự án ODA cụ thể.
4.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các dự án ODA.
­Trong thời gian tới, chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến kiểm tra ,giám sát dự án 
ở giai đoạn sau dự án. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đầy đủ  góp phần làm  
tăng tính bền vữngcủa dự  án, tạo khả  năng giải ngân nhanh và củng cố  niềm tin  
của các nhà tài trợ đốivới Việt Nam.
­Các đơn vị thực hiện vốn ODA cần phải thực hiện nghiêm chỉnh và thường xuyên  
báo cáo vốn đầu tư thực hiện và quyết toán vốn đầu tư  khi dự án hoàn thành .Báo 

cáo quyết toán cần phải được kiểm toán để  đảm bảo tính chính xác trước khi gửi  
đến các cơ quan chức năng thẩm tra phê duyệt quyết toán.
4.8 Tăng cường công tác đào tạo và điều phối bố trí cán bộ trong quản lý và sử  
dụng ODA.
­Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng rãi để  tạo ra những thay đổi về 
nhận thức, thái độ  và kỹ  năng  ở  tất cả  các cấp, tăng cườngcông tác quản lý nhà  
nước về ODA. Các cán bộ quản lý ODA phải có kiến thức đầy đủ về các mặt:
+ Các loại hình viện trợ  có thể  vận động và các chi phí có liên quan để  hấp thụ 
viện trợ
+ Chính sách và lợi ích của các nhà tài trợ.


+ Chu kỳ  dự  án, sự  phối hợp giữa các cơ  quan cũng như  trách nhiệm, quyền hạn 
của mỗi cơ quan ở từng giai đoạn của chu kỳ dự án.
+ Các kiến thức về  kinh tế  thị  trường, phương pháp phân tích chính sách kinh tế 
phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
+ Những kiến thức cơ bản về ngoại giao, luật pháp quốc tế, trình độ ngoại ngữ...
­Công tác điều phối bố trí cán bộ tham gia quản lý dự  án ODA cũng cần phải xem  
xét lại.Trong quá trình thực hiện dự án, không nên thay thế nửa chừng các cán bộ 
chủ  chốt của dự  án, nhất là người quản lý điều hành vì làm như  vậy sẽ  dẫn đến 
tình trạng mất tính liên tục của dự  án, đứt đoạn cho công tác thực thi dự  án đúng  
tiến độ.
KẾT LUẬN
Trong quá trình quản lý và sử dụng ODA, Chính phủ cần luôn luôn phát huy vai trò 
làm chủ của mình, các nhà tài trợ chỉ đóng vai trò hỗ trợ.Tăng cường thu hút và sử 
dụng có hiệu quả  nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là một phương hướng chiến  
lược trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện 
đại hóa đất nước ta. Phát huy những yếu tố  tích cực và hạn chế  những tác động  
tiêu cực trong sử dụng nguồn vốn này là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn mới.




×