Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
NGHIÊN CỨU NHỮNG BẤT THƯỜNG NÃO
Ở TRẺ EM ĐỘNG KINH BẰNG HÌNH ẢNH HỌC
Lê Văn Tuấn*, Lê Thụy Minh An*
TÓM TẮT
Mục tiêu: mô tả đặc điểm hình ảnh học sọ não trong bệnh động kinh ở trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: 96 trẻ em bị bệnh động kinh nhập khoa nội thần kinh và phòng khám bệnh viện
Nhi đồng 2 từ 10/2012 – 03/2013 được đánh giá về lâm sàng, hình ảnh MRI và CT‐Scan sọ não, mối liên quan
giữa hình ảnh học và đặc điểm lâm sàng.
Kết quả: Tuổi trung bình: 4,6. Cơn động kinh toàn thể chiếm 53,1%, cục bộ: 31,3%, cơn không phân loại
được 15,6%. Cơn co cứng‐co giật chiếm 41,7% các cơn động kinh toàn thể nguyên phát. Có 72/96 trẻ được chụp
MRI não, trong đó bất thường MRI chiếm 43,1% (31/72). Tổn thương chất trắng chiếm tỷ lệ cao nhất: 35,48%.
Có 32/96 trẻ được chụp CT‐Scan não, trong đó bất thường CT‐Scan chiếm 46,9% (15/32). Bất thường trên CT‐
Scan thường gặp nhất là mất thể tích: 46%. Bất thường hình ảnh thường gặp hơn ở trẻ có cơn co giật cục bộ/
sóng động kinh cục bộ trên EEG(p=0,01), trẻ chậm phát triển tâm thần vận động (p=0,043) hay trẻ có bất
thường khi thăm khám thần kinh (p=0,045).Không có mối liên quan giữa bất thường hình ảnh và giới tính
(p=0,931) hay có sóng động kinh trên EEG (p=0,649).
Kết luận: Hình ảnh học sọ não cần được khảo sát ở những trẻ động kinh có cơn co giật cục bộ, sóng dạng
động kinh cục bộ, khám thần kinh bất thường hay chậm phát triển tâm thần vận động.
Từ khóa: động kinh, trẻ em, hình ảnh học, MRI, CT‐Scan, EEG.
ABSTRACT
NEUROIMAGING ABNORMALITIES IN EPILEPTIC CHILDREN
Le Van Tuan, Le Thuy Minh An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 532 ‐ 538
Objective: To describe neuroimaging characteristics in epileptic children.
Method: 96 epileptic children admitted to neurology department and clinic of Children hospital 2 – Ho Chi
Minh city from October 2012 to March 2013 surveyed about the characteristics of head magnetic resonance
imaging (MRI) and computed tomography (CT); the correlation between clinical feature and neuroimaging
abnormalities.
Results: Average age is 4.6. 53.1% children presented with focal, 31.3% with generalized and 15.6% with
undetermined seizures. In generalized group, tonic‐clonic epilepsy rate is 41.7%. 72 children had head MRI,
abnormal MRI is 43.1%. The highest abnormality rate in MRI is white matter lesion (35.48%). 32 children had
head CT, abnormal CT was seen in 46.9%. The highest abnormality rate on CT‐Scan is volume loss (46%).
Abnormal neuroimaging findings had significant relation with focal seizure or focal epileptic wave on EEG
(p=0.01), mental retardation (p=0.043), or abnormal neurological exam. There is not relation between abnormal
neuroimaging and sex (p=0.931), present of epileptic wave on EEG (p=0.649).
Conclusion: We recommend that neuroimaging should be done in epileptic children with focal seizure or
focal epileptic wave on EEG, mental retardation or abnormal neurological exam.
Keywords: epilepsy, children, neuroimaging, MRI, CT, EEG.
* Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Minh An
532
T: 0903754494
Email:
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là tình trạng bệnh lý ở não, đặc
trưng bởi sự phóng lực quá mức và đồng bộ của
một nhóm neuron trong não hay của toàn bộ
não, biểu hiện lâm sàng bởi những cơn đột ngột
và lặp lại. Đây là bệnh phổ biến trên thế giới và
đặc biệt ở những nước đang phát triển. Hàng
năm có khoảng 1,12 triệu trẻ em mới mắc động
kinh ở những nước đang phát triển (10). Tỷ lệ mới
mắc cộng dồn của bệnh trong cả cuộc đời là
3,6% và hơn một nửa khởi phát ở trẻ nhỏ (10).
Bệnh động kinh ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống của người bệnh. Ngoài ra, đối với trẻ em,
bệnh động kinh còn kết hợp với nhiều rối loạn
về học tập, hành vi và tình cảm cũng như ứng
xử xã hội.
Chụp cắt lớp điện toán (CT‐scan) trước đây
không phát hiện được hết những nguyên nhân
hay bệnh học tiềm ẩn của bệnh động kinh. Tuy
nhiên, CT‐scan sọ não vẫn có một vai trò quan
trọng trong việc đánh giá những bệnh nhân
động kinh mà có nguyên nhân cấp tính đe dọa
tính mạng.
Cộng hưởng từ (MRI) có độ nhạy cao hơn
CT‐Scan vì MRI có thể phát hiện những bất
thường và tổn thương loạn sản ở vùng hải mã,
là một vị trí khởi phát động kinh thường
gặp(2,7,11). Ngày nay, sự phát triển MRI độ phân
giải cao với phác đồ dành cho bệnh động kinh
có ảnh hưởng lâm sàng lớn trong việc chẩn đoán
và quản lý bệnh động kinh vì nó hỗ trợ trong
việc phân loại, phát hiện tổn thương cấu trúc,
tiên lượng tái phát, sự kháng trị lâu dài với
thuốc chống động kinh và xác định những bệnh
nhân thích hợp với phẫu thuật. Do đó, Liên Hội
Quốc Tế Chống Động Kinh (ILAE)(1997) đã
khuyến cáo dùng phác đồ MRI dành cho bệnh
động kinh cho tất cả những bệnh nhân với cơn
co giật mới lần đầu hay bệnh động kinh mới
chẩn đoán trong tình trạng không khẩn cấp(2).
Thêm vào đó, ILAE cũng khuyến cáo chụp MRI
cho những bệnh nhân động kinh kháng trị.
Có khoảng 16‐21% những bất thường trên
MRI sọ não được phát hiện ở trẻ bị bệnh động
Thần Kinh
Nghiên cứu Y học
kinh và hầu hết những tổn thương cấu trúc
này là những thiếu sót di truyền, hội chứng
thần kinh‐bì, bệnh ác tính và những bằng
chứng bệnh não do chấn thương, nhiễm trùng
hay ngạt(2,18). Nghiên cứu này được tiến hành
với mục đích khảo sát những bất thường trên
hình ảnh học sọ não ở trẻ em động kinh và mối
liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng và kết
quả hình ảnh học đó.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Trẻ em được chẩn đoán bệnh động kinh,
nhập khoa thần kinh và phòng khám bệnh viện
Nhi đồng 2 từ 10/2012 – 03/2013.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Trẻ không được khảo sát hình ảnh học hay bị
co giật do một nguyên nhân cấp tính đã xác định.
Thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi, thăm
khám và đọc EEG, MRI, CT‐Scan sọ não của
bệnh nhi.
Công cụ thu thập số liệu
Bảng thu thập số liệu.
Các biến số thu thập
Tuổi, giới, tiền căn gia đình bị động kinh,
tiền căn bệnh lý của bản thân, sự phát triển tâm
thần vận động, loại cơn động kinh, kết quả
khám thần kinh, đặc điểm EEG, đặc điểm MRI
và CT‐Scan não.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là: 4,6.
Cơn động kinh toàn thể chiếm 53,1%, cục bộ:
31,3%, cơn không phân loại được 15,6%. Cơn co
cứng‐co giật chiếm 41,7% các cơn động kinh
toàn thể nguyên phát.
Có 72/96 trẻ được chụp MRI não, trong đó
bất thường MRI chiếm 43,1% (31/72). Tỷ lệ các
loại bất thường bao gồm: bất thường vỏ não:
16,1%, nhuyễn não: 6,45%, tổn thương chất
trắng: 35,48%, mất thể tích: 16,1%, lớn não thất:
6,45%, nang: 16,1% (nang vách trong suốt: 2,
533
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
nang tuyến tùng: 1, nang màng nhện: 1), bất
thường mạch máu: 6,45% (u mạch não‐tam
thoa:1, dị dạnh tĩnh mạch:1), tổn thương khác:
9,67 % (lipoma bể củ não sinh tư: 1, tăng tín hiệu
trên xung khuếch tán: 2).
Có 32/96 trẻ được chụp CT‐Scan não, trong
đó bất thường CT‐Scan chiếm 46,9% (15/32). Tỷ
lệ các loạibất thường bao gồm: mất thể tích: 46%,
nhuyễn não: 13,3%, dị dạng mạch máu não:
13,3%, tổn thương khác.
: 26,7% (tật không hồi não: 1, vôi hóa :1, nang
vách trong suốt: 2).
Bất thường hình ảnh thường gặp hơn ở trẻ
có cơn co giật cục bộ/ sóng động kinh cục bộ
trên EEG (p=0,01), trẻ chậm phát triển tâm thần
vận động (p=0,043) hay trẻ có bất thường khi
thăm khám thần kinh (p=0,045).Không có mối
liên quan giữa bất thường hình ảnh và giới tính
(p=0,931) hay có sóng động kinh trên EEG
(p=0,649).
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Trong nghiên cứu của chúng tôi, động kinh
toàn thể chiếm tỷ lệ 53,1% nhiều hơn so với
động kinh cục bộ, cơn không phân loại được
cũng chiếm tỷ lệ cao 15,6%. Khi so sánh với
nghiên cứu ở Tây Âu(8), Colombia(19) và của tác
giả L.V.Tuấn (13) ở Việt Nam thì kết quả lại khác
khi động kinh cục bộ chiếm tỷ lệ cao hơn so với
đông kinh toàn thể. Điều này có thể giải thích
dựa vào đối tượng nghiên cứu khác nhau giữa
các tác giả, ở Tây Âu là người trưởng thành, ở
Colombia là dân số chung và ở cả trẻ em và
người lớn như trong nghiên cứu của tác giả
L.V.Tuấn. Theo một số tác giả, động kinh cục bộ
ưu thế ở người lớn còn động kinh toàn thể thì
ưu thế ở trẻ em hơn. Nhưng với cùng đối tượng
là trẻ em như trong nghiên cứu của tác giả
L.T.K.Vân (14), kết quả lại khác với chúng tôi. Có
thể do độ tuổi trung bình của các nghiên cứu
khác nhau mà các tác giả trên không thống kê
tuổi trung bình nên chúng tôi không so sánh
được. Nhìn chung, tỷ lệ loại cơn động kinh cục
534
bộ hay vận động có thể khác nhau ở các độ tuổi
khác nhau và càng lớn tuổi tỷ lệ cơn động kinh
cục bộ càng chiếm tỷ lệ nhiều hơn.
Trong loại cơn động kinh cục bộ, tỷ lệ cơn
động kinh cục bộ đơn giản là 8,3% cao hơn cục
bộ phức tạp là 5,2%. Kết quả này tương tự với
nghiên cứu của tác giả L.T.K.Vân (14) khi động
kinh cục bộ đơn giản cũng nhiều hơn so với
cục bộ phức tạp, điều nay có thể do cùng
nghiên cứu trên trẻ em ở bệnh viện Nhi Đồng
2, nhưng lại khác với các nghiên cứu của tác
giả L.V.Tuấn (13), ở Tây Âu (8) do dân số nghiên
cứu khác nhau. Tuy nhiên tỷ lệ cơn toàn thể
hóa thứ phát thì tương tự nhau giữa các
nghiên cứu ở khoảng 15% (8‐19,6%). Đối với
các loại cơn động kinh toàn thể nguyên phát
thì tỷ lệ thay đổi giữa các nghiên cứu nhưng tỷ
lệ cơn co cứng‐ co giật thì luôn chiếm tỷ lệ cao
nhất trong các loại cơn (9,7 – 41,7%).
Khi khảo sát điện não đồ, nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận được 64/93 trường hợp
(68,8%) có EEG dạng động kinh phù hợp với
lâm sàng, tỷ lệ này khá cao và tương đồng với
nghiên cứu của tác giả L.T.K.Vân(14) với 68% và
nghiên cứu của Rasool và cs(17) với bất thường
EEG là 155/276 (56,2%) trẻ. Còn trong nghiên
cứu của Amirsalari(1) có đến 98% có bất thường
EEG. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của tác giả
L.V.Tuấn(13) ghi nhận chỉ có 18,6% sóng động
kinh phù hợp lâm sàng. Điện não đồ có độ nhạy
tương đối thấp (25‐56%), độ đặc hiệu cao hơn
(78‐98%), và điện não đồ ngoài cơn có tỉ lệ bình
thường cao. Sở dĩ có sự khác biệt nhiều trong tỷ
lệ điện não đồ bất thường giữa các nghiên cứu
có thể là do chưa có một phác đồ đo điện não
thống nhất giữa các nghiên cứu, kết quả dương
tính trên EEG còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: thời điểm đo là trong cơn hay ngoài cơn,
đo trong giấc ngủ hay không, thời gian đo, số
lần đo điện não đồ, thực hiện các nghiệm pháp
kích thích.
Đặc điểm MRI não
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 31/72 trẻ
(43,1%) có bất thường trên MRI. Đây là tỷ lệ phát
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
hiện bất thường khá cao so với những nghiên
cứu trước đây. Tác giả Rasool(17) nghiên cứu các
trẻ co giật mới khởi phát lần đầu không có sốt
nhập khoa cấp cứu, hoặc là điều trị nội trú hay
ngoại trú tại các bệnh viện Nhi ở Ấn Độ chỉ ghi
nhận 32/157 (20,4%) trẻ có bất thường trên MRI.
Tác giả Amirsalari(1) nghiên cứu trẻ bị động kinh
mới phát hiện từ 1 đến 15 tuổi điều trị ngoại trú
ở khoa Thần kinh nhi tại bệnh viện ở Iran cũng
ghi nhận 57/200 (28,5%) trường hợp bất thường
trên MRI. Sự khác biệt này là do mẫu nghiên
cứu của chúng tôi vừa bao gồm trẻ đã được chẩn
đoán động kinh vừa động kinh mới phát hiện
nên có thể bất thường sẽ xuất hiện nhiều hơn là
khảo sát trên trẻ mới khởi phát co giật lần đầu.
Mặt khác, chúng tôi khảo sát cả bệnh nhi nội trú
và ngoại trú và những bệnh nhi nội trú có tình
trạng bệnh nặng hơn nên có thể tỷ lệ phát hiện
bất thường cao hơn.
Cũng nghiên cứu ở Ấn Độ, tác giả
Doescher(6) khảo sát dựa trên cộng đồng những
trẻ 6‐14 tuổi đã từng có 1 cơn co giật lần đầu
trong 3 tháng vừa qua cũng chỉ ghi nhận 32,6%
có bất thường. Với tỷ lệ này, tác giả cho rằng là
đã cao hơn nhiều so với những nghiên cứu trước
đây do đã sử dụng phần lớn MRI tiêu chuẩn để
đánh giá cùng với sự đồng thuận các chuyên gia
phân tích về hình ảnh học để có được kết quả
này. Sự khác biệt với nghiên cứu chúng tôi cũng
có thể là do đối tượng nghiên cứu của tác giả là
trẻ mới phát hiện co giật lần đầu và được tiến
hành trên cộng động khác với nghiên cứu chúng
tôi là ở tại bệnh viện, khi mà những trẻ nhập
viện thường là có bệnh lý động kinh nặng hơn
nên dễ phát hiện nhiều tổn thương hơn.
Cũng vậy, tác giả Kalnin và cs(12) cũng tìm
thấy tỷ lệ bất thường MRI chỉ là 31%. Tuy nhiên,
tác giả Berg và cs(4) lại ghi nhận có tới 388/613
(79,6%) bất thường khi nghiên cứu trẻ ở
Connecticut, Mỹ. Điều đó vì nghiên cứu tác giả
có tính cả trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nhiều trong số
những hội chứng động kinh sớm của những trẻ
này có những bất thường cấu trúc đơn độc mà
nói chung có thể không có liên quan với sự xuất
Thần Kinh
Nghiên cứu Y học
hiện co giật mới ở thời điểm lớn tuổi hơn. Ví dụ:
một tỷ lệ đáng kể trẻ trong nghiên cứu có những
bệnh lý như là loạn sản vỏ, bất thường gen, và
hội chứng thần kinh bì cũng như tỷ lệ cao
nhuyễn não.
Như vậy, tỷ lệ bất thường trên hình ảnh học
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng hay độ
tuổi nghiên cứu, nghiên cứu tại cộng đồng hay
bệnh viện, sử dụng kỹ thuật MRI độ phân giải
cao cùng phác đồ khảo sát bệnh động kinh tiêu
chuẩn, trẻ mới bị một cơn co giật hay đã chẩn
đoán động kinh.
Trong những bất thường trên MRI, chúng
tôi ghi nhận các loại tổn thương phổ biến nhất
là tổn thương chất trắng (11/31, 35,48%), tiếp
theo là tổn thương vỏ não, nang và mất thể
tích (5/31, 16,1%).
Kết quả của chúng tôi cũng tương tự như
của tác giả Kalnin và cs(12). Tác giả tìm thấy
những tổn thương thường gặp nhất ở trẻ mới co
giật lần đầu là tổn thương chất trắng (32,2%),
tổn thương khác (26,2%) (lớn khoang ngoài trục,
bất thường hồi hải mã, bất thường cấu trúc khác
có hay không có ý nghĩa, tổn thương mạch máu,
tăng tín hiệu trên xung khuếch tán).
Nghiên cứu chúng tôi chỉ phát hiện 1 (2,9%)
trường hợp có teo vùng hồi hải mã. Kết quả này
thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu khác(3,4,12).
Tỷ lệ bất thường thùy thái dương trong và hải
mã chiếm tới 15% trong nghiên cứu của
Kalnin(12). Tác giả Berg và cs(4) cũng ghi nhận
10% bất thường trên MRI. Còn trong nghiên cứu
của Wieshmann và cs (2003)(20), tỷ lệ xơ hải mã
lên đến 33%. Sở dĩ có sự khác nhau trong các
nghiên cứu là do việc sử dụng MRI phân giải
cao hay MRI tiêu chuẩn. Nếu ở giai đoạn sớm
hơn của bệnh, việc dùng MRI phân giải cao
cùng với hệ thống tính điểm tiêu chuẩn sẽ làm
tăng độ nhạy để đánh giá tốt hơn thùy thái
dương hay một nơi nào khác.
Về những tổn thương có ý nghĩa thực sự gây
động kinh, nghiên cứu chúng tôi ghi nhận như
sau: tổn thương vỏ não (16,1%), nhuyễn não
(6,45%), mất thể tích: 16,1%, tổn thương mạch
535
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
máu (2/31=6,45%). Các tác giả Rasool(17),
Doetcher(6), Kalnin(12) thì tìm thấy tỷ lệ các bất
thường trên MRI dao động trong khoảng như
sau: tổn thương vỏ não từ 12,6 – 27,1%, nhuyễn
não từ 1,7 – 6,3%, mất thể tích từ 8,5 ‐ 25%.
Trong tổn thương vỏ não, nghiên cứu chúng tôi
chỉ ghi nhận được các rối loạn hình thành vỏ
não: loạn sản vỏ não: 2 (1 ở thùy trán, 1 ở vùng
thùy đảo), xơ củ : 2, lớn nửa não: 1.
Đặc điểm CT‐Scan não
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 15/32
trẻ chụp CT‐scan có kết quả bất thường. Trong
số những tổn thương được phát hiện thì teo não
lan tỏa/cục bộ chiếm tỷ lệ cao nhất 46% (7/15),
còn lại là dị dạng mạch máu não 13,3%, nhuyễn
não (di chứng nhồi máu não/xuất huyết não)
13,3%, khác 26,7% (nang vách trong suốt: 2, vôi
hóa: 1, mất hồi não: 1). Tỷ lệ teo não của chúng
tôi tương tự với của các tác giả Rasool(17) là 44%,
Cala(5) là 41,5%. Bất thường gặp nhiều nhất trên
CT‐Scan là teo não lan tỏa.
Ở trẻ em, Yang va cs (1979)(21) công bố kết
quả từ 256 trẻ động kinh, tỷ lệ bất thường là
33%, nhưng 66% là co giật sơ sinh. Trong động
kinh mới ở người trưởng thành, tỷ lệ các tổn
thương có thể điều trị được thấp. Ở thời điểm
đó, chỉ định CT‐Scan trong động kinh là chủ
quan dựa vào điều kiện kinh tế. Young và cs
(1982)(22) chụp CT‐scan 220 bệnh nhân bệnh
động kinh nhập phòng khám Thần kinh và phát
hiện 24% bất thường, nhưng chỉ 6% trong
những người không có dấu hiệu lâm sàng hay
bất thường cục bộ trên EEG. Tác giả khuyến cáo
rằng, CT‐Scan chỉ nên dùng cho những bệnh
nhân có bất thường cục bộ, nhưng quan điểm
này sẽ bị thách thức trên cơ sở rằng những tổn
thương có thể điều trị được sẽ bị bỏ lỡ. Tổn
thương điển hình phát hiện được trên CT –scan
là: khối u, nhiễm trùng, bệnh mạch máu não
thiếu máu, xuất huyết, dị dạng động tĩnh mạch,
và chấn thương.
536
Mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng và
hình ảnh học
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận bất thường
hình ảnh học (CT‐Scan/MRI) thường gặp nhiều
hơn ở trẻ chậm phát triển tâm thần vận động, trẻ
có bất thường khi khám thần kinh và trẻ có cơn
co giật liên quan cục bộ. Kết quả này góp phần
vào việc quyết định khảo sát hình ảnh học dựa
trên các dữ liệu về lâm sàng của bệnh nhân. Các
mối liên hệ này cũng đã được nhiều tác giả trên
thế giới nghiên cứu và cũng cho ra những kết
luận tương tự với kết quả của nghiên cứu chúng
tôi.
Khoảng một nửa nghiên cứu hình ảnh riêng
lẻ ở trẻ em với động kinh mới xuất hiện có khởi
phát cục bộ được công bố là bất thường; 15‐20%
có thông tin hữu dụng về nguyên nhân hay định
vị tổn thương, 2‐4% cung cấp thông tin làm cải
thiện điều trị khẩn cấp (Gaillard(9)).
Kết quả của chúng tôi có khác biệt với tác giả
Amirsalari(1) khi nghiên cứu 200 trẻ động kinh
mới xuất hiện, ghi nhận bất thường MRI liên
quan đáng kể với tuổi lớn, tiền sử gia đình, bất
thường hình thể và khám lâm sàng. Tuy nhiên
lại không có sự liên quan với giới tính, loại cơn
động kinh, chậm phát triển, và bệnh lý nguyên
nhân. Những nghiên cứu trên trẻ em khác cũng
khuyến cáo rằng động kinh khởi phát cục bộ
thường có bất thường hình ảnh nhiều hơn
(McAbee 1989(16), Maytal 2000(15), Doescher
2006(6)). Còn tác giả Amirsalari(1) kết luận như
sau: việc nhận ra 98% bất thường EEG trong
những trẻ động kinh, bản chất lành tính của
những dấu hiệu trên MRI trong hầu hết trẻ, giá
thành cao và chỉ một số nhỏ bệnh nhân nhận
được can thiệp tích cực từ kết quả MRI, tác giả
đề nghị dùng EEG để khẳng định chẩn đoán và
sử dụng MRI cho những bệnh nhân có bất
thường khi khám, dấu thần kinh cục bộ và bất
thường cục bộ EEG.
Với sự thống nhất với những nghiên cứu
khác và cũng như trong nghiên cứu chúng tôi,
tác giả Doescher khẳng định nên sử dụng MRI
trong trẻ với động kinh có khởi phát cục bộ
Chuyên Đề Nội Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
hay liên quan định vị mới chẩn đoán. Tuy
nhiên, tác giả cũng tìm thấy rằng trẻ với động
kinh toàn thể vô căn rõ ràng và với động kinh
cục bộ vô căn và trẻ với bất thường dạng động
kinh toàn thể trên EEG cũng có bất thường
hình ảnh học. Điều đó chứng tỏ việc chẩn
đoán trẻ có động kinh toàn thể vô căn rõ ràng
và trẻ với bất thường dạng động kinh toàn thể
trên EEG rất quan trọng, và cần đạt đến tiêu
chuẩn chẩn đoán hay nghi ngờ chẩn đoán nếu
tìm thấy có một động kinh cục bộ toàn thể hóa
thứ phát về sau. Những đánh giá thêm về MRI
và EEG theo dõi xuyên suốt quá trình phát
triển và sự tái phát cơn động kinh sẽ chứng
minh sự thay đổi về sau và cho phép phân tích
nguy cơ tiên lượng.
Bình thường
Tổng
Bảng 1:Phân bố mẫu nghiên cứu theo loại cơn
động kinh
Loại cơn
Vận động
Giác quan
Đơn giản
Thực vật
Cục bộ
Tâm thần
Phức tạp
Toàn thể hóa
Vắng ý thức
Giật cơ
Co giật
Toàn thể
Mất trương lực
Co cứng – co giật
Co cứng
Co thắt trẻ thơ
Không phân
HC Lennox- Gastaut
loại
Không xác định được
Tổng
Tần số Tỷ lệ (%)
5
5,2
1
1,0
2
2,1
0
0
5
5,2
17
17,7
0
0
3
3,1
0
0
2
2,1
40
41,7
6
6,3
10
10,4
1
1,0
4
4,2
96
100
Bảng 2:Phân bố mẫu nghiên cứu theo đặc điểm
điện não
Đặc điểm điện não
Tần số Tỷ lệ (%)
Phù
hợp
lâm
sàng
64
68,8
Dạng động
kinh
Không phù hợp lâm sàng
8
8,6
Sóng chậm
9
9,7
Thần Kinh
12
93
12,9
100
Bảng3: Mối liên quan giữa các yếu tố lâm sàng và
hình ảnh học sọ não
Biến số
Giới
Nam
Nữ
Tâm thần
Chậm phát triển
Bình thường
Khám thần kinh
Bất thường
Bình thường
Sóng động kinh
Có
Không
Cơn động kinh
Cục bộ
Toàn thể
KẾT LUẬN
Hình ảnh sọ não cần được khảo sát ở những
trẻ động kinh có cơn co giật cục bộ, sóng dạng
động kinh cục bộ, khám thần kinh bất thường
hay chậm phát triển tâm thần vận động
Nghiên cứu Y học
N
Bất thường n (%)
58
38
28 (48,3%)
18 (47,4%)
P
0,931
0,043
32
64
20 (62,5%)
26 (40,6%)
12
84
9 (75%)
37 (44%)
71
25
35 (49,3%)
11 (44%)
0,045
0,649
0,01
34
47
22 (64,7%)
17 (36,2%)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Amirsalari S, Saburi A, Hadi R, Torkaman M, Beiraghdar F,
Afsharpayman S, Ghazavi Y (2011) “Magnetic resonance
imaging findings in epileptic children and its relation to clinical
and demographic findings”. Acta Med Iran 50:37‐42.
2. Barkovich AJ, Berkovic S, Cascino GD (1997) Recommendations
for neuroimaging of patients with epilepsy. Commission on
Neuroimaging of the International League Against Epilepsy.
Epilepsia 38:1255‐1256.
3. Berg AT, Mathern GW, Bronen RA, Fulbright RK, DiMario F,
Testa FM, Levy SR (2009) “Frequency, prognosis and surgical
treatment of structural abnormalities seen with magnetic
resonance imaging in childhood epilepsy”. Brain 132:2785‐2797.
4. Berg AT, Testa FM, Levy SR, Shinnar S (2000) “Neuroimaging
in children with newly diagnosed epilepsy: A community‐
based study”. Pediatrics 106:527‐532.
5. Cala LA, Mastaglia FL, Woodings TL (1977) “Computerised
tomography of the cranium in patients with epilepsy: a
preliminary report”. Clin Exp Neurol 14:237‐244.
6. Doescher JS, deGrauw TJ, Musick BS, Dunn DW, Kalnin AJ, Egelhoff
JC, Byars AW, Mathews VP, Austin JK (2006) “Magnetic resonance
imaging (MRI) and electroencephalographic (EEG) findings in a
cohort of normal children with newly diagnosed seizures”. J Child
Neurol 21:491‐495.
7. Duncan J.S (1997) “Imaging and epilepsy”. Brain 120 (Pt 2):339‐377.
8. Forsgren L, Beghi E, Oun A, Sillanpaa M (2005) “The
epidemiology of epilepsy in Europe ‐ a systematic review”. Eur
J Neurol 12:245‐253.
9. Gaillard WD, Chiron C, Cross JH, Harvey AS, Kuzniecky R,
Hertz‐Pannier L, Vezina LG (2009) “Guidelines for imaging
infants and children with recent‐onset epilepsy”. Epilepsia
50:2147‐2153.
10. Guerrini R (2006) “Epilepsy in children”. Lancet 367:499‐524.
11. Hsieh DT, Chang T, Tsuchida TN, Vezina LG, Vanderver A,
Siedel J, Brown K, Berl MM, Stephens S, Zeitchick A, Gaillard
537
Nghiên cứu Y học
12.
13.
14.
15.
16.
17.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
WD “New‐onset afebrile seizures in infants: role of
neuroimaging”. Neurology 74:150‐156.
Kalnin AJ, Fastenau PS, deGrauw TJ, Musick BS, Perkins SM,
Johnson CS, Mathews VP, Egelhoff JC, Dunn DW, Austin JK
(2008) “Magnetic resonance imaging findings in children with a
first recognized seizure”. Pediatr Neurol 39:404‐414.
Lê Văn Tuấn (2007) “Nghiên cứu khà năng ứng dụng phân loại
hội chứng động kinh trong thực hành lâm sàng”. Y học thành
phố Hồ Chí Minh, tr 142‐148.
Lê Thị Khánh Vân (2011) “Phân loại và điều trị động kinh trẻ
em ở bệnh viện Nhi đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn
tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TPHCM (Đã bảo vệ).
Maytal J, Krauss JM, Novak G, Nagelberg J, Patel M (2000) “The
role of brain computed tomography in evaluating children with
new onset of seizures in the emergency department”. Epilepsia
41:950‐954.
McAbee GN, Barasch ES, Kurfist LA (1989) “Results of
computed tomography in ʺneurologically normalʺ children
after initial onset of seizures”. Pediatr Neurol 5:102‐106.
Rasool A, Choh SA, Wani NA, Ahmad SM, Iqbal Q “Role of
electroencephalogram and neuroimaging in first onset afebrile
538
18.
19.
20.
21.
22.
and complex febrile seizures in children from Kashmir”. J
Pediatr Neurosci 7:9‐15.
Shinnar S, OʹDell C, Mitnick R, Berg AT, Moshe SL (2001)
“Neuroimaging abnormalities in children with an apparent first
unprovoked seizure”. Epilepsy Res 43:261‐269.
Velez A, Eslava‐Cobos J (2006) “Epilepsy in Colombia:
epidemiologic profile and classification of epileptic seizures and
syndromes”. Epilepsia 47:193‐201.
Wieshmann U.C (2003) “Clinical application of neuroimaging in
epilepsy”. J Neurol Neurosurg Psychiatry 74:466‐470.
Yang PJ, Berger PE, Cohen ME, Duffner PK (1979) “Computed
tomography and childhood seizure disorders”. Neurology
29:1084‐1088.
Young AC, Costanzi JB, Mohr PD, Forbes WS (1982) “Is routine
computerised axial tomography in epilepsy worth while?”.
Lancet 2:1446‐1447.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30//11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Chuyên Đề Nội Khoa