Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đặc điểm nền sọ của trẻ em ở độ tuổi 12 có hạng xương I và II trên phim sọ nghiêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.58 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Nghiên cứu Y học

ĐẶC ĐIỂM NỀN SỌ CỦA TRẺ EM Ở ĐỘ TUỔI 12
CÓ HẠNG XƯƠNG I VÀ II TRÊN PHIM SỌ NGHIÊNG
Nguyễn Bảo Trân*, Đống Khắc Thẩm*

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả và so sánh một số đặc điểm hình thái nền sọ của trẻ em Việt Nam ở độ
tuổi 12 có hạng xương I và II trên phim sọ nghiêng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 120 phim sọ nghiêng của trẻ ở độ tuổi 12
(60 trẻ có hạng xương I và 60 trẻ có hạng xương II), được lấy từ nguồn phim của bệnh nhân đến điều trị chỉnh
hình tại khoa Răng Hàm Mặt – Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh từ năm 1996 đến năm 2006 và dự án
nghiên cứu hình thái sọ mặt răng của trẻ từ 3-18 tuổi tại khoa Răng Hàm Mặt – Đại Học Y Dược Thành Phố
Hồ Chí Minh. Dựa vào bản vẽ nét của phim sọ nghiêng, đo đạc góc nền sọ (Ba-S-N), chiều dài nền sọ trước (SN), chiều dài nền sọ sau (S-Ba). Các đặc điểm nghiên cứu được đo đạc số trung bình, độ lệch chuẩn và so sánh
giữa nam và nữ, giữa hạng xương I và II.
Kết quả và kết luận: Khi so sánh giữa nam và nữ, chiều dài nền sọ sau (S-Ba) ở nam lớn hơn nữ có ý
nghĩa ở hạng xương II. Khi so sánh giữa hạng xương I và II, góc nền sọ (Ba-S-N) ở hạng xương II lớn hơn hạng
xương I có ý nghĩa
Từ khóa: nền sọ, hạng I, hạng II, phim sọ nghiêng.

ABSTRACT
CRANIAL BASE MORPHOLOGICAL CHARACTERISTICS OF 12-YEAR-OLD CHILDREN WITH
SKELETAL CLASS I AND II ON LATERAL HEADFILM

Nguyen Bao Tran, Dong Khac Tham
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 31 - 37
The objectives of this study were to describe and compare some morphological characteristics of cranial base
between 12-year-old Vietnamese children with skeletal class I and II, based on their lateral headfilms.
Materials and method: This descriptive cross-sectional study included 120 lateral headfilms of 12-year-old


children (60 with skeletal class I and 60 with sketeral class II). Cephalometric tracing as well as measurements on
the lateral headfilms were conducted by a calibrated examiner. Cranial base angle (Ba-S-N), the anterior cranial
base length (S-N) and the posterior cranial base length (S-Ba) were measured. Independent sample t test was
applied to compare the cranial base angle (Ba-S-N), the anterior cranial base length (S-N) and the posterior
cranial base length (S-Ba) between male and female, skeletal class I and II.
Results and conclusion: A statistically significant difference in S-Ba length was found between male and
female with skeletal class II as well as in Ba-S-N angle between the two skeletal classes.
Key words: cranial base, skeletal class I, skeletal class II, lateral headfilm.
trong quá trình phát triển và định hướng của
ĐẶT VẤN ĐỀ
khối sọ mặt, sự khác nhau về tương quan của
Nền sọ và khối sọ mặt có sự liên quan chặt
nền sọ trước và nền sọ sau, thể hiện qua góc
chẽ về giải phẫu học và phát triển. Vì thế,
nền sọ, có thể liên quan đến sự khác nhau về
*: Khoa RHM, Đại học Y dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS. Đống Khắc Thẩm

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

ĐT: 0913633840,

Email:

31


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011


tương quan vị trí của xương hàm trên và
xương hàm dưới, từ đó đưa đến độ nhô khác
nhau cho khuôn mặt.
Trên thế giới, nhiều tác giả đã nghiên cứu về
hình thái nền sọ trên phim sọ nghiêng ở các
hạng xương khác nhau. A. Bjork (1955)(2) đã sử
dụng phim sọ nghiêng để chứng minh sự tồn tại
mối liên hệ giữa hình thái nền sọ và tương quan
giữa hai xương hàm. William Bacon và cộng sự
(1992)(3) đã thực hiện nghiên cứu nhằm xác định
những thay đổi của nền sọ ở hạng xương II so
với hạng xương I. Tiếp theo sau, nhiều nghiên
cứu khác của các tác giả tại Pháp, Đức, Anh,
Iran… cho thấy có sự thay đổi ở nền sọ giữa các
hạng xương, tuy nhiên đôi khi có kết quả không
tương đồng giữa các nghiên cứu. Những nghiên
cứu trên lĩnh vực này còn là mối quan tâm của
các nhà nhân chủng học về hình thái nền sọ của
các dân tộc.
Bằng phương pháp phân tích phim sọ
nghiêng của trẻ em ở độ tuổi 12 có hạng
xương I và II, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc
điểm nền sọ của trẻ em ở độ tuổi 12 có hạng
xương I và II trên phim sọ nghiêng” nhằm cung
cấp một cái nhìn tổng quát về hình thái nền
sọ và những thay đổi của nền sọ giữa hạng
xương I và II. Từ đó ứng dụng trong thực tế,
đặc điểm hình thái nền sọ trên phim sọ
nghiêng có thể là một trong các giá trị tham

khảo để chẩn đoán sớm các sai hình về xương
và khớp cắn trong độ tuổi trẻ đang phát triển,
cụ thể là xương hạng II.

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định giá trị trung bình các đặc điểm
nền sọ: góc nền sọ Ba-S-N, chiều dài nền sọ
trước S-N và chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ có
hạng xương I và II.
So sánh sự khác biệt về các đặc điểm nền
sọ giữa trẻ nam và nữ.
So sánh sự khác biệt về các đặc điểm nền
sọ giữa trẻ có hạng xương I và II.

32

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô thức nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Mẫu nghiên cứu
Gồm 120 phim sọ nghiêng của trẻ em Việt
Nam ở độ tuổi 12 có được lấy từ nguồn phim
của bệnh nhân đến điều trị chỉnh hình tại khoa
Răng Hàm Mặt – Đại Học Y Dược Thành Phố
Hồ Chí Minh từ năm 1996 đến năm 2006 và
nhóm mẫu của dự án nghiên cứu hình thái sọ
mặt răng của trẻ từ 3-18 tuổi tại khoa Răng Hàm
Mặt – Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
Mẫu nghiên cứu được chia thành 2 nhóm:

- Nhóm 1: 60 trẻ có tương quan xương hàm
trên và hàm dưới hạng I (30 trẻ nam, 30 trẻ nữ).
- Nhóm 2: 60 trẻ có tương quan xương hàm
trên và hàm dưới hạng II (30 trẻ nam, 30 trẻ nữ).

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Trẻ em nam, nữ Việt Nam từ 11-13 tuổi, sức
khỏe bình thường. Không có dị tật bẩm sinh
hoặc bệnh ảnh hưởng đến sự phát triển đầu mặt.
Không có tiền sử chấn thương hàm mặt. Không
có tiền sử phẫu thuật chỉnh hình hoặc phẫu
thuật răng hàm mặt.

Tiêu chuẩn chọn phim sọ nghiêng
Phim có các điểm mốc cần thiết đều rõ ràng
và không gây nhầm lẫn. Các phim được chia
thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: góc A-N-B từ 0O- 4O.
- Nhóm 2: góc A-N-B > 5O.

Trang thiết bị
Loại phim sử dụng: phim tia X hiệu Kodak
Dental (T. MartTM Cat 2589852) (20.3x25.4)
được tăng cường độ nhạy sáng với tia X bằng
cassette hiệu Kodak Lanex regular screen 8x10
inch chứa mã số của đối tượng nghiên cứu.
Máy chụp phim hiệu Panex-EX số hiệu X100
EC-9450, loại ống đầu dài 65kVp, 10mA trong
thời gian 1/2-1½ giây. Khoảng cách từ đầu cone
đến mặt phẳng dọc giữa của đối tượng nghiên

cứu là 1,52 m.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Kỹ thuật chụp phim
Đối tượng nghiên cứu được chụp phim theo
kỹ thuật đã được chuẩn hóa. Đối tượng được
chụp ở tư thế đứng thẳng, đầu được giữ bằng
giá giữ, bên trái mặt tiếp xúc với phim để làm
giảm độ méo lệch. Hai môi tiếp xúc nhau khi
răng ở tư thế cắn khít trung tâm. Chùm tia X đi
qua tai ngoài vào thẳng góc với phim. Tất cả các
phim được chụp bởi duy nhất một kỹ thuật viên
bộ môn Tia X, khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y
Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. Điều này giúp
giảm thiểu sai số do kỹ thuật chụp phim.

Nghiên cứu Y học

điểm mốc giải phẫu đo đạc trước khi chụp
phim. Sau đó đo lại chính xác chiều dài hình ảnh
thước trên phim tia X. Độ phóng đại được tính
là tỉ lệ % chiều dài trên phim so với chiều dài
thật của thước. Do khoảng cách từ nguồn tia X
đến mặt phẳng dọc giữa của bệnh nhân và từ
mặt phẳng dọc giữa đến phim được chuẩn hóa
cố định nên độ phóng đại trên phim được duy
trì ở 9,5%. Tất cả số liệu đo đạc sẽ được trả về

kích thước thật nếu trừ đi độ phóng đại.
Số liệu trình bày trong luận văn là số liệu
thô, chưa trừ đi độ phóng đại.

Vẽ nét phim tia X

Xử lý dữ liệu

Phim được vẽ bởi cùng 1 người trên giấy
vẽ chuyên dùng trong chỉnh hình răng mặt với
bút chì kim đường kính nhỏ 0,5 mm. Các phim
có 2 nét sẽ được vẽ thành 2 đường và vẽ lấy
đường ở giữa.

Nhập dữ liệu bằng excel và xử lý dữ liệu
bằng phần mềm SPSS 16.0.

Các điểm chuẩn dùng trong nghiên cứu
Điểm Nasion (N)
Điểm trước nhất trên đường khớp trán –
mũi; Điểm Sella Turcica (S): Điểm giữa của hố
yên xương bướm; Điểm Basion (Ba): Điểm dưới
nhất của bờ trước lỗ chẩm; Điểm Subspinale (A):
Điểm sau nhất của xương ổ răng hàm trên;
Điểm Submental (B): Điểm sau nhất của xương ổ
răng hàm dưới

Thống kê mô tả: đánh giá tất cả các số đo
theo giới tính và hạng xương. Tính toán giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn cho mỗi biến số.

Thống kê suy lý: kiểm định t-test để tìm ý
nghĩa thống kê của sự khác biệt (nếu có) của các
đặc điểm nghiên cứu giữa nam và nữ, giữa hạng
xương I và II.

Các số đo
Góc A-N-B; Góc nền sọ Ba-S-N; Chiều dài
nền sọ trước S-N; Chiều dài nền sọ sau S-Ba.

Cách đo trên phim
Dụng cụ
Đối với các kích thước, dùng thước kẹp điện
tử (Electronic Digital Caliper) có độ nhạy
0,01mm. Đối với các góc, dùng thước đo góc
chuyên dụng (hiệu Ormco-Sybron) trong Chỉnh
hình Răng Mặt. Các điểm mốc và số đo được xác
định bởi cùng 1 người.
Độ phóng đại
Độ phóng đại của phim tia X là 9,5% được
xác định bằng cách đặt 1 thước đo có chiều dài
90mm lên mặt phẳng dọc giữa đi qua đa số các

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Hình 1: Bảng vẽ nét: điểm chuẩn A, B, Ba, S, N

KẾT QUẢ
Ở hạng xương I, giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn của các số đo góc nền sọ Ba-S-N, chiều
dài nền sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau S-Ba

của trẻ em nam và nữ, và kết quả so sánh các

33


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Nghiên cứu Y học

giá trị trên giữa nam và nữ được trình bày trong
bảng 1.

Bảng 4: So sánh các đặc điểm nghiên cứu giữa trẻ
(nam và nữ) có hạng xương I và II.

Bảng 1: So sánh các đặc điểm nghiên cứu giữa trẻ
nam và nữ hạng xương I.

Hạng xương I Hạng xương II
M
SD
M
SD
Góc A-N-B 2,63 0,98
6,17
1,21
Góc Ba-S- 127,88 3,56 130,41 4,24
N
Khoảng 68,63 3,02
68,7

2,88
cách S-N
Khoảng 48,87 3,17 48,37 4,26
cách S-Ba
Tham số

Nam
Nữ
Giá Khác
M
SD
M
SD trị p biệt
Góc A-N-B
2,67 1,1 2,58 0,87 0,725
Góc Ba-S-N
127,53 4,02 128,22 3,05 0,457
Khoảng cách S-N 69,31 3,18 67,65 2,72 0,079
Khoảng cách S-Ba 48,83 3,1 48,91 3,29 0,92
Tham số

Giá trị Khác
p
biệt
0,000
0,001

***
***


0,896

-

0,470

-

Ở hạng xương II, giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn của các số đo góc nền sọ Ba-S-N, chiều
dài nền sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau S-Ba
của trẻ em nam và nữ, và kết quả so sánh các
giá trị trên giữa nam và nữ được trình bày
trong bảng 2.

***: p<0.001 Khác biệt có ý nghĩa rất cao; **: p<0.01 Khác biệt
có ý nghĩa cao; * p<0.05 Khác biệt có ý nghĩa

Bảng 2: So sánh các đặc điểm nghiên cứu giữa trẻ
nam và nữ hạng xương II.

Những giá trị về đặc điểm nền sọ của trẻ em
ở độ tuổi 12 có hạng xương I và II trên đã phần
nào đóng góp thêm những hiểu biết mang tính
nhân chủng và hình thái học. Mỗi dân tộc có
một đặc điểm riêng biệt, và đặc điểm nền sọ
cũng có thể là một phần trong những nét đặc
trưng về hình thái của người Việt Nam so với
các dân tộc khác. Vấn đề này thiết nghĩ nên
được làm sáng tỏ trong những nghiên cứu sâu

rộng hơn.

Nam
Nữ
M
SD
M
SD
Góc A-N-B
6,14 1,11 6,19 1,32
Góc Ba-S-N
130,71 4,31 130,11 4,23
Khoảng cách S-N 68,75 2,86 68,65 2,94
Tham số

Khoảng cách S-Ba 49,9

Giá Khác
trị p biệt
0,883
0,588
0,901

-

4,71 46,84 3,15 0,004

**

Kết quả so sánh các đặc điểm nghiên cứu

giữa 2 hạng xương được trình bày lần lượt trong
bảng 3 và bảng 4.
Bảng 3: So sánh các đặc điểm nghiên cứu giữa trẻ
nam có hạng xương I và II, và giữa trẻ nữ có hạng
xương I và II.
Tham số

Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ

34

Hạng xương I Hạng xương II Giá trị
p
M
SD
M
SD
Góc A-N-B
2,67
1,09
6,14
1,11 0,000
2,58

0,87
6,19
1,32 0,000
Góc Ba-S-N
127,53 4,02
130,71 4,31 0,004
128,22 3,05
130,11 4,23 0,05
Khoảng cách S-N
69,31 3,18
68,75 2,86 0,47
67,95 2,72
68,65 2,94 0,34
Khoảng cách S-Ba
48,83
3,1
49,9
4,71 0,300
48,91

3,29

46,84

3,15 0,016

Khác
biệt
***
***

**
*
*

BÀN LUẬN
Giá trị trung bình góc nền sọ Ba-S-N, chiều
dài nền sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau
S-Ba

So sánh sự khác biệt về các đặc điểm nền
sọ giữa nam và nữ
Khi so sánh giữa trẻ nam và nữ, chỉ có chiều
dài nền sọ sau S-Ba có sự khác biệt giữa 2 giới: SBa ở trẻ nam lớn hơn trẻ nữ có ý nghĩa thống kê
ở hạng xương II. Như vậy, ở trẻ em Việt Nam,
không có sự chênh lệch nhiều về đặc điểm hình
thái nền sọ giữa 2 giới.
P. Salehi và cộng sự (Iran, 2006)(20) trong một
nghiên cứu so sánh về đặc điểm nền sọ giữa trẻ
nam và trẻ nữ, đã cho thấy cả chiều dài nền sọ
trước S-N và chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nam
đều lớn hơn trẻ nữ có ý nghĩa thống kê
(p<0,001). Tuy nhiên, nghiên cứu không so sánh
nam và nữ trong từng hạng xương riêng biệt
nhau nên kết quả không đặc trưng cho sự khác
nhau về mặt giới tính trong từng hạng xương.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011


Nghiên cứu Y học

So sánh sự khác biệt về các đặc điểm nền
sọ giữa hạng xương I và II

chiều dài nền sọ trước S-N ở trẻ nữ hạng xương
II lớn hơn hạng xương I có ý nghĩa thống kê.

So sánh giữa trẻ nam hạng xương I và trẻ nam
hạng xương II
Góc nền sọ Ba-S-N ở trẻ nam hạng xương II
lớn hơn trẻ nam hạng xương I có ý nghĩa thống
kê (p<0,01). Nghiên cứu trên trẻ nam của W.
Kerr và cộng sự (Scotland, 1986)(17) và sau đó,
của P. Salehi và cộng sự (Iran, 2006)(20) cũng ghi
nhận một kết quả tương tự.

Chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nữ hạng
xương II bé hơn hạng xương I có ý nghĩa thống
kê (p<0,05). Tuy nhiên, P. Salehi và cộng sự
(2006) không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê và nhận thấy S-Ba ở trẻ nữ hạng xương
II có giá trị trung bình lớn hơn hạng xương I.

Chiều dài nền sọ trước S-N ở trẻ nam hạng
xương I và II không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p>0,05), nhưng nhận thấy S-N ở trẻ
nam hạng xương II có giá trị trung bình bé hơn
hạng xương I. W. Kerr và cộng sự (1986)(17), P.

Salehi và cộng sự (2006)(20) cũng không tìm thấy
khác biệt về chiều dài nền sọ trước S-N ở trẻ
nam hạng xương I và II, nhưng 2 nghiên cứu
trên lại ghi nhận S-N ở trẻ nam hạng xương II có
giá trị trung bình lớn hơn hạng xương I.
Chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nam hạng
xương I và II không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p>0,05), nhưng nhận thấy S-Ba ở trẻ
nam hạng xương II có giá trị trung bình lớn hơn
hạng xương I. Điều này tương tự nghiên cứu của
W. Kerr và cộng sự (1986)(17). Tuy nhiên, nghiên
cứu của P. Salehi và cộng sự (2006)(20) lại cho thấy
sự lớn hơn có ý nghĩa thống kê của chiều dài nền
sọ sau S-Ba ở trẻ nam hạng xương II so với hạng
xương I. Những khác biệt giữa các nghiên cứu có
thể do đặc điểm riêng của từng dân tộc.

So sánh giữa trẻ nữ hạng xương I và trẻ nữ
hạng xương II
Góc nền sọ Ba-S-N ở trẻ nữ hạng xương II
lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ nữ hạng
xương I (p<0,05). Nghiên cứu của P. Salehi và
cộng sự (2006)(20) trên trẻ nữ cũng có kết luận
tương tự.
Chiều dài nền sọ trước S-N ở trẻ nữ hạng
xương I và II không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p>0,05), nhưng nhận thấy S-N ở trẻ nữ
hạng xương II có giá trị trung bình lớn hơn hạng
xương I. Theo P. Salehi và cộng sự (2006)(20),


Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

So sánh chung (nam và nữ) giữa trẻ hạng
xương I và trẻ hạng xương II
Góc nền sọ Ba-S-N ở trẻ hạng xương II lớn
hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ hạng xương I
(p<0,001).
Kết quả nghiên cứu về góc Ba-S-N trên cũng
phù hợp với nghiên cứu của William Bacon và
cộng sự (Pháp, 1992)(3), A. Dhopatkar và cộng sự
(Anh, 2002)(6). Tuy nhiên theo nghiên cứu của
Hildwein và cộng sự (1986)(10), và sau đó, của
Polat ÖÖ và Kaya B (Thổ Nhĩ Kỳ, 2007)(18), góc
nền sọ Ba-S-N không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa trẻ hạng xương I và II. Bên cạnh
đó, nhìn chung, giá trị trung bình góc Ba-S-N ở
trẻ Việt Nam nhỏ hơn trẻ ở Anh, Pháp, nhưng
lớn hơn trẻ ở Thổ Khĩ Kỳ.
Chiều dài nền sọ trước S-N giữa 2 hạng
xương không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên
cứu của William Bacon và cộng sự (1992)(3) và
nghiên cứu của Polat ÖÖ và Kaya B (2007)(18).
Tuy nhiên, theo A. Dhopatkar và cộng sự
(2002)(6), chiều dài nền sọ trước S-N ở trẻ hạng
xương II lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ
hạng xương I (p>0,05).
Chiều dài nền sọ sau S-Ba giữa 2 hạng
xương không khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết

quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Polat ÖÖ và Kaya B (2007)(18). Nhưng bên cạnh
đó, A. Dhopatkar và cộng sự (2002)(6) lại nhận
thấy chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ hạng xương
II gia tăng có ý nghĩa so với trẻ hạng xương I.
Kết quả giữa các nghiên cứu không phải lúc nào
cũng tương đồng, có thể do nhóm dân số được
khảo sát khác nhau.

35


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

S
128O

S

N

130.5O

Ba

N

Ba


Hình 2: Góc nền sọ Ba-S-N của trẻ hạng xương I và hạng xương II ▬ Hình trái: Hạng xương I,
▬ Hình phải: Hạng xương II
Tóm lại, trong các đặc điểm nghiên cứu ở
nền sọ của trẻ Việt Nam ở độ tuổi 12, góc nền sọ
Ba-S-N là đặc điểm thể hiện sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê khi so sánh chung giữa 2 hạng
xương (nam và nữ) (p<0,001), và khi so sánh ở
trẻ nam giữa 2 hạng xương (p<0,01), ở trẻ nữ
giữa 2 hạng xương (p<0,05). Góc nền sọ Ba-S-N
ở trẻ hạng xương II lớn hơn trẻ hạng xương I có
ý nghĩa thống kê. Điều đó có nghĩa là, ở trẻ hạng
xương II, góc nền sọ có khuynh hướng “tù” hơn,
và ngược lại, ở trẻ hạng xương I, góc nền sọ có
khuynh hướng “nhọn” hơn. Nói cách khác, nền
sọ có vẻ “phẳng” hơn ở trẻ hạng xương II so với
hạng xương I. Điều đó cho phép chúng tôi nghĩ
đến sự tồn tại một mối liên hệ giữa sự gập góc
của nền sọ và tương quan của 2 xương hàm.
Chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nữ hạng
xương II bé hơn hạng xương I có ý nghĩa thống
kê, nhưng khi so sánh chung (nam và nữ) giữa
hạng xương I và II, không có sự khác biệt. Như
vậy, các nghiên cứu cần so sánh sự khác biệt về
đặc điểm nền sọ giữa các hạng xương ở trẻ nam
riêng và ở trẻ nữ riêng vì ở từng giới có những
đặc điểm riêng biệt. Nếu chỉ so sánh chung (nam
và nữ) giữa hạng xương I và II, kết quả có thể
không đầy đủ.


36

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra những kết
luận chính như sau:

Giá trị trung bình góc nền sọ Ba-S-N, chiều
dài nền sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau
S-Ba
Trẻ em có hạng xương I
Góc Ba-S-N có giá trị trung bình ở trẻ nam là
127,53O±4,02O; ở trẻ nữ là 128,22O±3,05O; chung
(nam và nữ) là 127,88O±3,56O. Chiều dài nền sọ
trước S-N có giá trị trung bình ở trẻ nam là 69,31
± 3,18mm; ở trẻ nữ là 67,95±2,72mm; chung
(nam và nữ) là 68,63±3,02mm. Chiều dài nền sọ
sau S-Ba có giá trị trung bình ở trẻ nam là
48,83±3,1mm; ở trẻ nữ là 48,91±3,29mm; chung
(nam và nữ) là 48,87±3,17mm.
Trẻ em có hạng xương II
Góc Ba-S-N có giá trị trung bình ở trẻ nam là
130,71O±4,31O; ở trẻ nữ là 130,11O±4,23O; chung
(nam và nữ) là 130,41O±4,24O. Chiều dài nền sọ
trước S-N có giá trị trung bình ở trẻ nam là
68,75±2,86mm; ở trẻ nữ là 68,65±2,94mm; chung
(nam và nữ) là 68,7±2,88mm. Chiều dài nền sọ
sau S-Ba có giá trị trung bình ở trẻ nam là

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
49,9±4,71mm; ở trẻ nữ là 46,84±3,15mm; chung
(nam và nữ) là 48,37±4,26mm.

6.

So sánh góc nền sọ Ba-S-N, chiều dài nền
sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau S-Ba
giữa trẻ nam và trẻ nữ

7.

Trong hạng xương I, giữa trẻ nam và nữ, góc
nền sọ Ba-S-N, chiều dài nền sọ trước S-N, chiều
dài nền sọ sau S-Ba không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Trong hạng xương II,
chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nam lớn hơn trẻ
nữ có ý nghĩa thống kê (p<0,01).

So sánh góc nền sọ Ba-S-N, chiều dài nền
sọ trước S-N, chiều dài nền sọ sau S-Ba
giữa trẻ có hạng xương I và trẻ có hạng
xương II
Góc nền sọ Ba-S-N ở trẻ hạng xương II lớn
hơn trẻ hạng xương I có ý nghĩa thống kê khi so
sánh ở trẻ nam (p<0,01), ở trẻ nữ (p<0,05) và khi
so sánh chung (p<0,001).
Chiều dài nền sọ sau S-Ba ở trẻ nữ hạng
xương II bé hơn hạng xương I có ý nghĩa thống

kê (p<0,05).

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.

5.

Anderson D, Popovitch F (1983), “Relation of cranial base
flexure to cranial form and mandibular position”, Am J Phys

Anthropol, 61:181-7.
Bjork A (1955), “Cranial base development”, Am J Orthod
1955; 41:198-225
Bacon W, Eiller V, Hildwein M, Dubois G (1992), “The cranial
base in subject with dental and skeletal class II”, Eur J Orthod,
14:224-8.
Bộ môn Giải Phẫu Học, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí
Minh (2004), Giải phẫu học, Nhà xuất bản Y Học, Thành Phố
Hồ Chí Minh, tr. 238-270.
Bộ môn Chỉnh Hình Răng Mặt, Đại Học Y Dược Thành Phố
Hồ Chí Minh (2004), Chỉnh hình răng mặt – Kiến thức cơ bản và
điều trị dự phòng, Nhà xuất bản Y Học, Thành Phố Hồ Chí
Minh.

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

16.

17.
18.

19.

20.

Nghiên cứu Y học

Dhopatkar A, Bhatia S, Rock P (2002), “An investigation into
the relationship between the cranial base and malocclusions”,
Angle Orthod, 72:456-63.

Dibbets J M H (1996), “Morphological associations between
the Angle classes”, Eur J Orthod, 18:111-8.
Đống Khắc Thẩm, Hoàng Tử Hùng (2009), “Tương quan giữa
chiều dài nền sọ trước với xương hàm trên, xương hàm dưới
và chiều cao tầng mặt: nghiên cứu dọc trên phim đo sọ trẻ từ
3-13 tuổi”, Tạp chí Y Học TP.HCM, Đại Học Y Dược TP.HCM,
phụ bản của tập 13 (2), tr.10-15.
Đống Khắc Thẩm, Hoàng Tử Hùng (2009), “Tương quan giữa
góc nền sọ và xương hàm dưới: nghiên cứu dọc trên phim đo
sọ trẻ từ 3-13 tuổi”, Tại chí Y Học TP.HCM, Đại Học Y Dược
TP.HCM, phụ bản của tập 13 (2), tr.16-20.
Hildwein M, Bacon W, Turlot J C, Kuntz M (1986),
“Spécificités et discriminants majeurs dans une population de
Class II division 1 d’Angle”, Revue d’Orthopédie Dento-Faciale,
20, pp. 197-225.
Hopkin G B, Houston W J B, James G A (1968), “The cranial
base as an aetiological factor in malocclusion”, Angle Orthod,
38:250-255.
Hồ Thị Thùy Trang, Hoàng Tử Hùng (1999), Những đặc trưng
của khuôn mặt hài hòa qua ảnh chụp và phim sọ nghiêng. Luận
văn thạc sĩ y học, 1999.
Ikumasa Hayashi (2003), “Morphological relationship
between the cranial base and dentofacial complex obtained by
reconstructive computer tomographic images”, Eur J Orthod,
25:385-391.
Jae Woo Park, Namkug Kim, Young Il Chang (2008),
“Comparision of landmark position between conventional
cephalometric radiography and CT scans projected to
midsaggital plane”, Korean J Orthod, 38(6):427-436.
Järvinen S (1984), “Saddle angle and maxillary prognathism: a

radiological analysis of the association between the NSAr and
SNA angles”, Br J Orthod 1984; 11:209-13.
Kasai K, Moro T, Kanazawa E, Iwasawa T (1995),
“Relationship between cranial base and maxillofacial
morphology”, Eur J Orthod, 17:403-410.
Kerr W J S, Adams C P (1986), “Cranial base and jaw
relationship”, Am J Anthropol, 77:213-22
Polat ÖÖ, Kaya B (2007), “Changes in cranial base
morphology in different malocclusions”, Orthod Craniofacial
Res 10, 216-221.
Quintero J C, Trosien A, Hatcher D, Kapila S (1999),
“Craniofacial imagine in orthodontics: Historical perspective,
current status, and future development”, Angle Orthod,
69:491-506.
Salehi P, Danaie M (2006), “Mandibular Size and Position in
8-13 Year Old Iranian Children with Class II Division 1
Malocclusion”, Journal of Dentistry of Tehran University of
Medical Sciences, 3:92-99.

37



×