Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá xơ hóa gan nặng bằng phối hợp kỹ thuật arfi với thang điểm xơ hóa nafld trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.89 KB, 9 trang )

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019

ĐÁNH GIÁ XƠ HÓA GAN NẶNG BẰNG PHỐI HỢP KỸ THUẬT ARFI
VỚI THANG ĐIỂM XƠ HÓA NAFLD TRÊN
BỆNH NHÂN VIÊM GAN NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU
Trần Thị Khánh Tường1
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả chẩn đoán của kỹ thuật ARFI, điểm số xơ hóa NAFLD và sự kết
hợp của các phương pháp này đối với xơ hoá gan nặng trên bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ
không do rượu. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu trên 117 bệnh nhân bị viêm gan nhiễm
mỡ không do rượu. Tất cả bệnh nhân đều được sinh thiết gan và đánh giá xơ hóa gan bao gồm
điểm xơ hóa NAFLD và kỹ thuật ARFI. Đánh giá giá trị chẩn đoán của kỹ thuật ARFI và điểm số
xơ hóa NAFLD bằng đường cong ROC để phát hiện xơ hóa nặng. Kết quả: để xác định xơ hóa
nặng, với giá trị > 0,676, điểm số xơ hóa NAFLD có độ nhạy 52,7%, độ đặc hiệu 97,5%, giá trị
dự báo dương tính 82,0%, giá trị dự báo âm tính 88,7% và AUROC của 0,81 (khoảng tin cậy
95%: 0,55 - 0,89). Để loại trừ xơ hóa nặng, với giá trị < -1,455, điểm số xơ hóa NAFLD có độ
nhạy 98,8%, độ đặc hiệu 80,2%, giá trị dự báo dương tính 55,8%, giá trị dự báo âm tính 98,4%
và AUROC của 0,90 (khoảng tin cậy 95%: 0,72 - 0,95). Kỹ thuật ARFI có độ nhạy 78,5%, độ
đặc hiệu 92,5%, giá trị dự báo dương tính 83,2% và giá trị dự báo âm tính 94,2% với giá trị
điểm cắt là 1,45 và AUROC 0,92 (khoảng tin cậy 95%: 0,76 - 0,98) để chẩn đoán xơ hóa nặng.
Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị > 0,676 làm tăng độ đặc hiệu và giá trị
dự báo dương tính lên 100%. Kết hợp của ARFI và điểm số xơ hóa NAFLD với giá trị < -1,455
làm tăng độ nhạy và giá trị dự báo âm tính lên 100%. Kết luận: phối hợp kỹ thuật ARFI và điểm
số xơ hóa NAFLD rất có giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng tốt hơn so với kỹ thuật ARFI
và điểm số xơ hóa NAFLD đơn thuần.
* Từ khóa: Xơ hóa gan; Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu; Viêm gan nhiễm mỡ không do
rượu; Kỹ thuật ARFI; Thang điểm xơ hóa.

Evaluate Advanced Liver Fibrosis by Combination of ARFI Technique
and NAFLD Fibrosis Score in Patients with Nonalcoholic Steatohepatitis
Summary


Objectives: To evaluate the diagnostic efficacy of ARFI technique, NAFLD fibrosis score (NFS)
and their combination for advanced liver fibrosis in patients with nonalcoholic steatohepatitis.
Patients and methods: The study was carried out on 117 patients with nonalcoholic steatohepatitis.
All of patients underwent a liver biopsy, NFS and ARFI technique. The diagnostic performance
of ARFI and NFS was assessed using ROC curves that were built for the detection of advanced
fibrosis. Results: For the identification of advanced fibrosis, with the value greater than 0.676,
1. Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Người phản hồi (Corresponding): Trần Thị Khánh Tường ()
Ngày nhận bài: 10/12/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/01/2019
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2019.

12


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
NFS had sensitivity of 52.7%, specificity of 97.5%, positive predictive value of 82.0%, negative
predictive value of 88.7%, and AUROC of 0.81 (95%CI: 0.55 - 0.89). For the exclusion of
advanced fibrosis, with the value smaller than -1.455, NFS had sensitivity of 98.8%, specificity
of 80.2%, positive predictive value of 55.8%, negative predictive value of 98.4%, AUROC of 0.90
(95%CI: 0.72 - 0.95). For advanced fibrosis, ARFI had the sensitivity of 78.5%, specificity of
92.5%, positive predictive value of 83.2% and negative predictive value of 94.2% with the cut-off
value of 1.45 and AUROC of 0.92 (95%CI: 0.76 - 0.98). The combination of ARFI and NFS with
a value > 0.676 increased the specificity and positive predictive value to 100%. The combination
of ARFI and NFS with a value < -1.455 increased sensitivity and positive predictive value to 100%.
Conclusions: The combination of ARFI and NFS was more valuable to determine and exclude
advanced fibrosis than ARFI technique and NFS alone.
* Keywords: Liver fibrosis; Nonalcoholic fatty liver disease; Nonalcoholic steatohepatitis;
Acoustic radiation force impulse imaging; NAFLD fibrosis score.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, bệnh gan nhiễm mỡ không
do rượu là nguyên nhân phổ biến nhất
gây bệnh gan mạn, không chỉ ở các nước
phương Tây mà còn ở cả châu Á [12].
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu đặc
trưng bởi gan nhiễm mỡ không do các
nguyên nhân thứ phát như rượu, thuốc…
và liên quan đến rối loạn chuyển hóa như
béo phì, đái tháo đường, rối loạn lipid máu.
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được
phân loại về mặt mô bệnh học gồm gan
nhiễm mỡ không do rượu (nonalcoholic
fatty liver: NAFL) khi chỉ có nhiễm mỡ ở
gan, không có tổn thương tế bào gan
và viêm gan nhiễm mỡ không do rươụ
(nonalcoholic steatohepatitis - NASH) khi
có tổn thương tế bào gan có hay không
có xơ hóa gan. Viêm gan nhiễm mỡ không
do rượu có nguy cơ tiến triển ung thư
biểu mô tế bào gan, nhưng nguy cơ này
chủ yếu xảy ra trên bệnh nhân (BN) bị xơ
hóa gan nặng. Hầu hết hướng dẫn thực
hành của các tổ chức nghiên cứu bệnh
gan trên thế giới đều khuyến cáo nên xác
định hay loại trừ xơ hóa nặng ban đầu

nên dựa vào điểm số xơ hóa bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu (bệnh gan nhiễm
mỡ không do rượu - NFS) và fibroscan
nhằm hạn chế nhu cầu sinh thiết gan.

Theo hướng dẫn của các hiệp hội trên,
trường hợp được chẩn đoán xơ hóa gan
nặng bằng NFS hay FibroScan đều cần
sinh thiết gan để chẩn đoán xác định
trước khi điều trị.
ARFI là kỹ thuật chẩn đoán xơ hóa gan
không xâm nhập mới cho thấy có độ
chính xác cao trong đánh giá xơ hóa gan.
ARFI được tích hợp vào máy siêu âm
dòng Acuson S2000TM (Hãng Siemens).
Kỹ thuật này hoạt động theo nguyên lý ghi
hình bằng xung xạ âm có thể khảo sát
các mô ở sâu mà không phải ấn đầu dò.
Kỹ thuật ARFI kích thích cơ học mô bằng
cách dùng xung đẩy trong thời gian ngắn
(short-duration push pulses) trong vùng
quan tâm (region of interesting: ROI)
được chọn. Khi xung qua vùng ROI gây
ra dời chỗ mô, mô dời chỗ và trở lại vị trí
cũ tùy vào đặc điểm cơ học tạo nên sóng
biến dạng thẳng góc xung đẩy. Tốc độ
của mô dời chỗ hay vận tốc sóng biến
dạng (shear wave velocity: SWV) được đo
13


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
bằng chùm siêu âm quy ước theo dõi
cùng đầu dò siêu âm dùng để tạo ra lực
và phản ánh độ cứng hay độ đàn hồi của

mô. Vận tốc sóng biến dạng tỷ lệ thuận
với độ cứng mô, vận tốc sóng biến dạng
càng nhanh, mô khảo sát càng cứng. Từ
vận tốc sóng biến dạng sẽ suy ra mức độ
xơ hóa gan, chia thành 4 độ tương ứng
với mức độ xơ hóa gan theo Metavir.
ARFI là một kỹ thuật siêu âm đàn hồi tiên
tiến cho phép đánh giá nhanh xơ hóa gan
không xâm lấn, rẻ tiền và hầu như không
có phản ứng bất lợi nào. BN và người
làm đều thoải mái và chỉ mất thời gian
khoảng 5 phút. Ngay sau khi đánh giá
siêu âm gan, ARFI cho thông tin về mức
độ xơ hóa gan tại chỗ mà không cần phải
mua thêm máy khác như FibroScan. Các
nghiên cứu trước đây cho thấy ARFI là
phương pháp đáng tin cậy để đánh giá xơ
hóa gan nặng ở bệnh nhân (BN) viêm
gan nhiễm mỡ không do rượu. ARFI có
giá trị tương đương FibroScan trong đánh
giá xơ hóa gan trên bệnh gan mạn nói
chung và viêm gan nhiễm mỡ không do
rượu nói riêng [4]. Tuy nhiên, ARFI vượt
trội hơn so với FibroScan vì có thể thực
hiện được trên BN có báng bụng, khoảng
gian sườn hẹp. Trên thế giới chưa có
nghiên cứu nào phối hợp NFS với kỹ
thuật ARFI, vì vậy, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm đánh giá giá trị
phối hợp 2 phương pháp này với mục

tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu và giá
trị dự đoán dương, dự đoán âm, độ chính
xác của kỹ thuật ARFI, NFS với 2 giá trị
điểm cắt (-1,455 và 0,675) và phối hợp
hai phương pháp này trong chẩn đoán xơ
hóa nặng ở BN bị viêm gan nhiễm mỡ
không do rượu.
14

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
BN ≥ 18 tuổi bị viêm gan nhiễm mỡ
không do rượu được khám và điều trị tại
Bệnh viện Nhân Dân 115, Thành phố
Hồ Chí Minh.
* Tiêu chuẩn chọn mẫu: BN ≥ 18 tuổi
được chẩn đoán xác định là viêm gan
nhiễm mỡ không do rượu tại Bệnh viện
Nhân Dân 115 khi thỏa mãn 3 tiêu chuẩn
[1] nhiễm mỡ ≥ 5%, tế bào gan thoái hóa
nước và thâm nhiễm tế bào viêm mạn,
loại trừ BN uống rượu > 30 g/ngày đối với
nam, > 20 g/ngày đối với nữ, loại trừ gan
nhiễm mỡ do các nguyên nhân khác [13].
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Mẫu sinh thiết gan không đạt chuẩn
< 6 khoảng cửa.
- Tỷ lệ thành công đo ARFI (success
rate) < 60% hay khác biệt tứ phân vị

thứ 1 và 3 chia cho giá trị trung bình:
IQR/med < 30%.
- BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang
phân tích.
* Cỡ mẫu: công thức tính cỡ mẫu cho
loại nghiên cứu về độ đặc hiệu của một
nghiệm pháp chẩn đoán như sau:

FP: dương tính giả, TN: âm tính thật;
Z
hằng số của phân phối chuẩn. Nếu
a = 0,1, Z a = 1,65; pdis = tỷ lệ hiện hành
của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu
2
a :


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
3 - 5% [11], nước ta có tỷ lệ hiện hành
thấp hơn các nước châu Âu, do đó chúng
tôi lấy tỷ lệ để tính toán là 3%, psp: độ đặc
hiệu hy vọng của phương pháp đối với xơ
hóa đáng kể và xơ hóa nặng khoảng 0,9.
Sai số của độ đặc hiệu dao động trên
dưới 5%
w = 0,05
TP + FN = 98
n = 101. Do đó, chúng tôi chọn mẫu ít

nhất 101 BN.
* Cách tiến hành:
BN được hỏi bệnh sử, khám lâm sàng
và thực hiện các xét nghiệm theo mẫu thu
thập số liệu. BN được sinh thiết gan tại
Phòng Siêu âm của Bệnh viện Nhân Dân
115 bằng súng sinh thiết tự động Bard.
Mẫu sinh thiết được nhuộm HE, trichrome
và PAS. Tất cả BN đều thực hiện ARFI
cài đặt trên máy Siemens ACUSON
S2000 trong 2 tuần trước hay sau sinh
thiết gan tại Trung tâm Medic - Hòa Hảo
TP. HCM và tính NFS. Phân tích mẫu mô
do giảng viên của Bộ môn Giải phẫu bệnh,
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
thực hiện.
Mức độ xơ hóa gan theo thang điểm
mô bệnh học Metavir bao gồm F0: không
có xơ hóa khoảng cửa; F1: xơ hóa
khoảng cửa, quanh khoảng cửa, không
có vách xơ; F2: xơ hóa quanh khoảng
cửa với vài vách xơ; F3: vách xơ và xơ
hóa bắc cầu nhiều, nhưng chưa đảo
lộn cấu trúc tiểu thùy, chưa xơ gan. F4:
vách xơ, xơ hóa bắc cầu nhiều, đảo lộn
cấu trúc tiểu thùy, xơ gan. Xơ hóa nhẹ
F0-1; xơ hóa đáng kể (significant fibrosis)
khi mức độ xơ hóa ≥ F2 ( F2-4) và xơ hóa
nặng (advanced fibrosis) khi mức độ xơ
hóa ≥ F3. Công thức tính điểm xơ hóa

NAFLD (NFS được tính nhanh chóng

online trên phần mềm có sẵn trên internet):
-1,675 + 0,037 x tuổi (năm) + 0,094 x BMI
(kg/m2) + 1,13 x IFG/tiểu đường (có = 1,
không = 0) + 0,99 x AST/ALT (U/L) - 0,013
x tiểu cầu (109/l) - 0,66 x albumin (g/dl).
IGF: impaired fasting glucose (rối loạn
đường huyết đói).
Dựa trên kết quả của nghiên cứu,
hướng dẫn thực hành của Hiệp hội
Nghiên cứu Bệnh gan của châu Mỹ [8] và
châu Âu [6] đều khuyến cáo dùng 2 điểm
cắt của NFS để chẩn đoán và loại trừ xơ
hóa nặng là 0,675 và -1,445. Theo hướng
dẫn của các hiệp hội này, NFS < -1,455:
loại trừ xơ hóa nặng với giá trị dự báo âm
tính là 93% (AUROC là 0,88); NFS > 0,675:
xác định xơ hóa nặng với giá trị dự báo
dương tính là 90% (AUROC 0,88) và khi
NFS nằm trong khoảng -1,45
0,676,
cần làm thêm FibroScan để chẩn đoán
xơ hoá nặng. Vì vậy, chúng tôi cũng sử
dụng 2 điểm cắt này cho NFS, khi phối
hợp với ARFI.
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm thống
kê Stata 13. Các phương pháp thống kê:
- So sánh trung bình của 2 nhóm bằng
t-test, so sánh ≥ 2 tỷ lệ % bằng phép kiểm

Chi bình phương.
- Vẽ đường cong ROC và tính AUROC:
giá trị điểm cắt được chọn tại điểm có chỉ
số Youden (J) cao nhất với J = sensitivity
+ specificity - 1. Tính độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị dự đoán dương tính, giá trị dự đoán
âm tính.
- Đánh giá mối tương quan giữa 2 biến
số liên tục phân phối chuẩn bằng tương
quan Pearson
15


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Từ tháng 10 - 2012 đến 10 - 2015, chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 ca, nhưng chỉ
117 ca đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu.
1. Đặc điểm BN nghiên cứu.
Bảng 1: Một số đặc điểm BN nghiên cứu.
Trung bình ± độ lệch chuẩn (giá trị
nhỏ nhất - lớn nhất)
Tuổi (năm)

n (%)

43,16 ± 13,43 (20 - 81)

Nam
BMI (kg/m


Giá trị bất thường (tăng)

67 (57,5)
2)

25,87 ± 3,82 (17,84 - 30,35)

Nguy cơ và béo phì độ 1: 82 (71)

Rối loạn lipid máu

99 (84,6)

Tăng triglycerid

80 (68,4)

Đái tháo đường

42 (35,8)

ALT (U/l)

76,31 ± 31,12 (17 - 203)

94 (80,3)

AST (U/l)

49,17 ± 26,18 (16 - 224)


73 (62,4)

GGT (U/l)

77,86 ± 63,43 (35,4 - 157)

42 (35,9)

ALP (U/l)

38,34 ± 24,87 (24,6 - 63,2)

0

Bilirubin (mg/dl)

0,78 ± 0,11 (0,23 - 1,02)

0

INR

0,87 ± 0,09 (0,79 - 1,13)

0

Béo phì, đái tháo đường týp 2 và rối
loạn mỡ máu là các yếu tố nguy cơ đã
được xác định rõ trong những nghiên cứu

trước đây. Thừa cân, béo phì đi kèm với
tăng nguy cơ bệnh gan nhiễm mỡ không
do rượu, tần suất bệnh gan nhiễm mỡ
không do rượu tăng khi BMI tăng [2]. Giá
trị trung bình của BMI trong nghiên cứu
này là 25,87, cao hơn bình thường và BN
thuộc nhóm nguy cơ, béo phì độ 1 chiếm
tỷ lệ 71%. Điều này cho thấy thừa cân,
béo phì là một yếu tố nguy cơ thật sự đối
với viêm gan nhiễm mỡ không do rượu.
Hầu hết BN bị bệnh gan nhiễm mỡ không
do rượu có rối loạn lipid máu cùng với
các biểu hiện khác của hội chứng chuyển
16

hóa như béo phì, đái tháo đường và tăng
huyết áp. 84,6% BN của chúng tôi có rối
loạn lipid máu, trong đó tăng triglycerid là
loại rối loạn thường gặp nhất. Đái tháo
đường týp 2 làm tăng phân hủy lipid và
ức chế thu nhận glucose làm tân tạo
triglycerid gây lắng đọng triglycerid ở gan
[7]. Trong nghiên cứu này, BN đái tháo
đường týp 2 chiếm 35,8%.
Đa số các trường hợp viêm gan nhiễm
mỡ không do rượu không có triệu chứng
trừ khi diễn tiến đến xơ gan mất bù. Phần
lớn BN của chúng tôi đến khám do tăng
men gan (74,2%), phù hợp nghiên cứu
của Lee R.G [5]. ALT, AST và GGT là

những xét nghiệm sinh hóa gan bất thường


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
duy nhất, đa số BN có ALT tăng 2 - 3 lần
U/l (63,6%).
2. Các phương pháp đánh giá xơ
hoá gan và phối hợp 2 phương pháp.
Chúng tôi thực hiện sinh thiết 123 BN,
6 BN có khoảng cửa < 6 được loại ra khỏi
nghiên cứu. Tỷ lệ sinh thiết gan thành
công 95%, tương tự của Friedrich-Rust M
(93,4%) [4]. Biến chứng do sinh thiết gan
là một rào cản cho cả bác sỹ và BN đều
ngại thực hiện. Tuy nhiên, sinh thiết gan
qua da trong bệnh lý gan lan tỏa có tần
suất biến chứng nặng như chảy máu và
tử vong rất thấp. Chúng tôi gặp biến
chứng duy nhất là đau (33,3%). Nhiễm
mỡ nhẹ chiếm 63%, nhiễm mỡ trung bình
32,8%, nhiễm mỡ nặng 5,2%. Bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu có đặc trưng về
mô học là nhiễm mỡ loại không bào lớn,
tuy nhiên có thể gặp nhiễm mỡ loại hỗn
hợp, nhiễm mỡ loại không bào nhỏ đơn
thuần rất hiếm gặp.
* Giai đoạn xơ hóa gan theo Metavir:
Giai đoạn F0: 17 BN (14,5%); F1: 47 BN
(40,1%); F2: 28 BN (23,9%); F3: 20 BN
(17,1%); F4: 5 BN (4,4%). Ước tính phải

mất 30 năm để tiến triển đến xơ gan đối
với viêm gan mạn do HCV, tuy nhiên đối
với viêm gan nhiễm mỡ không do rượu
thời gian này còn kéo dài hơn. Bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu/viêm gan
nhiễm mỡ không do rượu mới phát triển
ở châu Á trong vòng 2 thập niên gần đây,
do đó tỷ lệ BN xơ gan do viêm gan nhiễm
mỡ không do rượu đơn thuần rất ít, chính
vì thế chúng tôi chỉ có 5 BN bị viêm gan
nhiễm mỡ không do rượu có xơ hóa F4
hay xơ gan, đa số là xơ hoá F1.

* Mức độ xơ hóa gan:
Xơ hóa nhẹ (F0-1): 64 BN (54,6%);
xơ hóa đáng kể ≥ F2: 53 BN (40,1%);
xơ hóa nặng ≥ F3: 25 BN (21,5%); xơ gan
(F4): 5 BN (4,4%). Xơ hóa nhẹ và xơ hóa
đáng kể chiếm tỷ lệ cao nhất.

Hình 1: (A) Xơ hóa F4 với SWV 1,55 m/s;
(B) Nhuộm HE; (C) PAS; (D) trichrome.
Kết quả nghiên cứu cho thấy vận tốc
sóng biến dạng (Shear wave velocity:
SWV) đo bằng ARFI và NFS có tương
quan thuận, chặt với giai đoạn xơ hóa
gan. Vận tốc sóng biến dạng và NFS tăng
tương ứng với mức tăng của giai đoạn xơ
hóa gan. Như vậy, kỹ thuật ARFI và NFS
thực sự là những phương pháp đáng tin

cậy để đánh giá xơ hóa gan trên BN viêm
gan nhiễm mỡ không do rượu.
Bảng 3: Mối tương quan giữa các
phương pháp với mô bệnh học.
Hệ số tương quan

p

NFS

0,59

0,00012

ARFI

0,62

0,00025

NFS và ARFI đều có mối liên quan thuận
chặt với mô bệnh học
17


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính và
AUROC của NFS, ARFI và phối hợp để chẩn đoán xơ hóa nặng (đã kiểm tra).
Điểm cắt


Độ
nhạy %

Độ đặc
hiệu, %

Giá trị dự
đoán dương
tính, %

Giá trị dự
đoán âm
tính, %

AUROC

> 0,676

52,7

97,5

82,0

88,7

0,81
(0,55 - 0,89)

< -1,455


98,8

80,2

55,8

98,4

0,90
(0,72 - 0,95

SWV (m/s)

> 1,45

78,5

92,5

83,2

94,2

0,92
(0,76 - 0,98)

Phối hợp
NFS và
ARFI (m/s)


NFS > 0,676
và SWV ≥ 1,45 m/s

49,5

100

100

88,9

0,75
(0,49 - 0,81)

NFS < -1,455 và
SWV < 1,45

100

76,5

48,9

100

0,88
(0,68 - 0,95)

Phương

pháp
NFS

Xác định BN viêm gan nhiễm mỡ
không do rượu có xơ hóa gan nặng hay
không đóng vai trò quan trọng để quyết
định điều trị và tầm soát biến chứng nhằm
tránh tiến triển đến mất bù của gan, ung
thư biểu mô tế bào gan và tử vong.
Hướng dẫn của các Hiệp hội Nghiên cứu
Bệnh gan của Mỹ và châu Âu khuyến cáo
sử dụng NFS để bước đầu đánh giá xơ
hóa gan, giúp xác định và loại trừ xơ hóa
nặng trên BN bị bệnh gan nhiễm mỡ
không do rượu. Đối với nhóm BN không
xác định được do NFS nằm giữa 2 điểm
cắt, khuyến cáo sử dụng FibroScan để
tiếp tục xác định xơ hóa gan nặng.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy để xác
định xơ hóa gan nặng, NFS > 0,676 có độ
nhạy 52,7%, độ đặc hiệu rất cao (97,5%)
và các giá trị dự đoán đều cao > 80%.
Ngược lại, để loại trừ xơ hóa gan nặng,
NFS < -1,455 có độ nhạy và giá trị dự báo
âm tính rất cao (98,8%). Như vậy, với giá
18

trị > 0,676, NFS giúp xác định xơ hóa gan
nặng và với giá trị < -1,455, NFS giúp loại
trừ xơ hóa gan nặng chính xác.

ARFI là một kỹ thuật mới, phân tích
tổng hợp của Bota S và CS (2013) cho
thấy ARFI có giá trị tương tự FibroScan
để đánh giá xơ hóa gan [1]. Để chẩn
đoán xơ hóa gan nặng, kết quả cho thấy
vận tốc sóng biến dạng = 1,45 m/s, có độ
đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính > 90%,
độ nhạy và giá trị dự báo âm tính tốt.
Nghiên cứu của Fierbinteanu Braticevici
C và CS (2013) cho thấy với vận tốc sóng
biến dạng = 1,48 m/s, ARFI có độ đặc hiệu,
độ nhạy và các giá trị tiên đoán > 90%,
cao hơn so với kết quả của chúng tôi [3].
Như vậy, kỹ thuật ARFI đáng tin cậy và
có thể sử dụng để chẩn đoán xơ hóa nặng.
Phối hợp 2 phương pháp trong nghiên
cứu nhằm tăng khả năng xác định và loại
trừ xơ hóa gan nặng trên BN bị viêm gan


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
nhiễm mỡ không do rượu. Trong nghiên
cứu này, phối hợp kỹ thuật ARFI với
vận tốc sóng biến dạng ≥ 1,45 m/s và
NFS > 0,676 để xác định xơ hóa gan
nặng có độ đặc hiệu và giá trị dự đoán
dương tính tăng lên 100%; phối hợp ARFI
với vận tốc sóng biến dạng < 1,45 m/s và
NFS < -1,455 để loại trừ xơ hóa gan nặng
có độ nhạy và giá trị dự đoán âm tính

tăng 100%. Kết quả nghiên cứu tương tự
Petta S (2014) khi phối hợp NFS > 0,676
với FibroScan (≥ 9,6 KPa) để xác định
xơ hóa gan nặng nặng cũng có độ đặc
hiệu và giá trị dự đoán dương tính tăng
lên 100% [9]. Tuy nhiên, khi phối hợp
NFS < -1,455 với FibroScan (< 7,9 KPa)
làm giảm dương tính giả 7,3%, tăng độ
nhạy lên 98,9%, tương tự với nghiên cứu
của chúng tôi (100%).
So sánh AUROC khi phối hợp 2 phương
pháp để xác định và loại trừ xơ hoá nặng
đều giảm nhẹ so với kỹ thuật ARFI và
NFS. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng
cho thấy khi phối hợp 2 phương pháp làm
tăng độ đặc hiệu hay độ nhạy thì sẽ giảm
độ nhạy hay độ đặc hiệu tương ứng và do
đó có thể giảm AUROC như nghiên cứu
của Sporea và CS khi phối hợp kỹ thuật
ARFI và FibroScan [10].
KẾT LUẬN
Phối hợp kỹ thuật ARFI và NFS rất có
giá trị để xác định và loại trừ xơ hóa nặng
tốt hơn so với kỹ thuật ARFI và NFS đơn
thuần. Phối hợp 2 phương pháp này có
thể tăng độ nhạy và độ đặc hiệu lên 100%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bota S, Herkner H, Sporea I et al. Metaanalysis: ARFI elastography versus transient
elastography for the evaluation of liver fibrosis.

Liver Int. 2013, 33 (8), pp.1138-1147.
2. Fabbrini E, Sullivan S, Klein S. Obesity
and nonalcoholic fatty liver disease: Biochemical,
metabolic and clinical implications. Hepatology.
2010, 51 (2), pp.679- 689.
3. Fierbinteanu Braticevici C, Sporea I,
Panaitescu E. Value of acoustic radiation
force impulse imaging elastography for
non-invasive evaluation of patients with
nonalcoholic fatty liver disease. Ultrasound in
Medicine and Biology. 2013, 39 (11), pp.19421950.
4. Friedrich-Rust M, Romen D, Vermehren
J et al. Acoustic radiation force impulseimaging and transient elastography for
non-invasive assessment of liver fibrosis and
steatosis in NAFLD. Eur J Radiol. 2012, 81 (3),
pp.325-331.
5. Lee R.G. Nonalcoholic steatohepatitis:
A study of 49 patients. Human Pathology.
1989, 20 (6), pp.594-598.
6. Machado MV, Cortez-Pinto H. Non-invasive
diagnosis of non-alcoholic fatty liver disease.
A critical appraisal. Journal of Hepatology.
2015, Vol 63, 58J, pp.1007-1019.
7. Mikako Obika, Hirofumi Noguchi.
Diagnosis and evaluation of nonalcoholic fatty
liver disease. Experimental Diabetes Research.
2012, pp.1-12.
8. Chalasani N, Younossi Z, Lavine J.E
et al. The diagnosis and management of
non-alcoholic fatty liver disease: Practice

guideline by the American Association for the
Study of Liver diseases, American College
of Gastroenterology, and the American
Gastroenterological Association. Hepatology.
2012, 55 (6), pp.2005-2018.

19


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2019
9. Petta S, Vanni E, Bugianesi E et al. The
combination of liver stiffness measurement
and NAFLD fibrosis score improves the
noninvasive diagnostic accuracy for severe
liver fibrosis in patients with nonalcoholic fatty
liver disease. Liver Int. 2015, May, 35 (5),
pp.1566-1573.
10. Sporea Ş.R, Popescu A et al. Is it
better to use two elastographic methods for
liver fibrosis assessment?. World J Gastroenterol.
2011, 17 (33), pp.3824 -3829.
11. Vernon G, Baranova A, Younossi ZM.
Systematic review: The epidemiology and

20

natural history of non-alcoholic fatty liver
disease and nonalcoholic steatohepatitis in
adults. Aliment Pharmacol Ther. 2011, 34,
pp.274-285.

12. Wong VW. Nonalcoholic fatty liver
disease in Asia: A story of growth. Journal of
Gastroenterology and Hepatology. 2013, 28,
p.1
13. Yoneda M, Suzuki K, Kato S et al.
Nonalcoholic fatty liver disease: US-based
acoustic radiation force impulse elastography.
Radiology. 2010, 256 (2), pp.640-647.



×