Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Cải thiện chất lượng chăm sóc sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam: Tổng quan về dự án sức khỏe sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 20 trang )

Cải thiện chất lượng chăm sóc sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam
Tổng quan về Dự án Sức khoẻ sinh sản

Improving Women’s Health Worldwide

Parthfinder Overview Viet 2.indd 1

7/19/08 10:18:57 AM


CÁC TỈNH DASKSS
Trung Quốc

Dự án Sức khoẻ sinh sản
Tổ chức Pathfinder International cam kết

cống hiến cho sự nghiệp cải thiện cuộc sống của
các phụ nữ và các gia đình ở khắp các nước đang
phát triển, bằng cách hỗ trợ các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình
có chất lượng. Cùng với các đối tác của mình,
Pathfinder phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS,
chăm sóc cho các phụ nữ bị tai biến do phá thai
không an toàn, hướng tới vị thành niên với các
dịch vụ được thiết kế theo yêu cầu của họ, và vận
động cho các chính sách đúng đắn về sức khoẻ
sinh sản ở Mỹ và các nước khác. Pathfinder là
đối tác điều hành Dự án Sức khoẻ sinh sản.

Tổ chức EngenderHealth đã hoạt động suốt
60 năm với mục đích tạo ra các dịch vụ chăm sóc


sức khoẻ sinh sản an toàn, sẵn có, và có thể duy
trì bền vững cho phụ nữ và nam giới trên khắp
thế giới. EngenderHealth làm việc trên phạm vi
toàn cầu trong mối quan hệ đối tác với các chính
phủ và các tổ chức phi chính phủ để giúp các cán
bộ y tế, các nhà quản lý, các bác sĩ, các nhân viên
bệnh viện và các cán bộ tư vấn cung cấp những
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ có chất lượng.

Quảng Ninh
Thái Nguyên
Hà Nội

Lào

Vĩnh Phúc

Việt Nam
Quảng Bình
Thừa Thiên - Huế

Thái Lan

Cam-pu-chia

Hồ Chí Minh

Tổ chức Ipas là một tổ chức phi chính phủ quốc

An Giang


tế đã nỗ lực suốt ba thập niên để giảm bớt tử
vong và tai biến liên quan đến phá thai; tăng khả
năng của phụ nữ trong việc thực hiện các quyền
sức khoẻ sinh sản và tình dục của họ; và cải thiện
việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản, bao gồm cả chăm sóc phá thai an toàn.

Cần Thơ
Hậu Giang
Sóc Trăng

Tóm tắt

Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc Hoàng Chí Dũng
Biên tập và chịu trách nhiệm nội dung: Pathfinder International tại Việt Nam
In theo giấy phép xuất bản số: 38-2008/CXB/08-21/HĐ cấp ngày 18/07/2008
In xong và nộp lưu chiểu quý 3-2008
Design and Production by Lotus Communications,

ii

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 2

Giới thiệu chung ............................................................................
Chất lượng: Một tầm nhìn toàn diện ..............................................
Các kết quả về chất lượng ...............................................................
Xây dựng kế hoạch để duy trì bền vững và nhân rộng: 2002-2010 .......

Các kết quả duy trì bền vững ..........................................................
Kết luận .........................................................................................
Kế hoạch tiếp theo .........................................................................
Tài liệu tham khảo .........................................................................

1
4
7
10
14
16
17
17

7/19/08 10:19:02 AM


Các cán bộ Trung tâm CSSKSS Thừa Thiên - Huế.

Cải thiện chất lượng chăm sóc sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam
Tổng quan về Dự án Sức khoẻ sinh sản
Giới thiệu chung
Năm 1994, Vụ Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em/Kế hoạch hoá gia đình (BVSKBMTE/
KHHGĐ)1 của Bộ Y tế Việt Nam bắt đầu một mối quan hệ đối tác chưa từng có với ba tổ
chức phi chính phủ quốc tế nhằm mục đích cải thiện chất lượng và các loại hình dịch vụ sức
khoẻ sinh sản của hệ thống y tế công. Với sự hỗ trợ tài chính của một nhà tài trợ giấu tên, Dự
án Sức khoẻ sinh sản (DASKSS) đã được khởi động vào thời điểm khi 89% số khách hàng sử
dụng biện pháp tránh thai nhận dịch vụ tại các cơ sở BVSKBMTE/KHHGĐ nhà nước thuộc
tuyến tỉnh. Các cơ sở tuyến tỉnh cung cấp dịch vụ và hỗ trợ các cơ sở tuyến huyện và tuyến
xã. Mặc dù phạm vi bao phủ của các cở sở này rất rộng, chất lượng dịch vụ lại là một vấn

đề cần quan ngại. Không có các hướng dẫn chuẩn quốc gia về lâm sàng hay tài liệu đào tạo;
các nhân viên cung cấp dịch vụ hầu như không tư vấn cho khách hàng; công tác khống chế
nhiễm khuẩn thực hiện chưa tốt; cơ sở vật chất xuống cấp và chưa thực sự hướng tới khách
hàng. Mặc dù các chỉ số sức khoẻ chung đang dần được cải thiện, các rào cản đối với việc cải
thiện SKSS bao gồm cơ cấu các biện pháp tránh thai mất cân đối trầm trọng, nhiều nhu cầu
về kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) không được đáp ứng, và việc điều hòa sinh sản chủ yếu
dựa vào phá thai. (xem khung 1).
Tổ chức Pathfinder International đóng vai trò là đối tác điều hành của DASKSS, dự án hợp
tác giữa ba đối tác quốc tế Pathfinder, Engenderhealth và Ipas. DASKSS bắt đầu một chương
trình đào tạo khá tham vọng với các cơ sở BVSKBMTE/KHHGĐ ở bốn tỉnh. Các giảng viên
tuyến tỉnh được đào tạo bằng giáo trình đào tạo giảng viên mới được xây dựng. Việc đào tạo
lâm sàng dựa theo năng lực được áp dụng để đào tạo cho các cán bộ cung cấp dịch vụ ở các cơ
sở lâm sàng tuyến tỉnh. Các cán bộ này không chỉ trực tiếp cung cấp dịch vụ mà còn có trách
nhiệm đào tạo và giám sát các cơ sở lâm sàng tuyến huyện và tuyến xã. Dự án đã nâng cấp các
Trung tâm BVSKBMTE/KHHGĐ - sau này đổi tên là Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản
(Trung tâm CSSKSS), cung cấp trang thiết bị và dụng cụ cần thiết để các cán bộ cung cấp dịch
vụ đã được đào tạo có thể thực hành những gì đã học. Ngoài ra, dự án đã tiến hành giám sát
sau đào tạo, theo dõi và giám sát định kỳ rất chặt chẽ và nghiêm túc.

Ông Daniel Pellegrom – Chủ tịch
Pathfinder International và Bà
Joellen Lambrotte – nguyên trưởng
đại diện Pathfinder International
tại Việt Nam nhận Bằng khen Vì
hòa bình và hữu nghị giữa các dân
tộc do Ông Vũ Xuân Hồng – Chủ
tịch Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị
Việt Nam (VUFO) trao tặng nhân
dịp 10 năm DASKSS.


Giai đoạn II của dự án bắt đầu từ năm 1998 đã mở rộng phương pháp tiếp cận toàn diện
này. Với sự hỗ trợ bổ sung từ một nhà tài trợ thứ hai − Đại sứ quán Hà Lan, chương
1. Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em Kế hoạch hóa gia đình đã được đổi tên thành Vụ Sức khỏe sinh sản vào những năm 2002 - 2007 và mới đây vừa được đổi tên thành
Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em.

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 1

1

7/19/08 10:19:18 AM


trình đã tiếp tục cải thiện việc cung cấp dịch vụ và tăng cường năng lực đào tạo và quản
lý bằng cách:




Mẹ và con, Trung tâm Y tế huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.




Nhân rộng các hoạt động của giai đoạn I ra bốn tỉnh mới;
Bổ sung việc đào tạo và hỗ trợ đối với các nội dung mới về SKSS bao gồm nhiễm khuẩn
đường sinh sản (NKĐSS), nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục (NKLQĐTD);
Phổ biến đào tạo lâm sàng, theo dõi, giám sát, và các cải thiện chất lượng xuống các

trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã ở cả 8 tỉnh được dự án hỗ trợ;
Củng cố việc đào tạo lâm sàng bằng cách tổ chức các chuyến giám sát sau đào tạo và
giám sát định kỳ một cách có hệ thống;
Đào tạo giảng viên bổ sung và nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên;
Đào tạo cho nhân viên của tất cả các trung tâm CSSKSS tỉnh về hệ thống lưu trữ hồ sơ,
quản lý/giám sát, quản lý tài chính và các chủ đề quản lý khác.

Vào cuối giai đoạn II, các đầu tư về cơ sở hạ tầng thiết yếu, năng lực cán bộ và các quy
trình làm việc đã có tác dụng cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ từ tuyến tỉnh đến

Tóm tắt các giai đoạn của dự án
GIAI ĐOẠN THỜI GIAN TRỌNG TÂM CHIẾN LƯỢC CÁC ĐỐI TÁC CHỦ CHỐT

2

CÁC KẾT QUẢ CHÍNH

Giai đoạn I

1994-98

Cải thiện chất lượng chăm
sóc và các loại hình dịch
vụ thông qua đào tạo lâm
sàng và nâng cấp cơ sở.
Xây dựng năng lực đào tạo.

• Bộ Y tế
• Các khoá đào tạo được xây dựng và thông qua:
• Các Trung tâm Bảo vệ sức khoẻ bà

- KHHGĐ
mẹ trẻ em/Kế hoạch hoá gia đình
- Phá thai an toàn
(BVSKBMTE/KHHGĐ) của 4 tỉnh/thành
- Khống chế nhiễm khuẩn
phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Thừa thiên - Tư vấn
Huế và Sóc Trăng
- Chất lượng chăm sóc
• Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
- NKĐSS/NKLQĐTD
• Nhà tài trợ Mỹ giấu tên
• Đào tạo giảng viên
• Cải thiện chất lượng chăm sóc tại các Trung tâm BVSKBMTE/
KHHGĐ tỉnh
• Nâng cấp/trang bị cho các cơ sở y tế

Giai đoạn
II

19982002/03

Mở rộng chương trình ra 4
tỉnh bổ sung.
Mở rộng việc đào tạo
xuống tuyến huyện và
tuyến xã ở tất cả các tỉnh.

• Bộ Y tế
• Các Trung tâm BVSKBMTE/KHHGĐ của 4
tỉnh cũ và 4 tỉnh mới: Quảng Ninh, Vĩnh

Phúc, An Giang và Cần Thơ
• Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
• Nhà tài trợ Mỹ giấu tên và Đại sứ quán
Vương quốc Hà Lan

• Thiết lập nhóm giảng viên ở 8 tỉnh
• Đào tạo về sức khoẻ sinh sản toàn diện cho 2.300 nhân viên cung
cấp dịch vụ
• Giới thiệu phương pháp giám sát lồng ghép ở 8 tỉnh
• Nâng cấp cơ sở vật chất bổ sung (bao gồm cả cung cấp các tài liệu
thông tin - giáo dục - truyền thông và bơm hút thai chân không
bằng tay) ở 8 tỉnh

Giai đoạn
III

2002-08

Xúc tiến việc duy trì bền
vững thông qua việc cải
thiện các hệ thống quản lý
và lập kế hoạch, mạng lưới
đào tạo và các chính sách ,
cùng với việc phổ biến các
cách tiếp cận của dự án.
Sử dụng mô hình đã
được thiết lập để giải
quyết các ưu tiên về SKSS
mới nảy sinh.


• Bộ Y tế
• Bệnh viện Phụ sản trung ương và
Bệnh viện Từ Dũ
• Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS của 8 tỉnh
dự án cũ
• Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
• Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS của 3 tỉnh
dự án mới: Hậu Giang, Quảng Bình và
Thái Nguyên
• Nhà tài trọ Mỹ giấu tên (đến hết
năm 2007) và Đại sứ quán Vương
quốc Hà Lan

• Nâng cao năng lực đào tạo cho các nhóm giảng viên tuyến tỉnh
• Các nhóm giảng viên tuyến tỉnh tiến hành đào tạo về CSSKSS toàn
diện, giám sát lồng ghép trong CSSKSSS (GSLG) và các chủ đề khác
• Đào tạo về GSLG cho 240 giám sát viên
• Thí điểm mạng lưới đào tạo lại, tiếp thị xã hội, dịch vụ thân thiện
với thanh thiếu niên và sáng kiến làm mẹ an toàn
• Xây dựng năng lực lập kế hoạch chiến lược và vận động
• 2 bản kế hoạch 5 năm về CSSKSS đã được Ủy ban nhân dân tỉnh
phê duyệt
• 8 tỉnh dự án có kế hoạch vận động
• Phổ biến hệ thống lưu trữ hồ sơ
• Hướng dẫn chuẩn quốc gia về CSSKSS, tài liệu đào tạo chuẩn
quốc gia về CSSKSS, tài liệu đào tạo về GSLG được phê duyệt và
phổ biến

Giai đoạn
IV


2008-10

Thể chế hoá mạng lưới
quốc gia về đào tạo lại.
Xúc tiến việc nhân rộng
các phương pháp cung cấp
dịch vụ mới.

• Bộ Y tế
• Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS của 8 tỉnh
đối tác dài hạn
• Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
• Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS của 3 tỉnh
mở rộng đầu tiên: Hậu Giang, Quảng
Bình và Thái Nguyên
• Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS của 5
tỉnh mới (sẽ được xác định)
• Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 2

7/19/08 10:19:27 AM


tuyến huyện và tuyến xã. Một đoàn đánh giá độc lập đã tiến hành đánh giá chiến lược
chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản để xem xét tiến độ và những trở ngại trong
chương trình. Đoàn đánh giá (năm 2000) đã kết luận là DASKSS “đã đạt được những

thành tích đáng ghi nhận trong việc tập huấn toàn diện về SKSS toàn diện cho các nhân
viên y tế và đã có những đòng góp đáng kể trong việc cải thiện chất lượng CSSKSS...”
Dựa vào các kết quả này, các đối tác của dự án bắt đầu cân nhắc cách thức để duy trì bền
vững các can thiệp của dự án.
Hai nhà tài trợ của DASKSS đã cung cấp cho dự án một cơ hội có một không hai, đó là một giai
đoạn dành riêng cho việc củng cố, nhân rộng các thành quả của dự án và chuẩn bị cho việc kết
thúc dự án. Giai đoạn III tập trung vào việc thể chế hoá các thành tựu cơ bản và giúp Bộ Y tế nhân
rộng ra cấp quốc gia các hợp phần chương trình có tác động lớn. Trong giai đoạn III, DASKSS đã
làm việc với Bộ Y tế để tạo điều kiện cho việc thông qua các cách tiếp cận và các giáo trình đào
tạo của dự án, cũng như để xây dựng và phổ biến các chính sách, hướng dẫn và phác đồ phù hợp.
Ở tuyến tỉnh, dự án tập trung vào việc củng cố và phổ biến các phương pháp quản lý và cung cấp
dịch vụ, tiếp tục nâng cao năng lực đào tạo và tạo dựng sự cam kết của các nhà hoạch định chính
sách đối với việc duy trì bền vững các hoạt động của dự án.

Huấn luyện về phá thai an toàn
tại Thừa Thiên - Huế.

Năm 2006, thành công của 8 tỉnh dự án được mở rộng sang 3 tỉnh khác. Các can thiệp về dịch
vụ cũng được mở rộng để bao gồm cả những ưu tiên mới nảy sinh như đào tạo và hỗ trợ cho các
dịch vụ CSSKSS cho vị thành niên và thanh niên, sức khoẻ bà mẹ ở những khu vực chưa được
đáp ứng đủ nhu cầu.
Trong các trang tiếp theo, chúng tôi sẽ giới thiệu về dự án đang ngày một phát triển này, đặc
biệt là về những nỗ lực của dự án để cải thiện chất lượng dịch vụ theo cách có thể duy trì bền
vững và nhân rộng được. Chúng tôi sẽ xem xét các chiến lược DASKSS áp dụng và các thành
tựu của dự án cũng như tóm tắt kế hoạch của dự án trong tương lai.
TÌNH HÌNH SỨC KHỎE SINH SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 1994

Trong những năm trước khi DASKSS bắt đầu, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt về các chỉ số y tế. Tổng tỷ suất sinh giảm từ 5,1
năm 1979 (Tổ chức Y tế thế giới, 1995) xuống còn 3,1 năm 1993 (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995). Đến năm 1994, 44% phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi
15 – 49 sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995). Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm 20% trong khoảng thời gian từ

năm 1984 – 1994 và mức giảm của tỷ suất tử vong trẻ em thậm chí còn nhiều hơn (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995). Nhờ có mạng lưới các cơ sở y tế bao phủ
rộng khắp, các chính sách quốc gia đúng đắn, và chính sách mới hỗ trợ cơ cấu các biện pháp tránh thai đa dạng hơn, các dịch vụ KHHGĐ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
trẻ em của nhà nước có sẵn ở khắp nơi. Tuy nhiên, một số chỉ số khác lại rất cần có sự cải thiện, đó là:

Nhu cầu chưa được đáp ứng về KHHGĐ và việc phá thai: Tổng các nhu cầu chưa được đáp ứng (đối với bất kỳ biện pháp tránh
thai nào hay đối với một biện pháp tránh thai hiệu quả) ước chiếm khoảng 32% vào năm 1994 (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995). Một chỉ số nói lên nhu cầu
chưa được đáp ứng về KHHGĐ là việc sử dụng dịch vụ phá thai. Một nghiên cứu về số liệu thống kê dịch vụ tiến hành năm 1994 ước tính rằng một phụ nữ Việt Nam
trong cuộc đời có trung bình 2,5 lần phá thai (Goodkin, 1994) và hơn 1,4 triệu ca phá thai và hút điều hoà kinh nguyệt đã được thực hiện trong năm 1993 (Tổ chức Y
tế thế giới, 1995). Trong khi đó, tỷ lệ chấp nhận biện phá tránh thai sau phá thai theo ước tính của Bộ Y tế thấp hơn 10%.

Cơ cấu các biện pháp tránh thai: Việc sử dụng biện pháp đặt dụng cụ tử cung chiếm tỷ lệ khoảng gần 3/4 trong tổng số các biện pháp tránh
thai hiện đại (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995) và điều này cho thấy cơ cấu các biện pháp tránh thai mất cân đối trầm trọng. Mặc dù Tổ chức Y tế thế giới cho
là có “sự cam kết cao về chính sách đối với việc mở rộng sự lựa chọn các biện pháp tránh thai”, các chinh sách vẫn nhấn mạnh vào các biện pháp dài hạn và chính
phủ vẫn chỉ “tuyên dương” các cộng tác viên dân số và các nhân viên y tế căn cứ vào chỉ tiêu về số người sử dụng biện pháp đặt dụng cụ tử cung và triệt sản lần đầu.
Ngoài ra, ổ một số tỉnh, những trường hợp chấp nhận triệt sản hoặc sử dụng biện pháp đặt dụng cụ tử cung lần đầu còn được nhận đãi ngộ (Tổ chức Y tế thế giới,
năm 1995).

Nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục: Viện Da liễu trung ương ước tính có khoảng 20 – 40% dân số nông thôn mắc các NKĐSS (trích dẫn
bởi Tổ chức Y tế thế giới, 1995).

Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ: Việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ cơ bản không đáp ứng được cho gần một nửa số dân: năm 1994, 43% số phụ nữ mang
thai không nhận được các dịch vụ chăm sóc trước sinh từ các nhân viên được đào tạo và 44% đẻ tại nhà (Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ, 1995). Chưa đến 1/3 số bà
mẹ được tiêm phòng uốn ván, và mặc dù có ít nhất 60% các bà mẹ bị chẩn đoán là thiếu máu, việc cung cấp viên sắt không được thực hiện một cách thường xuyên
(trích dẫn bởi Tổ chức Y tế thế giới, 1995).
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 3

3


7/19/08 10:19:40 AM


CHẤT LƯỢNG: MỘT TẦM NHÌN TOÀN DIỆN
Ngay từ khi DASKSS mới bắt đầu, các đối tác của dự án đã hiểu rằng để cải thiện chất lượng
dịch vụ, họ cần phải giải quyết nhiều khía cạnh của việc cung cấp dịch vụ. Quan trọng nhất
là cần cải thiện kỹ năng tư vấn và lâm sàng của các cán bộ cung cấp dịch vụ và nâng cấp cơ
sở vật chất để có thể sử dụng những kỹ năng mới học được mà không bị cản trở bởi các yếu
tố như thiếu vật tư và trang thiết bị hoặc cơ sở xuống cấp. Các giám sát viên và các nhà quản
lý cần có sự chuẩn bị tốt hơn để giám sát cơ sở và cán bộ cung cấp dịch vụ. Những chiến lược
được sử dụng để đem lại các cải thiện này được bàn luận ở phần dưới đây.

Huấn luyện lâm sàng tại
thành phố Hồ Chí Minh.

“Khóa đào tạo này thật đặc biệt.
Tôi đã tiếp thu được nhiều kỹ
năng mới trong khám thai, đỡ đẻ
thường, và chăm sóc sơ sinh theo
Hướng dẫn Chuẩn quốc gia và sẽ
áp dụng các kỹ năng này trong
công việc hàng ngày của tôi. Có đi
học tôi mới biết các kỹ năng của
tôi đã lạc hậu đến mức nào và việc
nắm vững các kỹ thuật mới nhất
để thực hiện công tác chăm sóc
có chất lượng cao cho khách hàng
quan trọng ra sao.”
– Học viên, Khóa đào tạo Làm mẹ an
toàn và Chăm sóc trẻ sơ sinh.


CHIẾN LƯỢC 1: Thiết lập một chương trình đào tạo phân cấp.
Khoá đào tạo về SKSS toàn diện được Bộ Y tế chấp thuận cho các nhóm giảng viên tuyến tỉnh
giảng dạy gồm 15 mô-đun về các chủ đề giám sát, KHHGĐ, tư vấn, khống chế nhiễm khuẩn,
NKĐSS, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, phá thai an toàn, KHHGĐ sau phá thai, và dịch vụ thân
thiện với thanh thiếu niên (DVTTTTN). Chương trình đào tạo được thiết kế cho các nhân viên
khác nhau bao gồm các bác sĩ, y sĩ sản nhi và nữ hộ sinh.
Bộ giáo trình đào tạo giảng viên được xây dựng để nâng cao năng lực của nhóm giảng viên chủ
chốt. Các nhóm giảng viên này được thành lập tại từng tỉnh trong 8 tỉnh dự án để đảm bảo duy
trì bền vững các can thiệp về đào tạo. Hơn 150 giảng viên tuyến tỉnh đã được đào tạo giảng
viên cơ bản, 37 người được đào tạo giảng viên sau cơ bản và 33 người được đào tạo giảng viên
nâng cao. Các cơ sở đào tạo ở 8 trung tâm CSSKSS đã được nâng cấp với các mô hình giải phẫu
và các thiết bị giảng dạy khác. Các cán bộ chương trình của văn phòng dự án và các chuyên
gia đã giám sát chặt chẽ quá trình đào tạo, thực hiện cầm tay chỉ việc và phản hồi dựa vào các
công cụ được chuẩn hoá.
CHIẾN LƯỢC 2: Cung cấp đào tạo về SKSS toàn diện.
Phương pháp đào tạo của DASKSS mang tính hệ thống, toàn diện, áp dụng lý thuyết về cách
học của người lớn. Kết hợp nội dung đào tạo chi tiết, dựa trên bằng chứng với các phương
pháp đào tạo hỗ trợ, dựa theo năng lực, các khoá đào tạo được xuất phát từ việc đánh giá
thực tế để tìm hiểu xem các cán bộ cung cấp dịch vụ đã biết những gì và cần biết những gì
để cung cấp các dịch vụ CSSKSS có chất lượng. Việc đào tạo kết hợp các phương pháp giảng
dạy lý thuyết với hướng dẫn thực hành, cả trên mô hình và trên khách hàng, vì vậy các học
viên có thể thử áp dụng các kỹ năng mới dưới sự giám sát của giảng viên trước khi quay về
nơi công tác của mình. Các khoá đào tạo được tiến hành tại các Trung tâm CSSKSS tỉnh
thay vì các bệnh viện lớn hơn để phù hợp với cơ sở làm việc của các học viên. Tất cả các khoá
đào tạo đều::











Phù hợp với các chính sách, hướng dẫn và phác đồ quốc gia cũng như các chuẩn mực
quốc tế;
Được thiết kế dựa trên các phát hiện từ đánh giá nhu cầu đào tạo;
Chú ý một cách toàn diện đến các kỹ năng cần thiết về SKSS/KHHGĐ;
Do các nhóm giảng viên được đào tạo và giám sát chặt chẽ tiến hành;
Được thiết kế để chuyển giao năng lực cho các học viên người lớn một cách chắc chắn.
Nội dung đào tạo bao gồm:
-Mục tiêu cụ thể, đo lường được;
-Các kỹ thuật đào tạo theo phương pháp giảng dạy tích cực như nghiên cứu tình
huống, bài tập đóng vai, và thảo luận;
-Thực hành các kỹ năng mô phỏng;
-Thực hành lâm sàng và quan sát thực địa;
-Các bảng kiểm kiến thức, thái độ và kỹ năng;
-Các bài tập để xây dựng kế hoạch hành động;
Được đánh giá một cách minh bạch và khách quan;
Được hỗ trợ bởi việc thực hiện nghiêm túc các chuyến giám sát sau đào tạo do các giảng viên
và cán bộ văn phòng DASKSS tiến hành, bao gồm cả cầm tay chỉ việc và phản hồi;
Được hỗ trợ bởi việc nâng cấp cơ sở, vận động của cơ sở, và các quy trình được cải thiện.

Công tác đào tạo đang tiến triển. Các giáo trình đào tạo đang tiếp tục được hoàn

thiện và cập nhật. Gần đây, dự án đã xây dựng và thử nghiệm tài liệu đào tạo mới về Tư
4


RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 4

7/19/08 10:19:45 AM


vấn lồng ghép dựa trên các vấn đề khái quát về giới và tình dục trong bối cảnh khách hàng
sử dụng các biện pháp KHHGĐ, mang thai và phá thai, cũng như khi đánh giá nguy cơ
NKLQĐTD/HIV. Tài liệu đào tạo này được sửa đổi từ tài liệu đào tạo về Tư vấn toàn diện
của tổ chức EngenderHealth và đã được Bộ Y tế thông qua năm 2007. Các giảng viên ở cả
8 tỉnh đã được đào tạo để sử dụng giáo trình đào tạo này và hiện đã tiến hành đào tạo cho
các cán bộ cung cấp dịch vụ tuyến tỉnh và tuyến huyện. Mới đây, DASKSS cũng đã hoàn
thành tài liệu đào tạo giảng viên về SKSS cho vị thành niên và thanh niên, chủ yếu được
chỉnh sửa từ tài liệu đào tạo Dịch vụ CSSKSS cho vị thành niên của tổ chức Pathfinder.
Việc đào tạo về phá thai bằng thuốc do tổ chức Ipas tiến hành, sử dụng các tài liệu đào tạo
được xây dựng cho bối cảnh của Việt Nam. Dự án tiến hành định kỳ việc cập nhật các chủ
đề SKSS được quan tâm, ví dụ ung thư tử cung, tránh thai cho vị thành niên và sức khoẻ
phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh.
CHIẾN LƯỢC 3: Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật liên tục sau đào tạo.
Việc đào tạo bản thân nó không có điểm kết. Để có thể sử dụng thành thạo các kỹ năng mới
và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, các học viên cần được hỗ trợ liên tục. Cách
tiếp cận toàn diện của DASKSS cho phép thực hiện được điều này, đầu tiên thông qua các
chuyến giám sát sau đào tạo được thực hiện một cách nghiêm túc, và sau đó là các chuyến
theo dõi giám sát được tổ chức một cách có hệ thống.

Giám sát sau đào tạo. Một thời gian ngắn sau khi việc đào tạo được tiến hành, các giảng
viên thực hiện những chuyến giám sát để quan sát việc sử dụng các kỹ năng mới của học
viên. Giảng viên tiến hành cầm tay chỉ việc và đưa ra các chỉ dẫn, đảm bảo học viên tuân thủ
các thực hành mới, và giúp họ giải quyết các vấn đề nảy sinh. Trong những chuyến giám sát

này, giảng viên thực hiện cầm tay chỉ việc cho cán bộ cung cấp dịch vụ, đồng thời cũng thu
thập thông tin để sau đó thảo luận với các tỉnh nhằm tìm ra các cách giúp thể chế hoá tốt
hơn những thực hành này.
Giám sát lồng ghép vì chất lượng chăm sóc. Ở Việt Nam, các cơ sở y tế tuyến trên

có chức năng giám sát hoạt động của các cơ sở y tế tuyến thấp hơn, tuy nhiên việc giám
sát thường không tập trung vào chất lượng kỹ thuật. Các giám sát viên ít nhận được các
chỉ dẫn về cách tiến hành một chuyến giám sát. Thiếu các phác đồ hoặc các định nghĩa
chuẩn về chất lượng, họ thường tập trung vào các chỉ tiêu và các vấn đề hành chính. Việc
đánh giá thường mang tính phê phán, điều này rất ít có tác dụng thúc đẩy chất lượng hay
đạo đức của nhân viên. Một cuộc đánh giá độc lập tiến hành năm 2002 đã cho thấy các
giám sát viên thường không có đủ kiến thức lâm sàng trong lĩnh vực họ được giao nhiệm
vụ giám sát và các chuyến giám sát thường chỉ giới hạn trong một ngày, trong đó có thể
đã dùng đến nửa ngày cho việc chào đón và giới thiệu. Vì không có các hoạt động theo
dõi tiếp tục, một vấn đề thậm chí có thể vẫn tồn tại, không được giải quyết sau rất nhiều
chuyến giám sát.
DASKSS đã thí điểm phương pháp giám sát mới ở các Trung tâm CSSKSS và các huyện lựa chọn
gọi là Giám sát lồng ghép trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản (GSLG). Phương pháp này







Các giáo trình đào tạo do
DASKSS xây dựng.

“Năm ngoái, tôi tham dự một khoá
đào tạo 2 tuần về SKSS toàn diện

do chị Ngọc tiến hành. Đầu năm
nay, tôi đã dự khoá đào tạo nâng
cao 1 tuần về chủ đề này. Một vài
ngày sau khi khoá đào tạo kết thúc,
chị Ngọc đã đến cơ sở của chúng
tôi để xem liệu chúng tôi có thể áp
dụng những kỹ năng mới vào công
việc hay không. Bất cứ khi nào
chúng tôi gặp khó khăn, chị Ngọc
đều giúp chúng tôi ngay.”
– Cán bộ cung cấp dịch vụ, Trung tâm
Y tế dự phòng, huyện Long Mỹ, tỉnh
Hậu Giang.

Xem xét không chỉ thực hành của các cá nhân mà cả những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng ở tất cả các khía cạnh (ví dụ cơ sở, trang thiết bị, vật tư, công tác đào tạo và việc tổ
chức dịch vụ);
Định nghĩa chất lượng cả theo quan điểm lâm sàng và quan điểm của khách hàng;
Thực hiện xem xét một cách có hệ thống việc cung cấp dịch vụ, số liệu thống kê dịch vụ,
và kết quả phỏng vấn khách hàng trước khi rời cơ sở;
Huy động sự tham gia của nhân viên ở tất cả các cấp – từ nhân viên vệ sinh đến lãnh
đạo – vào việc phát hiện các vấn đề và xây dựng kế hoạch hành động;
Dựa vào thực hành cầm tay chỉ việc và làm mẫu mang tính hỗ trợ của các giám sát viên;
Khuyến khích việc theo dõi tiếp tục những vấn đề nêu ra trong các cuộc giám sát trước đó.

Trong những chuyến giám sát kéo dài 2 ngày tiến hành hàng quý, giám sát viên và nhân viên
sử dụng các công cụ như quan sát cơ sở dịch vụ, quan sát dịch vụ tư vấn và lâm sàng dựa vào
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 5


5

7/19/08 10:20:09 AM


các bảng kiểm chuẩn, xem xét số liệu dịch vụ, phỏng vấn khách hàng trước khi rời cơ sở, tự đánh giá. Sau đó, các nhân viên xây
dựng kế hoạch hành động cho khoảng thời gian từ chuyến giám sát hiện tại đến chuyến giám sát tiếp theo. Được thực hiện một
cách hiệu quả, GSLG thúc đẩy tinh thần tự học, trách nhiệm cá nhân, phương pháp làm việc theo nhóm, cam kết đảm bảo chất
lượng và cải thiện dịch vụ một cách bền vững. GSLG đang được áp dụng tại hơn 40 cơ sở của 8 tỉnh, và sẽ được mở rộng ra các
tỉnh mới trong thời gian sắp tới. Dự án đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống GSLG cũng như khả năng sử dụng hệ thống này của
nhân viên. Vì đối với phương pháp GSLG, số liệu đóng vai trò trọng tâm nên dự án đã tiến hành các hội thảo cho những nhà
quản lý và các cán bộ y tế tuyến tỉnh về việc sử dụng hiệu quả số liệu để ra quyết định.
CHIẾN LƯỢC 4: Cải thiện cơ sở cung cấp dịch vụ
Để làm việc hiệu quả, bên cạnh công tác đào tạo, giám sát sau đào tạo, và giám sát định kỳ có chất lượng, cán bộ cung cấp dịch
vụ cần có cơ sở hạ tầng cơ bản. Nước máy, các thiết bị hoạt động tốt, các vật tư cho khống chế nhiễm khuẩn, và các tài liệu cung
cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng là những nhu cầu thiết yếu. Các cải thiện cơ bản về cơ sở hạ tầng và dịch vụ gồm có:



Khu chờ của Trung tâm CSSKSS
Quảng Ninh sau khi được DASKSS
nâng cấp.

Khu chờ của Trung tâm CSSKSS
Quảng Ninh trước khi nâng cấp.



Tài liệu giáo dục khách hàng. Dự án xây dựng và cung cấp một loạt tài liệu thông tin giáo dục - truyền thông (TT-GD-TT), bao gồm bộ tranh lật về các biện pháp tránh thai, áp

phích, tờ rơi cho khách hàng, sách nhỏ và phim video về tư vấn.
Nâng cấp cơ sở. Việc cải thiện cơ sở cho phép mở rộng các loại hình dịch vụ CSSKSS.
Thực hiện nâng cấp và cải thiện việc bố trí của các khu vực tiếp đón, tư vấn, tiệt trùng,
thủ thuật lâm sàng và sau thủ thuật cũng như cung cấp đủ các thiết bị CSSKSS chất lượng
cao. Các thiết bị và vật tư được trang bị bao gồm hoá chất tiệt trùng và nồi hấp, các dụng
cụ, thuốc thiết yếu, bộ triệt sản nam, bộ triệt sản nữ, thiết bị bơm hút thai chân không
bằng tay, hệ thống ánh sáng cải tiến. Đánh giá về phương pháp GSLG tiến hành năm
2002 đã xác định các cải thiện về cơ sở cung cấp dịch vụ có tác dụng động viên các nhân
viên, làm cho họ có trách nhiệm hơn đối với cơ sở.
Hệ thống lưu trữ hồ sơ khách hàng. Với sự hỗ trợ của Dự án SKSS, Trung tâm SKSS
tỉnh An Giang đã thiết lập một hệ thống lưu trữ hồ sơ lần đầu tiên cho phép các cán
bộ cung cấp dịch vụ có thể lấy ra được hồ sơ khám chữa bệnh của khách hàng. Nhờ
áp dụng hệ thống này, hiện tất cả các trung tâm CSSKSS của các tỉnh dự án đều lưu
các hồ sơ khách hàng để xem xét và cập nhật. Hệ thống này đang được thí điểm ở
tuyến quận/huyện, và Bộ Y Tế đã khuyến nghị nhân rộng hệ thống này ra các tỉnh
thành khác.

CHIẾN LƯỢC 5: Làm cho dịch vụ dễ tiếp cận hơn đối với những nhóm người chưa được
đáp ứng nhu cầu.
Các dịch vụ có thể được cải thiện nếu làm cho chúng thích hợp hơn và dễ tiếp cận hơn đối với
những người có nhu cầu nhưng lại không thể tiếp cận dịch vụ. Một khi các cơ sở cung cấp dịch
vụ đạt được những yêu cầu chất lượng cơ bản về các mặt cơ sở hạ tầng, các kỹ năng CSSKSS,
và công tác giám sát thì các cơ sở đó có thể mở rộng và thay đổi các dịch vụ cho phù hợp với
những nhóm người chưa được đáp ứng nhu cầu. Ví dụ, dự án đào tạo các cán bộ cung cấp dịch
vụ và nâng cấp cơ sở vật chất ở 8 huyện khó khăn vùng sâu vùng xa của 3 tỉnh để cải thiện công
tác làm mẹ an toàn ở những nơi các chỉ số về sức khoẻ bà mẹ còn thấp.

Nhận thức được sự thay đổi về các chuẩn mực xã hội, vào năm 2004, DASKSS đã đảm nhận một công việc mang tính đột phá
là thí điểm một mô hình có tiềm năng nhân rộng về dịch vụ thân thiện với thanh thiếu niên (DVTTTTN). Các cơ sở thí điểm
gồm có các Trung tâm CSSKSS tỉnh, một bệnh viện phụ sản thành phố, một trung tâm y tế huyện và một trạm y tế xã. Tài liệu

đào tạo của Pathfinder về “Dịch vụ sức khoẻ sinh sản cho vị thành niên” đã được sửa đổi để phù hợp với các hướng dẫn chuẩn
của Bộ Y tế (Các thành phần của bộ tài liệu đào tạo này đã được lồng ghép vào tài liệu đào tạo quốc gia về CSSKSS của Bộ Y
tế). Dự án đã sử dụng bộ tài liệu này để tiến hành đào tạo các giảng viên, sau đó những giảng viên này đã tiến hành đào tạo cho
các cán bộ cung cấp dịch vụ thích hợp làm việc tại tuyến tỉnh. Tiếp sau các khoá đào tạo là các chuyến giám sát thực địa để đảm
bảo việc áp dụng kỹ năng. Các cơ sở thí điểm triển khai dịch vụ “Dấu hỏi xanh” dành riêng cho vị thành niên và thanh niên,
cung cấp nhiều loại dịch vụ CSSKSS và tư vấn. Các dịch vụ được cung cấp với sự chú ý đặc biệt đến tính riêng tư, kín đáo và
nhu cầu sức khoẻ của đối tượng này. Các đối tác Việt Nam đã sử dụng ngân sách địa phương cải tạo, nâng cấp cơ sở để có khu
chờ, phòng tư vấn và đôi khi cả phòng khám dành riêng cho vị thành niên và thanh niên. Nhiều loại tài liệu TT-GD-TT được để
ở khu chờ và phòng tư vấn. Dịch vụ được quảng bá cho vị thành niên và thanh niên qua các câu lạc bộ tuổi trẻ, cửa hàng sách,
hiệu thuốc, các phương tiện thông tin đại chúng và đội ngũ giáo dục viên đồng đẳng ở các trường học.

6

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 6

7/19/08 10:20:11 AM


CÁC KẾT QUẢ VỀ CHẤT LƯỢNG
Kỹ năng của các giảng viên đã được dự án đào tạo đã được Bộ Y tế và các đoàn đánh giá độc
lập công nhận. Các chuyến giám sát hàng quý và các số liệu thống kê dịch vụ khẳng định
chất lượng của các dịch vụ CSSKSS được cung cấp tại các cơ sở do DASKSS hỗ trợ, đặc biệt
tại tuyến tỉnh. Các kết quả về chất lượng ghi nhận từ Đánh giá chiến lược Chương trình Sức
khoẻ sinh sản và các đánh giá khác được bàn luận ở phần dưới đây.
KẾT QUẢ 1: Các tỉnh có khả năng tiến hành đào tạo cho các bác sĩ, y sĩ sản nhi và nữ
hộ sinh tại tuyến tỉnh, huyện và xã.
Đánh giá chiến lược Chương trình Sức khoẻ sinh sản ghi nhận các Trung tâm CSSKSS có
“cam kết thực sự đối với việc cung cấp các khoá đào tạo SKSS chất lượng cao.” Các kết quả

cụ thể về năng lực đào tạo gồm:
Chương trình đào tạo phân cấp. Chương trình đào tạo đã được phân cấp thành công
xuống 8 tỉnh;
Giáo trình đào tạo về SKSS chất lượng cao. Giáo trình đào tạo về SKSS đã được áp
dụng thành công cả cho việc đào tạo cũng như để chuẩn hoá các thực hành lâm sàng;
Năng lực đào tạo và quản lý công tác đào tạo được xây dựng và sử dụng hiệu quả.
DASKSS đã thành công trong việc phát triển năng lực lập kế hoạch và quản lý công tác
đào tạo một cách có hệ thống, phát triển đội ngũ giảng viên địa phương thế hệ thứ hai
và đôi khi thế hệ thứ ba. Nhờ kết quả của chương trình đào tạo kỹ năng giảng dạy và
các hỗ trợ khác, đến nay đã có hơn 220 giảng viên có kỹ năng lập kế hoạch và tiến hành
đánh giá nhu cầu đào tạo, soạn các bài tập đào tạo, lên kế hoạch chương trình đào tạo,
và đánh giá kết quả đào tạo. Những giảng viên này đang tiến hành các khoá đào cho cán
bộ cung cấp dịch vụ tuyến tỉnh, huyện và xã về các nội dung: CSSKSS toàn diện cho các
nhân viên mới, Hướng dẫn chuẩn quốc gia về CSSKSS, và cập nhật kỹ thuật về CSSKSS.
Các giảng viên nâng cao cũng tiến hành các khoá đào tạo giảng viên.

Tư vấn cho khách hàng là thanh
niên tại Cơ sở dịch vụ Dấu hỏi
Xanh, Sóc Trăng.

“Đây là lần đầu tiên tôi có thể nói
chuyện như thế này. Tôi không
nghĩ là các thông tin này sẽ được
cung cấp tại đây. Tôi chỉ nghĩ là
tôi đến đây để làm thủ thuật như
ở các bệnh viện khác. Ngay cả ở
phòng khám tư nhân, họ cũng
không tư vấn như thế này.”
- Khách hàng phá thai, 20 tuổi, Hà Nội.


KẾT QUẢ 2: Hơn 2600 cán bộ cung cấp dịch vụ được cải thiện kỹ năng lâm sàng.
Chương trình đào tạo lâm sàng đã đào tạo cho hơn 2600 bác sĩ, nữ hộ sinh và y sĩ của 11 tỉnh (8 tỉnh đối tác ban đầu và 3 tỉnh
mới tham gia dự án năm 2006) theo giáo trình đào tạo về SKSS toàn diện. Theo Đánh giá chiến lược, kỹ năng lâm sàng của các
cán bộ cung cấp dịch vụ được đánh giá là “rất tốt”, các học viên rất hài lòng với việc đào tạo nói chung và đặc biệt đánh giá cao
tính phù hợp của nội dung đào tạo đối với công việc hàng ngày của họ.
KẾT QUẢ 3: Cán bộ và cơ sở cung cấp dịch vụ chấp nhận cách tiếp cận mới hướng tới khách hàng.
Khi dự án mới bắt đầu, các dịch vụ KHHGĐ của ngành y tế thường phục vụ các mục tiêu nhân khẩu học mà ít chú ý đến nhu cầu
của khách hàng. Khách hàng thường không được cung cấp thông tin đầy đủ khi lựa chọn các biện pháp KHHGĐ do tư vấn chưa
tốt, thông tin về khách hàng không đầy đủ, và có ít biện pháp để lựa chọn. Các kết quả của dự án bao gồm:
Cán bộ cung cấp dịch vụ thực hiện tư vấn cho khách hàng. Các cán bộ cung cấp dịch vụ thực hiện tư vấn cho khách hàng
với sự nhận thức sâu sắc lợi ích của công tác tư vấn, đồng thời cũng chú ý đến tiền sử của khách hàng khi tư vấn và sử dụng
hệ thống lưu trữ hồ sơ mới đã được chấp thuận để nhân rộng. Phụ nữ giờ đây có thể có được những thông tin chính xác về
các biện pháp tránh thai thông qua tư vấn, các tài liệu TT-GD-TT, băng video, cũng như từ các cán bộ cung cấp dịch vụ trong
quá trình khám và thực hiện thủ thuật.
Chú ý đến quan điểm của khách hàng giờ đây là quy trình vận hành chuẩn. Các nhân viên được yêu cầu phải thường
xuyên đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng và chú ý đến quan điểm của khách hàng khi đề xuất những cải thiện về
chất lượng dịch vụ.
KẾT QUẢ 4: Khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ và các biện pháp tránh thai đa dạng hơn.
Các biện pháp KHHGĐ và các dịch vụ đa dạng hiện có sẵn ở tất cả các cơ sở cung cấp dịch vụ. Khách hàng hầu hết đều rời
các Trung tâm CSSKSS với những biện pháp tránh thai như bao cao su, viên tránh thai hoặc đặt dụng cụ tử cung. Việc sử
dụng thuốc tiêm tránh thai tăng dần lên trong những năm gần đây, trong khi việc triệt sản đang trở nên ngày càng ít gặp.
Thuốc cấy tránh thai gần đây được đưa vào sử dụng ở một số cơ sở theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Ngoài các dịch vụ KHHGĐ
và phá thai, các khách hàng còn nhận được các dịch vụ khám và điều trị phụ khoa, chăm sóc trước sinh, chẩn đoán và điều
trị NKLQĐTD, và nhiều dịch vụ khác.
Thêm vào đó, một thành tựu đáng ghi nhận của dự án là tăng tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai sau phá thai. Hiện nay, phần
lớn các khách hàng phá thai đều rời các Trung tâm CSSKSS với một biện pháp tránh thai.
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 7


7

7/19/08 10:20:15 AM


KẾT QUẢ 5: Những dịch vụ chủ yếu của các Trung tâm CSSKSS đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế .
Nhiều dịch vụ cung cấp tại các cơ sở đối tác của DASKSS đạt tiêu chuẩn quốc tế về mặt chất
lượng. Quy trình khống chế nhiễm khuẩn được tuân thủ nghiêm ngặt và nhìn chung tốt hơn
so với các cơ sở CSSKSS khác. Các dụng cụ khống chế nhiễm khuẩn cũng như các thiết bị và
vật liệu tiêu hao luôn có đủ cho tất cả các bước khử nhiễm, làm sạch, và tiệt trùng hay khử
khuẩn mức độ cao. Các nhà đánh giá đã quan sát 96% thời gian rửa tay khi chuyển từ khách
hàng này sang khách hàng khác và nhận thấy rằng khăn lau vô trùng luôn có sẵn và được sử
dụng, và các biện pháp phòng ngừa phổ quát được tuân thủ ở tất cả các thủ thuật hút thai
chân không bằng tay và đặt dụng cụ tử cung.
Giám sát viên hướng dẫn nhân
viên cung cấp dịch vụ trong đợt
giám sát lồng ghép.

“Lúc đầu, thực sự tôi rất sợ các
giám sát viên tuyến tỉnh đến giám
sát chúng tôi; sau đó tôi biết rằng
với phương pháp giám sát lồng
ghép, các nhân viên không bị
trách mắng. Giờ thì tôi cảm thấy
thoải mái và mong được gặp các
giám sát viên và hy vọng rằng họ
đến thường xuyên vì họ chỉ muốn
giúp đỡ chúng tôi.”
– Đại diện Trung tâm Y tế huyện Phú Tân,

tỉnh An Giang.

Tương tự, các thủ thuật phá thai cũng đảm bảo chất lượng cao. Một đánh giá của Bộ Y tế
tiến hành năm 1997 nhận thấy có sự lạm dụng trong việc sử dụng biện pháp nong và nạo để
chấm dứt thai nghén đối với tuổi thai từ 6 – 12 tuần. Kết quả các hoạt động đào tạo, nâng cấp
cơ sở, giám sát và vận động của dự án có thể tóm tắt như sau:
Các dịch vụ phá thai an toàn được cập nhật. Phương pháp nong và nạo “hầu như bị loại
trừ” ở tuyến tỉnh và tuyến huyện, những nơi trước đây thường áp dụng phương pháp
này. Phương pháp được dùng để thay thế là phương pháp hút thai chân không bằng tay.
Gần đây, phương pháp phá thai bằng thuốc cũng đã bắt đầu được áp dụng. Phương pháp
phá thai bằng thuốc hiện đã có ở bệnh viện tuyến trung ương và 22 tỉnh thành trong đó
có 8 tỉnh được DASKSS hỗ trợ. Mặc dù có sự bất tiện phải đi đến cơ sở y tế nhiều lần, số
phụ nữ lựa chọn phương pháp phá thai bằng thuốc đang tăng lên.
Các dịch vụ phá thai có chất lượng tốt. Các thủ thuật hút thai chân không bằng tay có
sẵn ở hầu hết các cơ sở cùng các kỹ năng chuyên môn và giao tiếp rất tốt của cán bộ cung
cấp dịch vụ và việc tuân thủ các quy trình khống chế nhiễm khuẩn. Khách hàng được
giải thích rõ về phương pháp này. Họ được tư vấn để giảm bớt sự lo lắng trong quá trình
làm thủ thuật. Tỷ lệ tai biến thấp và hầu như không xảy ra những tai biến nghiêm trọng
sau phá thai.
Số phụ nữ lựa chọn các biện pháp tránh thai sau phá thai ngày càng tăng. Trong
khoảng thời gian từ năm 1999 - 2007, tỷ lệ chấp nhận các biện pháp tránh thai sau phá
thai tăng lên rất cao ở các cơ sở được dự án hỗ trợ, cụ thể là từ 48% lên tới 82% như đã
thấy ở biểu đồ 1.
KẾT QUẢ 6: Khách hàng rất hài lòng với các dịch vụ cung cấp.
Những nỗ lực làm cho các dịch vụ đáp ứng tốt hơn với nhu cầu của khách hàng đã gặt hái được
thành công. Các chuyến giám sát hàng quý do cán bộ văn phòng dự án cùng các giám sát viên
tuyến tỉnh tiến hành khẳng định mức độ hài lòng cao của khách hàng. Thêm vào đó:
Phần lớn khách hàng được phỏng vấn trong Đánh giá chiến lược năm 2000 hoàn toàn hài
lòng với chất lượng dịch vụ nhận được. Các cán bộ cung cấp dịch vụ được khen ngợi về sự
nhiệt tình, thân thiện và thái độ tôn trọng khách hàng, “đây là những điều khách hàng đánh

giá cao và nói rằng đó chính là lý do khiến họ đến nhận dịch vụ chăm sóc tại cơ sở”.
Tỷ lệ hài lòng của khách hàng nữ nhận dịch vụ tại 5 cơ sở thí điểm sáng kiến tiếp thị xã hội
giai đoạn 2004 – 2006 nằm trong khoảng từ 87% – 100%, hầu hết các cơ sở đạt trên 90%.
Tỷ lệ hài lòng của khách hàng vị thành niên và thanh niên nhận dịch vụ tại 6 cơ sở
DVTTTTN nằm trong khoảng từ 89% – 100%.
Năm 2006, mức độ hài lòng của khách hàng ở tất cả các cơ sở thực hiện dự án đạt 4,6
điểm (điểm tối đa là 5).
KẾT QUẢ 7: Số khách hàng sử dụng các dịch vụ CSSKSS tăng.
Số lượt khách hàng tại 8 Trung tâm CSSKSS tỉnh tăng từ 115.000 lượt năm 1999 ước tính lên
đến 172.000 lượt năm 2007, tỷ lệ tăng 50%.
KẾT QUẢ 8: Công tác theo dõi giám sát được cải thiện.
Theo Đánh giá chiến lược, các nhà quản lý thực hiện tốt việc theo dõi hoạt động của các cơ sở.
Việc giám sát được cải thiện sau khi các bảng kiểm chuẩn được giới thiệu và có sự nhấn mạnh
vào phương pháp giám sát hỗ trợ. Quan trọng nhất là các Trung tâm này đã xây dựng được
văn hoá về kèm cặp hướng dẫn và giải quyết vấn đề. Ngoài ra, sự tự tin của các giám sát viên

8

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 8

7/19/08 10:20:17 AM


đã được cải thiện nhờ các khoá đào tạo về SKSS toàn diện họ nhận
được từ dự án.
Một vài năm sau, với việc áp dụng phương pháp GSLG ở 8 Trung
tâm CSSKSS tỉnh và 32 huyện của những tỉnh này, các cải thiện
đang được duy trì. Đánh giá về việc thực hiện thí điểm phương

pháp GSLG tiến hành năm 2001 cho thấy phương pháp này là một
phương pháp rất tích cực và mang lại “sự hiểu biết lẫn nhau, một
môi trường làm việc được tôn trọng và tinh thần làm việc nhóm
giữa lãnh đạo và nhân viên”. Những người được phỏng vấn cho biết
không khí làm việc đã được thay đổi, làm cho những người được
giám sát cảm thấy họ được trao quyền nhiều hơn và có ý thức tự
chủ cao hơn. Ngoài ra, một khi các khuyến nghị được thực hiện,
các nhân viên của cơ sở cảm thấy quan tâm và có trách nhiệm
hơn với các dịch vụ và cơ sở họ làm việc.

Biểu đồ 1: Tỷ lệ chấp nhận biện pháp tránh thai sau phá thai của 8 Trung tâm CSSKSS
giai đoạn 1999-2007
100.0%
90.0%
80.0%
70.0%
60.0%
50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%

1999

2000

2001


2002

2003

2004

2005

2006

2007

Biểu đồ 2: Tổng số khách hàng tới các trung tâm
190000
180000

170000
Bên cạnh việc gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng (đã bàn
160000
luận ở phía trên), các cán bộ chương trình của DASKSS khi tiến
150000
hành các chuyến giám sát việc thực hiện hệ thống giám sát mới
140000
này cũng ghi nhận những thay đổi như sau:
130000
Thực hành giám sát. Các giám sát viên nhất quán hơn trong
120000
việc cầm tay chỉ việc lâm sàng và phản hồi, phân tích các thông
110000
tin liên quan đến chất lượng chăm sóc, khuyến khích môi

100000
1999
2000
2001
trường có lợi cho các dịch vụ chất lượng cao và sử dụng các
tiêu chí khách quan để đánh giá chất lượng công việc;
Tổ chức dịch vụ. Các cơ sở đã tiến hành những hoạt động để cải thiện dịch vụ như bố
trí phòng tư vấn để đảm bảo tính riêng tư, kín đáo, cải thiện khu vực chờ, đảm bảo có đủ
các tài liệu TT-GD-TT, và cải thiện luồng khách hàng để giảm thời gian chờ đợi;
Quản lý cơ sở. Việc thu thập số liệu được cải thiện và được sử dụng một cách nhất quán
hơn để xác định các vấn đề và các giải pháp và khuyến khích đối thoại giữa nhân viên và
ban lãnh đạo; nhân viên hiểu rõ hơn các quyền khách hàng và chú ý đến quan điểm của
khách hàng, cởi mở hơn và đánh giá cao công tác giám sát.

KẾT QUẢ 9: Các nhóm trước đây chưa được đáp ứng nhu cầu giờ đã được tiếp cận
dịch vụ.
Ba tỉnh đã xây dựng được mô hình cung cấp DVTTTTN có thể nhân rộng trong khuôn
khổ các cơ sở y tế công hiện có. Báo cáo đánh giá mô hình thí điểm này cho thấy có “sự cải
thiện đáng kể về môi trường cung cấp DVTTTTN tại các khu thí điểm dịch vụ Dấu hỏi
xanh so với đánh giá ban đầu.” Đánh giá cũng cho thấy là hầu như tất cả 236 khách hàng
được phỏng vấn đều thoả mãn với thái độ của các nhân viên và các dịch vụ được cung cấp.
85% trong số những người được phỏng vấn nói rằng các cán bộ cung cấp dịch vụ có thái
độ thân thiện và 88% nói rằng họ thông cảm, không phán xét và tế nhị với khách hàng.
Vị thành niên và thanh niên được phỏng vấn cũng cho biết họ cảm thấy thoải mái trong
những phòng dành riêng cho họ sử dụng. Các quan sát dịch vụ đã khẳng định rằng việc
tư vấn cho vị thành niên và thanh niên có chất lượng tốt. Số vị thành niên và thanh niên
nhận dịch vụ tại các cơ sở thí điểm của thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Hà Nội tăng
lên 29%, 32% và 21% tương ứng. Đánh giá này đã kết luận rằng sự thành công của mô
hình một phần là do có sự ủng hộ mạnh mẽ (và những đóng góp về tài chính) của chính
quyền địa phương, cũng như nền tảng vững chắc về chất lượng dịch vụ đã có ở các cơ sở

tham gia thí điểm.
Dựa vào thành công của việc thực hiện thí điểm, mô hình DVTTTTN đang được nhân
rộng ra 5 tỉnh khác của dự án cũng như một số cơ sở bổ sung của 3 tỉnh thí điểm, tổng
cộng lên tới 19 cơ sở. Những kinh nghiệm ban đầu từ việc thực hiện thí điểm đã đóng
góp vào việc xây dựng Kế hoạch tổng thể về Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của vị
thành niên và thanh niên Việt Nam và Hướng dẫn Cung cấp dịch vụ sức khoẻ thân thiện
với vị thành niên và thanh niên.

2002

2003

2004

2005

2006

“Trước khi có các khoá đào tạo
lại về lâm sàng và giám sát lồng
ghép, việc chấp nhận các biện
pháp KHHGĐ sau phá thai chỉ
khoảng 45% (ở trung tâm chúng
tôi). Hiện tại, với kỹ năng và
phương pháp tư vấn mới, 85%
số khách hàng phá thai rời trung
tâm với một biện pháp KHHGĐ.
Để đạt được kết quả này đòi hỏi
phải có sự giám sát chặt chẽ và
các nỗ lực để tăng cường kỹ năng

tư vấn, cũng như để thay đổi thái
độ của nhân viên đối với khách
hàng... Số ca phá thai đã giảm
từ 600 ca hàng tháng xuống còn
600 ca hàng quý do kết quả của
công tác tư vấn và việc sử dụng
các biện pháp KHHGĐ tăng. ”
– Nhân viên, Trung tâm CSSKSS
Quảng Ninh

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 9

2007

9

7/19/08 10:20:18 AM


Thảo luận nhóm tại cuộc họp thường niên các đối tác dự án năm 2006.

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH ĐỂ DUY TRÌ BỀN VỮNG
VÀ NHÂN RỘNG: 2002-2010
Thường thì những thay đổi tích cực không được duy trì sau khi nhà tài trợ chấm dứt viện trợ. Các mô hình được giới thiệu;
nhân viên, lãnh đạo và khách hàng đều thấy rõ giá trị của chúng; nhưng khi đó các đối tác lại thiếu năng lực, nguồn lực, và sự
ủng hộ chính trị cần thiết để duy trì các kết quả. Để tránh một kết cục như vậy, DASKSS đã hợp tác với Bộ Y tế và các đối tác
tuyến tỉnh để thực hiện một giai đoạn dự án hoàn toàn được thiết kế riêng cho mục đích duy trì bền vững, cụ thể là: tăng cường
khả năng của Bộ Y tế để quản lý và nhân rộng các can thiệp của DASKSS; thể chế hoá công tác đào tạo lại và phương pháp giám

sát tiên tiến; thu hút thêm khách hàng; và hỗ trợ các Sở Y tế và Trung tâm CSSKSS tuyến tỉnh vận động để giành sự ủng hộ của
chính quyền địa phương đối với những nhu cầu của họ.
CHIẾN LƯỢC 1: Tạo dựng sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách tuyến trung ương và tuyến tỉnh trong việc duy
trì bền vững và nhân rộng các can thiệp.
Vận động là yếu tố chủ chốt dẫn đến sự thành công của DASKSS, cả ở tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Dự án đã vận động để
có được sự đóng góp ngân sách đối ứng của chính phủ cũng như sự chấp nhận và nhân rộng các thực hành chất lượng cụ thể,
các chính sách, tài liệu đào tạo và các bộ công cụ.

Bộ Y tế. Ở tuyến trung ương, DASKSS làm việc với Bộ Y tế để tăng cường khả năng duy trì bền vững của dự án và tạo điều kiện

thuận lợi cho việc nhân rộng các phương pháp tiếp cận của dự án. DASKSS tham gia vào việc cập nhật phiên bản Hướng dẫn
chuẩn quốc gia về CSSKSS 2001 và 2008. Dự án và các đối tác cũng đóng góp hỗ trợ kỹ thuật và nguồn lực tài chính vào việc xây
dựng Tài liệu đào tạo quốc gia về SKSS năm 2005, gồm cả các nội dung hướng dẫn việc sử dụng kỹ thuật phong bế cổ tử cung
cho thủ thuật phá thai, các dung dịch khử khuẩn hiệu quả có chi phí thấp và tư vấn toàn diện hơn.

Sở Y tế. Do hệ thống phân cấp quản lý của Việt Nam, việc cấp kinh phí và một số quyết định chính sách được thực hiện ở

tuyến tỉnh. DASKSS đã huy động được sự tham gia của Sở Y tế (là cơ quan quản lý/lập kế hoạch y tế và là cơ quan tham mưu
về chính sách của chính quyền cấp tỉnh) vào việc thiết kế các hoạt động và cách tiếp cận bền vững, định hướng cho các cán
bộ công chức về những thành tựu của dự án, và thảo luận về những yêu cầu đối với cả hai phía đối tác để duy trì bền vững và
nhân rộng các thành tựu này. Các tỉnh đã đóng góp kinh phí như một điều kiện để tham gia dự án. Lúc đầu là các khoản đóng
góp cụ thể (ví dụ dụng cụ bơm hút thai chân không bằng tay, đào tạo). Sau đó, 5 tỉnh đã phát triển các kỹ năng tốt hơn về xây
dựng kế hoạch chiến lược và vận động và đã xây dựng kế hoạch chiến lược về CSSKSS của tỉnh. Các bản kế hoạch này bao gồm
cả những nhu cầu cụ thể về nguồn lực, được xây dựng dựa trên các bài học kinh nghiệm và các thành tựu của DASKSS. Hai
trong số các bản kế hoạch này đã được phê duyệt vào năm 2007 và các bản kế hoạch còn lại đang được các Ủy ban Nhân dân
tỉnh xem xét để phê duyệt.
10

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam


Parthfinder Overview Viet 2.indd 10

7/19/08 10:20:22 AM


CHIẾN LƯỢC 2: Hỗ trợ Bộ Y tế và các tỉnh trong việc thể chế hoá và nhân rộng các mô
hình chủ yếu của dự án.
GSLG. Trong những năm đầu, DASKSS đã đào tạo các cán bộ chủ chốt của tuyến tỉnh về các
kỹ thuật GSLG, đào tạo, phản hồi và cầm tay chỉ việc... Vào năm 2000, Đánh giá chiến lược
cho thấy DASKSS đã nâng cao “đáng kể” năng lực của các nhân viên tuyến tỉnh để quản lý và
giám sát các nhân viên tuyến huyện và tuyến xã. Vào năm 2004, GSLG đã được đưa vào áp
dụng thành công ở 8 Trung tâm CSSKSS của 8 tỉnh và 3 − 4 huyện ở mỗi tỉnh.
Để thể chế hoá và phổ biến rộng hơn hệ thống này, dự án đã:







Có được sự phê duyệt của Bộ Y tế đối với giáo trình đào tạo GSLG, coi đây là phương
pháp giám sát được công nhận ở cấp quốc gia và đã được phổ biến ra 64 tỉnh thành.
Đào tạo 11 giảng viên cấp quốc gia để cung cấp đào tạo GSLG cho các tỉnh nằm ngoài
dự án.
Đào tạo 48 giảng viên tuyến tỉnh để tiến hành đào tạo về GSLG ở tỉnh của họ và cho các
tỉnh lân cận thông qua mạng lưới đào tạo.
Tổ chức những hội thảo định hướng cho các nhà quản lý và các cán bộ cung cấp dịch vụ
ở tuyến tỉnh và tuyến huyện.
Chỉnh sửa các công cụ GSLG để phản ánh các tiêu chuẩn chất lượng về làm mẹ an toàn
và dịch vụ thân thiện với thanh thiếu niên.

Hỗ trợ các Trung tâm CSSKSS tỉnh để vận động kinh phí cho việc đào tạo và giám sát
sau đào tạo về GSLG.

Cán bộ Trung tâm CSSKSS
thành phố Hồ Chí Minh.

Sau năm 2006, các nhà chức trách y tế tuyến tỉnh đã tiến hành các bước để nhân rộng
phương pháp GSLG ở tỉnh của họ. Năm tỉnh đã sử dụng ngân sách địa phương để mở rộng
việc đào tạo và thực hiện GSLG ở các huyện khác của tỉnh. Hai Sở Y tế đã ban hành quyết
định quy định GSLG là phương pháp chính thức được sử dụng để giám sát các dịch vụ
CSSKSS ở trong tỉnh. Ngoài ra, có một tỉnh còn sử dụng giảng viên của DASKSS để cung cấp
đào tạo GSLG cho các lĩnh vực khác của hệ thống y tế.

Đào tạo lại. Hiện nay, Việt Nam đã có các giáo trình đào tạo chất lượng cao, các cơ sở đào

tạo được nâng cấp, và đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và kỹ năng tốt, nhưng chưa có một
hệ thống nào để đảm bảo việc đào tạo lại một cách liên tục. Hai bệnh viện phụ sản đầu ngành
là Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Từ Dũ ở thành phố Hồ Chí Minh luôn ở
trong tình trạng quá tải, không có đủ cơ sở hoặc giảng viên có chất lượng để tiến hành đào
tạo cho tất cả các nhân viên của 64 tỉnh thành. Nguồn lực hiện tại của những bệnh viện này
cũng không cho phép tiến hành ngay các công việc như đánh giá nhu cầu đào tạo, tiến hành
việc giám sát sau đào tạo, hay giám sát các thực hành đã được cải thiện. Văn bản pháp luật
sắp ban hành có thể sẽ yêu cầu việc cấp phép hành nghề hoặc tái cấp phép hành nghề cho
các nhân viên y tế và điều này có thể sẽ tạo ra nhu cầu lớn hơn về đào tạo. Các tỉnh không
phải lúc nào cũng có thể đào tạo thay cho các cơ sở đào tạo quốc gia được: một số Trung tâm
CSSKSS có năng lực đào tạo rất tốt nhưng không có cơ chế cho phép các tỉnh lân cận tận
dụng được nguồn lực này
DASKSS đang hỗ trợ việc thí điểm mạng lưới quốc gia về đào tạo lại, một mạng lưới có thể
gắn các thành công của dự án trong lĩnh vực đào tạo với một cơ chế được thiết lập và công
nhận trong Bộ Y tế. Mạng lưới này hiện đang được thí điểm, gồm các đơn vị ở cả ba tuyến,

mỗi đơn vị có các vai trò và nhiệm vụ riêng như sau:




Bộ Y tế: Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn, giám sát, khuyến khích, đưa ra các chính
sách và cung cấp các hỗ trợ khác;
Hai bệnh viện phụ sản đầu ngành (Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Từ Dũ
thành phố Hồ Chí Minh). Các cơ sở này cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và giám sát các cơ sở
đào tạo tuyến tỉnh, và cấp chứng chỉ đào tạo;
Các Trung tâm CSSKSS tỉnh: Các Trung tâm CSSKSS tiến hành đào tạo về SKSS cho
các cán bộ y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến xã. Trong giai đoạn thí điểm, với sự hỗ
trợ của DASKSS, ba Trung tâm CSSKSS đang cung cấp các khoá đào tạo này, mỗi Trung
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 11

11

7/19/08 10:20:28 AM


tâm đào tạo cho một tỉnh lân cận. Các giảng viên có thể tiến hành đào tạo 21 nội dung
về SKSS, sử dụng đa dạng nhiều giáo trình đào tạo đã được thử nghiệm tại Việt Nam.
Vì việc đào tạo diễn ra ở một tỉnh lân cận (thay vì ở tuyến trung ương) nên đỡ tốn kém
hơn và các học viên có thể thực hành với những khách hàng có cùng phông văn hoá và
có các vấn đề sức khoẻ tương tự như những người họ sẽ phục vụ sau này.
Mạng lưới đào tạo tuyến tỉnh cung cấp các khoá đào tạo cho các tỉnh lân cận với chi phí xấp
xỉ bằng 1/3 chi phí các khoá đào tạo do DASKSS trực tiếp tiến hành. Tính đến nay, hơn 300
cán bộ cung cấp dịch vụ đã được đào tạo thông qua mạng lưới này.


Trình diễn đặt dịch vụ tử cung
trên mô hình, tại buổi ra mắt
Mạng lưới Đào tạo lại về sức
khỏe sinh sản.

Trong khi hỗ trợ mạng lưới thí điểm, DASKSS hỗ trợ Bộ Y tế xây dựng khung chính sách cho
công tác đào tạo lại, bao gồm việc soạn thảo một cơ chế để công nhận các giảng viên nguồn
có chất lượng; các hướng dẫn về thù lao và quản lý nhân lực; và việc chứng nhận các cơ sở
đào tạo. Dự án cũng tăng cường việc đào tạo giảng viên, công tác quản lý đào tạo và năng
lực giám sát của các cơ sở đào tạo quốc gia. Ở cấp độ chính sách quốc gia, dự án cũng hỗ trợ
việc xây dựng khung pháp lý cho công tác đào tạo y khoa liên tục và hy vọng khung pháp lý
này sẽ được đưa vào một dự luật mới ban hành năm 2009.

Các tiêu chuẩn chất lượng. Với sự hỗ trợ của DASKSS, nhóm công tác do Bộ Y tế chỉ

đạo đã xây dựng được các tiêu chuẩn chất lượng. Các giảng viên trong mạng lưới cần phải
tham gia vào một khoá chứng nhận giảng viên do khoa Giáo dục Y học trường Đại học Y Hà
Nội, cơ sở có trách nhiệm chứng nhận kỹ năng thiết kế và tiến hành đào tạo còn các bệnh
viện trong mạng lưới có trách nhiệm chứng nhận kỹ năng lâm sàng. Tính đến nay, có 28
giảng viên đã nhận được cả hai loại chứng chỉ này. Mạng lưới cũng xác định các yêu cầu kỹ
thuật cho các cơ sở đào tạo bao gồm nơi đào tạo, các thiết bị, và các quy tắc trong quan hệ
với khách hàng. Cuối cùng, mạng lưới đã xác định các tiêu chuẩn sư phạm cho việc đào tạo,
gồm có việc sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực, giám sát sau đào tạo và sự cân đối phù
hợp giữa các phần đào tạo lý thuyết theo giáo trình và đào tạo dựa theo năng lực.
CHIẾN LƯỢC 3: Làm việc với các tỉnh để cải thiện việc sử dụng công cụ vận động và xây
dựng kế hoạch chiến lược.
Khi xây dựng kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm, các Trung tâm CSSKSS có thể hướng
các ưu tiên và phân bổ nguồn lực của chính phủ để đảm bảo duy trì bền vững các kết quả can
thiệp của DASKSS. Tuy nhiên, để làm được điều này, họ cần phải có các kỹ năng vận động

và xây dựng kế hoạch chiến lược tốt hơn.

Xây dựng kế hoạch chiến lược. Việc xây dựng kế hoạch ở Việt Nam thường được thực
hiện một cách đơn giản bằng cách điều chỉnh kế hoạch của những năm trước. DASKSS đã đề
nghị cả lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của các Trung tâm CSSKSS và các cán bộ Sở Y tế của
5 tỉnh chưa xây dựng kế hoạch 5 năm thực hiện một phương pháp tiếp cận mang tính chiến
lược hơn. Đầu tiên, dự án giúp các tỉnh tiến hành đánh giá nhu cầu, thu thập thông tin, và
tiến hành các cuộc họp lập kế hoạch với các đối tác. Sau đó, dự án đã tổ chức hội thảo định
hướng cho các cán bộ y tế chủ chốt của Trung tâm CSSKSS và Sở Y tế của cả 5 tỉnh, tiếp theo
là các cuộc họp riêng cho từng tỉnh với nội dung tương tự. Dự án đã giúp các tỉnh xem xét
quá trình thu thập số liệu tại các cơ sở thực địa; tổ chức hội thảo để giúp các tỉnh phân tích
các số liệu thu thập được; và hỗ trợ các tỉnh xây dựng kế hoạch 5 năm về CSSKSS của tỉnh.
Các cán bộ của DASKSS cũng cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để đảm bảo các kế hoạch này phù
hợp với chiến lược quốc gia, giải quyết các nhu cầu mới nảy sinh về SKSS, đóng góp vào việc
duy trì bền vững và được gắn với các nỗ lực vận động. Các đối tác tuyến tỉnh đã tham vấn
ý kiến lãnh đạo và chuyên viên các ban ngành liên quan của tỉnh ở tất cả các bước của quá
trình xây dựng kế hoạch, tạo dựng được sự ủng hộ tích cực đối với bản kế hoạch. Điều quan
trọng là ở một số tỉnh, các thành tựu chủ yếu của DASKSS đã được lồng ghép vào kế hoạch
5 năm của tỉnh bao gồm cả phần ngân sách.
Vận động. Nếu các can thiệp và các cách tiếp cận của dự án cần được duy trì và trong một

số trường hợp phổ biến xuống tuyến huyện và tuyến xã, thì lãnh đạo các Trung tâm CSSKSS
(thường là các bác sĩ) cần phải chuẩn bị để thực hiện việc vận động các ban ngành liên quan

12

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 12


7/19/08 10:20:32 AM


của tỉnh. Một đánh giá độc lập tiến hành năm 2003 đã cho thấy mặc dù lãnh đạo các Trung tâm
CSSKSS nhận được sụ ủng hộ chính trị mạnh mẽ của chính quyền địa phương, việc thiếu các
kỹ năng về lập kế hoạch, xây dựng ngân sách, và viết đề xuất dự án có thể sẽ là rào cản đối với
việc duy trì bền vững. Để cải thiện việc vận động, DASKSS đã tiến hành các hoạt động sau:




Đào tạo cán bộ về vận động. Dự án đã tổ chức đào tạo cho 40 cán bộ chủ chốt của cả Sở
Y tế và Trung tâm CSSKSS về xây dựng kế hoạch chiến lược, cách viết các đề xuất và kỹ
thuật vận động. Các học viên đã nhận thức được rằng lãnh đạo ngành y tế muốn là các đề
xuất phải có sự phân tích số liệu sâu hơn, giải trình ngân sách hợp lý hơn, các chỉ tiêu gắn
với các chiến lược của tỉnh, trích dẫn được các quy chế phù hợp và được trình bày tốt hơn.
Các học viên đã học được cách làm thế nào để hợp tác với các cơ quan thông tin đại chúng
– nuôi dưỡng mối quan hệ, quản lý việc họp báo, và quảng bá các thông điệp. Họ cũng học
được cách xác định các vấn đề cần vận động và xây dựng kế hoạch vận động.
Hỗ trợ các Trung tâm chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch vận động. Các kế hoạch vận
động vạch rõ các vấn đề cần vận động, mục tiêu vận động, đối tượng vận động sơ cấp và
thứ cấp, các thông điệp vận động (được hỗ trợ bởi các số liệu), các hoạt động cụ thể, các
nguồn lực cần thiết, những người chịu trách nhiệm, và khung thời gian. Ở Việt Nam,
các nhà lãnh đạo cấp cao − đối tượng của vận động − thường tham gia vào quá trình
vận động từ những giai đoạn đầu. Điều này cho phép tất cả mọi người tham gia sớm đạt
được sự đồng thuận hoặc giải quyết những ý kiến bất đồng trước khi thông báo công
khai các mục tiêu vận động. Về các nỗ lực vận động đầu tiên, phần lớn các nhà quản lý
của các Trung tâm CSSKSS đều hỗ trợ việc duy trì thực hành GSLG. Ví dụ ở một tỉnh,
lãnh đạo Trung tâm đề nghị Sở Y tế yêu cầu tất cả các huyện đưa GSLG vào kế hoạch của
các huyện. Một tỉnh khác thì vận động để GSLG trở thành hoạt động thường quy ở tất

cả các cơ sở CSSKSS ở một thành phố.

CHIẾN LƯỢC 4: Hỗ trợ các tỉnh tiếp thị dịch vụ tới khách hàng.
Ở Việt Nam, không phải lúc nào chất lượng dịch vụ được cải thiện cũng luôn dẫn đến sự gia
tăng trong việc sử dụng dịch vụ. Để tạo ra nhu cầu bổ sung, DASKSS đã thực hiện sáng kiến
tiếp thị xã hội (TTXH) thí điểm. TTXH được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam và đã được sử
dụng để khuyến khích việc mua bao cao su và các dung dịch bù nước và điện giải đường uống.
Tuy nhiên, với nỗ lực thí điểm của DASKSS, lần đầu tiên TTXH được sử dụng để thu hút
khách hàng đến các cơ sở CSSKSS. Căn cứ vào các phát hiện từ việc phỏng vấn 3.500 thanh
thiếu niên và phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi sinh sản, dự án đã áp dụng các nguyên tắc
và các hoạt động TTXH cho 11 cơ sở CSSKSS ở 5 tỉnh trong giai đoạn 2004 – 2006. Để có
thể rút ra dược nhiều bài học nhất, các dịch vụ được quảng bá (và tương ứng là các nhóm đối
tượng đích) và các cơ sở tham gia thí điểm cũng được lựa chọn một cách đa dạng.

Lễ phát động Tiếp thị xã hội
dịch vụ TTTTN, thành phố
Hồ Chí Minh, 2006.

“Tiếp thị xã hội là rất cần thiết.
Tiếp thị xã hội không chỉ có ích
đối với cơ sở trong việc tăng
lượng khách hàng mà còn giúp
tăng cường thông tin cho nhân
dân về các dịch vụ CSSKSS. Chúng
tôi cho rằng đây là công việc của
cơ sở, của địa phương và cần chủ
động phát huy nguồn lực sẵn có
cho công tác này...”
– Bs. Nguyễn Tiến Thắng, Giám đốc
Trung tâm CSSKSS tỉnh Vĩnh Phúc.


Sử dụng các kết quả nghiên cứu, từng cơ sở đã chuẩn bị kế hoạch tiếp thị xã hội để quảng bá
dịch vụ qua các tài liệu in ấn, các kịch bản phát thanh và phóng sự truyền hình, các buổi nói
chuyện cộng đồng và trang web dành cho vị thành niên và thanh niên. Một đánh giá về mô
hình thí điểm đã xem xét sự hiểu biết của nhóm đối tượng đích về các dịch vụ và các tài liệu
quảng bá, cũng như sự gia tăng lượng khách hàng, sự hài lòng của khách hàng và tỷ lệ khách
hàng mới do kết quả của những nỗ lực TTXH. Trong giai đoạn thí điểm, tỷ lệ phụ nữ đã lập
gia đình sử dụng dịch vụ của các cơ sở thí điểm tăng trong khoảng từ 13% đến hơn 100% tuỳ
theo từng cơ sở, với số khách hàng mới do kết quả của các hoạt động TTXH chiếm tỷ lệ từ
47% đến 83%. Việc sử dụng dịch vụ của thanh thiếu niên cũng tăng với tỷ lệ tương tự (tuy
vậy, số liệu ban đầu ở cơ sở có số lượt khách hàng tăng gấp đôi rất nhỏ). Tỷ lệ khách hàng
mới là thanh thiếu niên cho biết các hoạt động và tài liệu TTXH chính là lý do thu hút họ sử
dụng dịch vụ tại các cơ sở thí điểm. Việc sử dụng dịch vụ của các nhóm đối tượng này tiếp
tục tăng lên sau khi kết thúc giai đoạn thí điểm, điều này đã thúc đẩy DASKSS tiếp tục và mở
rộng sáng kiến TTXH đối với các cơ sở mới thực hiện DVTTTTN vào năm 2008.
Để hỗ trợ việc nhân rộng, DASKSS phối hợp với Bộ Y tế đã tổ chức hội thảo phổ biến kết
quả thực hiện thí điểm, sau đó 5 tỉnh tham gia thí điểm đã tổ chức các hội thảo phổ biến
của tỉnh. Một hội thảo phổ biến quốc gia đã được Bộ Y tế tổ chức vào tháng 1/2007, kết hợp
với cuộc họp giao ban hàng năm của hệ thống SKSS.
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 13

13

7/19/08 10:20:36 AM


Đào tạo giảng viên về dịch vụ thân thiện thanh thiếu niên, Hà Nội, 2007.


CÁC KẾT QUẢ DUY TRÌ BỀN VỮNG
Việc phối hợp các can thiệp về vận động, phát triển năng lực, phát triển hệ thống và các can thiệp khác đã làm tăng đáng kể khả
năng của các đối tác trong việc duy trì bền vững các cải thiện về chất lượng của dự án.
KẾT QUẢ 1: Bộ Y tế đang tiến hành các bước cơ bản để duy trì bền vững các cách tiếp cận của dự án và làm cho các cách
tiếp cận này có sẵn trên phạm vi toàn quốc.
Nhờ các nỗ lực vận động và các hỗ trợ kỹ thuật của DASKSS, Bộ Y tế đã:














Xây dựng Tài liệu đào tạo SKSS quốc gia, sử dụng giáo trình đào tạo toàn diện của DASKSS làm tài liệu tham khảo chính
thức;
Phê duyệt tài liệu đào tạo về GSLG để phổ biến toàn quốc thông qua hội thảo phổ biến cho 64 tỉnh thành. Bộ Y tế cũng đã
kết hợp với DASKSS đào tạo 11 giảng viên GSLG cấp quốc gia, những người sẽ thực hiện vai trò là nhóm giảng viên quốc
gia về GSLG để nhân rộng phương pháp giám sát này ra các tỉnh khác trên toàn quốc, cũng như tham gia vào các hội thảo
chia sẻ kinh nghiệm về GSLG;
Tiến hành giám sát và tham gia vào các chuyến GSLG định kỳ tới các tỉnh dự án để đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ
CSSKSS tuân thủ Hướng dẫn chuẩn quốc gia;
Phê duyệt Hướng dẫn chuẩn quốc gia về CSSKSS năm 2001. Hiện tại, Bộ Y tế đang cập nhật tài liệu này với sự hỗ trợ kỹ
thuật và tài chính của DASKSS;

Phê duyệt phương pháp phá thai bằng thuốc (năm 2003);
Phê duyệt Hướng dẫn cung cấp dịch vụ sức khoẻ thân thiện với vị thành niên và thanh niên;
Phổ biến các kinh nghiệm TTXH của DASKSS ra 64 tỉnh thành;
Phổ biến DVTTTTN và TTXH cho các vụ cục của Bộ Y tế và các tổ chức làm việc về lĩnh vực SKSS ở Việt Nam;
Xây dựng các tiêu chí để chuẩn hoá và chứng nhận việc đào tạo lại về SKSS;
Tổ chức hội thảo giới thiệu Mạng lưới thí điểm Đào tạo lại về SKSS;
Soạn thảo kế hoạch phê duyệt hệ thống lưu trữ hồ sơ khách hàng được xây dựng ở An Giang với sự hỗ trợ của DASKSS;
Đồng ý phê duyệt và phổ biến tài liệu đào tạo giảng viên cơ bản và nâng cao của DASKSS.

KẾT QUẢ 2: Các hệ thống chủ yếu để đảm bảo chất lượng đang được duy trì, thể chế hoá và nhân rộng.
Bộ Y tế và các đối tác tuyến tỉnh thể hiện sự cam kết cao đối với việc duy trì bền vững hai hệ thống chủ yếu để cải thiện và đảm
bảo chất lượng, đó là mạng lưới đào tạo lại và GSLG.
14

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 14

7/19/08 10:20:41 AM


Đào tạo lại. Từ khi bắt đầu thí điểm mạng lưới đào tạo lại về SKSS đến nay, các Trung

tâm CSSKSS đã đào tạo được hơn 300 cán bộ y tế cho các tỉnh lân cận, đồng thời vẫn tiếp
tục đào tạo cho các cán bộ của tỉnh họ. Đánh giá mô hình thí điểm do Viện Chiến lược và
chính sách y tế (trực thuộc Bộ Y tế) tiến hành đã kết luận mạng lưới đào tạo lại về SKSS
thí điểm là hữu ích và có tính khả thi. Báo cáo đánh giá cũng cho thấy các đối tác đều cho
rằng việc đào tạo do mạng lưới này tiến hành có chất lượng cao và kết luận rằng cách tiếp
cận phân cấp, trong đó các Trung tâm CSSKSS tỉnh cung cấp đào tạo lại cho các tỉnh lân
cận của mạng lưới là phù hợp. Rào cản lớn nhất là thiếu ngân sách nhà nước cho công tác

đào tạo, tuy nhiên có thể dự đoán là trong tương lai chính phủ và các nhà tài trợ sẽ dành
ngân sách cho mạng lưới đào tạo, nhất là khi việc cấp phép và tái cấp phép hành nghề trở
thành bắt buộc. Trước mắt, những người lãnh đạo mạng lưới hy vọng họ có thể thu hút
được các yêu cầu từ các Sở Y tế, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ để cung cấp
đào tạo cho những tỉnh khác. Một cuộc đánh giá dự tính tiến hành vào năm 2008 sẽ xem
xét việc mạng lưới này cần vận hành như thế nào trong tương lai. Nếu các phát hiện là
khả quan, Bộ Y tế bày tỏ mối quan tâm có thể nhân rộng mạng lưới này để hỗ trợ chương
trình mục tiêu quốc gia, điều này dự đoán sẽ có các hoạt động đào tạo với quy mô rộng từ
năm 2008. Các trung tâm được DASKSS hỗ trợ ở 5 tỉnh còn lại Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Sóc Trăng, An Giang và Quảng Ninh cho thấy họ đã sẵn sàng và mong muốn gia
nhập mạng lưới với tư cách là các cơ sở đào tạo.

Giám sát lồng ghép. Khoảng 240 giám sát viên tuyến tỉnh và tuyến huyện của các tỉnh
do dự án hỗ trợ đã được đào tạo về GSLG, và Bộ Y tế đã chính thức phê duyệt và phổ
biến giáo trình đào tạo GSLG. Các tỉnh dự án cũng đã sử dụng ngân sách địa phương để
giới thiệu phương pháp GSLG cho các huyện không được dự án hỗ trợ. Nhờ các nỗ lực
vận động do các tỉnh tiến hành để giành được sự ủng hộ về nguồn lực và các chính sách
hỗ trợ, phương pháp này đã được thể chế hoá ở 5 tỉnh và được lồng ghép thành công vào
các chuyến giám sát thường quy. GSLG đã được điều chỉnh cho phù hợp với các dịch vụ
thân thiện thanh thiếu niên và làm mẹ an toàn, và sẽ được áp dụng cho 7 tỉnh thực hiện
DVTTTTN và 8 huyện của 3 tỉnh thực hiện các can thiệp về làm mẹ an toàn. Một vài tổ
chức quốc tế làm việc ở Việt Nam đã áp dụng phương pháp GSLG ở các dự án tuyến tỉnh
của họ.
KẾT QUẢ 3: Các tỉnh ngày càng có trách nhiệm đối với việc duy trì bền vững các can
thiệp của dự án.
Hiện tại, các Sở Y tế có sự gắn kết tốt hơn với DASKSS. Nhận thức rõ hơn các thành quả và
cống hiến của dự án, giờ đây họ hỗ trợ việc sử dụng ngân sách của tỉnh để phổ biến các tiến
bộ này xuống tuyến huyện và tuyến xã. Mối quan hệ đối tác mới này cũng đã tạo điều kiến
thuận lợi cho các hỗ trợ quan trọng về chính sách và quy chế. Ví dụ:







Các đối tác tuyến tỉnh đóng góp từ 19% đến 65% ngân sách đối ứng trong tổng ngân
sách của dự án. DASKSS đã chấm dứt các hoạt động cải tạo, nâng cấp cơ sở và không còn
cung cấp trang thiết bị và vật tư nữa; các tỉnh đã đảm nhận toàn bộ chi phí cho các hoạt
động này. Tất cả các tỉnh cũng đã sử dụng ngân sách địa phương để tiến hành các khoá
đào tạo về SKSS và GSLG;
Năm tỉnh đã xây dựng và đệ trình kế hoạch 5 năm về SKSS của tỉnh với các ưu tiên để
duy trì các thành tựu về đào tạo lại, GSLG, DVTTTTN, nâng cấp cơ sở, và sử dụng biện
pháp tránh thai sau phá thai. Các tỉnh đã vận động để giành được sự ủng hộ đối với bản
kế hoạch này và đến thời điểm này, hai bản kế hoạch đã được phê duyệt. Đây là một
thành công quan trọng vì những bản kế hoạch này sẽ đóng vai trò chỉ đạo các hoạt động
SKSS trong những năm tới;
Cán bộ nhân viên của các cơ sở đang vận động các cấp cao hơn để tăng cường các nguồn
lực và cải thiện các chính sách. Một vài tỉnh đã ban hành các quy chế và các hướng dẫn
liên quan đến việc duy trì và mở rộng GSLG, mua bơm hút thai chân không bằng tay, các
thực hành lâm sàng chất lượng cao (ví dụ kỹ thuật phong bế cổ tử cung) và các cải thiện
khác về chất lượng chăm sóc.

Đào tạo lại về CSSKSS tại
Sóc Trăng.

“Khoá đào tạo tại Vĩnh Phúc rất
bổ ích và các giảng viên giảng
dạy rất lý thú. Họ còn mua cả mô
hình cho chúng tôi thực tập trên
lớp. Chúng tôi cũng có thể thực

tập trên khách hàng. Chỉ bằng
cách này chúng tôi mới có thể
nhớ được những kỹ năng mới và
áp dụng chúng khi về nhà. Đối
với các nhân viên tuyến huyện
như chúng tôi, chưa bao giờ
chúng tôi được dự một kháo đào
tạo nào có chất lượng như vậy.”
- Cán bộ cung cấp dịch vụ khoa sản,
Bệnh viện đa khoa huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên.

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 15

15

7/19/08 10:20:49 AM


KẾT LUẬN
Từ khi bắt đầu cho đến nay, DASKSS đã gặt hái được những thành quả đáng kể. Với tổng giá
trị đầu tư trung bình khoảng dưới 2 triệu đô-la mỗi năm, dự án đã nỗ lực để xây dựng và duy
trì những cải thiện về chất lượng thông qua công tác phát triển năng lực và bằng cách thúc
đẩy quan hệ đối tác và tính tự chủ đối với các thành tựu của dự án.

Tại khu đón tiếp bệnh nhân,
TT YT huyện Yên Hưng, tỉnh
Quảng Ninh.


“Khi mới bắt đầu dự án, chúng tôi
ở vị trí thụ động, nhưng bây giờ
chúng tôi đã chủ động hơn. Chúng
tôi hiện đang cố gắng tìm cách
để đạt được các mục tiêu, không
chỉ ngồi chờ để Pathfinder giúp.
Chúng tôi đang vận động cho các
hoạt động của dự án. Pathfinder
đã giúp chúng tôi nhận rõ trách
nhiệm và nắm lấy quyền làm chủ
đối với dự án.”

Dự án đã tạo nên văn hoá về chất lượng.
Cách tiếp cận cải thiện chất lượng mà DASKSS áp dụng không chỉ đơn thuần là việc đào tạo
được thực hiện nghiêm túc, mà còn đặc sắc ở chỗ các hoạt động dự án chính là cầu nối gắn
liền việc đào tạo với việc cung cấp dịch vụ. Các kinh nghiệm quốc tế khẳng định rằng không
phải lúc nào việc cải thiện năng lực cán bộ cung cấp dịch vụ cũng dẫn đến việc cải thiện các
thực hành của họ. Họ cần có đủ cơ sở vật chất và thiết bị, cần nhận được sự giám sát hỗ trợ
và một cái gì đó vô hình hơn: họ cần phải biết chất lượng là quan trọng – quan trọng đối
với cả các giám sát viên, khách hàng và các nhân viên. Mối quan tâm về chất lượng cần phải
có ở mọi lúc mọi nơi, phải là điểm tham chiếu chung mà tất cả các hoạt động cần tập trung
vào. Ngay từ những ngày đầu, DASKSS đã tạo ra tiếng nói chung bằng cách tổ chức các hội
thảo về chất lượng chăm sóc và xây dựng những chỉ số về chất lượng chăm sóc dùng để theo
dõi giám sát các cải thiện về chất lượng. Các nhân viên đã tiến hành những chuyến giám sát
hàng quý, sử dụng các bảng kiểm chất lượng chăm sóc để xem xét công tác tư vấn, khống
chế nhiễm khuẩn, các thủ thuật lâm sàng và các lĩnh vực khác. Hơn nữa, họ tham gia đối
thoại thường xuyên với các nhà quản lý, các cán bộ cung cấp dịch vụ, và các khách hàng về
chất lượng dịch vụ. Họ đã xây dựng cách tiếp cận mới hướng tới khách hàng, tổ chức lại và
mở rộng các dịch vụ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và đảm bảo rằng các khách

hàng tự ra quyết định về CSSKSS cho bản thân họ khi đã được cung cấp đầy đủ thông tin.
Qua các nỗ lực như vậy, một văn hoá về chất lượng đã được thiết lập. Các cán bộ cung cấp
dịch vụ mới được đào tạo không chỉ tư vấn cho khách hàng, mà theo Đánh giá chiến lược, họ
còn thực sự hiểu tại sao tư vấn lại có vai trò quan trọng. Các thành tích về khống chế nhiễm
khuẩn không chỉ rất ấn tượng mà còn là niềm tự hào đối với các cán bộ cung cấp dịch vụ làm
việc ở các cơ sở do DASKSS hỗ trợ.
Sự hỗ trợ có tầm nhìn của các nhà tài trợ đã cho phép các đối tác thể chế hoá những
cải thiện về chất lượng.
Các nhà tài trợ của dự án có tầm nhìn rất dài hạn, giúp cho DASKSS phát triển, đáp ứng được
các cơ hội và nhu cầu nảy sinh. Nhờ có tầm nhìn và sự linh hoạt, DASKSS đã thận trọng trọng
việc xây dựng mối quan hệ đối tác, các mô hình, các kỹ năng, các giá trị và sự cam kết cần thiết
để tạo ra những thay đổi. Những sáng kiến đổi mới không chỉ được giới thiệu mà còn được
khách hàng, cán bộ cung cấp dịch vụ, nhà quản lý và nhà hoạch định chinh sách đánh giá cao.
Những người này sau đó lại sẵn sàng vận động và dành nguồn lực cho việc duy trì, mở rộng và
nhân rộng các sáng kiến đổi mới. Kết quả sẽ là sự thay đổi mang tính bền vững và có tiềm năng
ảnh hưởng sâu rộng về cách thức cung cấp các dịch vụ CSSKSS ở Việt Nam.
Quan hệ đối tác tạo điều kiện thúc đẩy tính tự chủ và khả năng duy trì bền vững.
Việc DASKSS tồn tại trong một thời gian dài cho phép có được sự cam kết rất cao của các đối
tác. Các đối tác Việt Nam cho biết họ vừa đánh giá cao vừa cảm thấy bị thách thức bởi cách
giám sát thường xuyên, nghiêm ngặt mà dự án áp dụng. Đặc biệt, thời gian dài cho phép dự
án tạo dựng được sự tin tưởng và trân trọng lẫn nhau từ cả hai phía, điều này làm tăng hiệu
quả của các hỗ trợ kỹ thuật và dẫn đến những cải thiện tốt hơn về chất lượng. Như một đối
tác đã nhận xét: “Các dự án của những các nhà tài trợ khác chỉ chờ báo cáo từ chúng tôi mà
không tích cực đi thực địa. Các dự án đó thường chỉ có quy mô nhỏ và ngắn hạn, trong khi
các can thiệp của DASKSS với tổ chức Pathfinder sâu hơn và rộng hơn.”
Việc thảo luận thường xuyên với tất cả các đối tác khuyến khích cơ chế hợp tác, thúc đẩy các
đối tác cùng lập kế hoạch, cùng đánh giá và cùng tôn vinh các thành công. Một đối tác khác
đã phát biểu: “Khi mới bắt đầu dự án, chúng tôi ở vị trí thụ động, nhưng bây giờ chúng tôi
đã chủ động hơn. Chúng tôi hiện đang cố gắng tìm cách để đạt được các mục tiêu, không chỉ
ngồi chờ để Pathfinder giúp. Chúng tôi đang vận động cho các hoạt động của dự án. Pathfinder đã giúp chúng tôi nhận rõ trách nhiệm và nắm lấy quyền làm chủ đối với dự án.”


16

RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 16

7/19/08 10:20:54 AM


KẾ HOẠCH TIẾP THEO
Giai đoạn IV kéo dài đến năm 2010 được thiết kế để hỗ trợ việc tiếp tục thể chế hoá và củng cố mạng lưới đào tạo lại về SKSS.
Một mặt, việc xây dựng chính sách sẽ được tiếp tục với mục đích thông qua các tiêu chuẩn đào tạo CSSKSS có chất lượng. Mặt
khác, mạng lưới đào tạo sẽ mở rộng việc đào tạo CSSKSS có chất lượng, đặc biệt ở các tỉnh xa xôi hơn và có điều kiện kinh tế khó
khăn, thông qua các cơ sở đào tạo mới ở tuyến tỉnh. Mạng lưới sẽ được quảng bá và tăng cường để trở nên hoàn toàn độc lập tại
thời điểm dự án dự kiến kết thúc vào năm 2010. Dự kiến có thêm hơn 600 cán bộ cung cấp dịch vụ được hưởng lợi từ các khoá
đào tạo lâm sàng chất lượng cao do mạng lưới này cung cấp.

Tài liệu tham khảo

Tổng cục Thống kê 1995, Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ của Việt Nam 1994: Các phát hiện chính. Hà Nội, Nhà in
Tổng cục Thống kê, 1995.
Goodkind D 1994, Phá thai ở Việt Nam: Các số liệu lượng giá, các vấn đề khó giải quyết và các mối quan tâm, Tạp chí
Các nghiên cứu về KHHGĐ, 1994, 25(6):342–352
Kane, Thomas T. và cộng sự 2000. Đánh giá chiến lược Chương trình Sức khoẻ sinh sản ở Việt Nam.
Hội đồng Dân số 2007, Đánh giá việc thực hiện thí điểm Dịch vụ thân thiện với thanh thiếu niên ở Việt Nam. Báo cáo
đánh giá.
Dự án Sức khoẻ sinh sản 2002, Đánh giá Giám sát lồng ghép vì chất lượng chăm sóc.
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc/Quỹ dân số Liên hiệp quốc/Tổ chức y tế thế giới/Ngân hàng thế giới 1999,
Phá thai ở Việt Nam: Đánh giá về các vấn đề chính sách, chương trình và nghiên cứu.

Tổ chức Y tế thế giới 1995, Đánh giá về nhu cầu giới thiệu các biện pháp tránh thai ở Việt Nam, trang web http://
www.who.int/reproductive-health/publications/HRP_ITT_95_3/HRP_ITT_95_3_contents.en.html, truy cập ngày
10/30/07.
RHPs | DASKSS/Tổng quan về Dự án Sức khỏe sinh sản tại Việt Nam

Parthfinder Overview Viet 2.indd 17

17

7/19/08 10:20:58 AM


Improving Women’s Health Worldwide

Parthfinder Overview Viet 2.indd 18

7/19/08 10:20:59 AM



×