Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Ebook Phát hiện và điều trị bệnh loãng xương: Phần 1 - NXB Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.32 MB, 182 trang )

Y HỌC THƯỜNG THỨC

PHÁT H EN
VÀĐIÉUTRỊ

E]

NHÀXUẤT BẢNHÀNỘI


PHÁT HIỆN VÀ ĐIỂU TRỊ
BỆNH LOÃNG XƯƠNG



TRÍ UIỆT » HR s o n

PhÁT hÌÊN
• VÀ đÌỀU TRÌ•

BệnH LorínG XUDHG

nl

NH^ XURT BftN

NỘI

HANOIPUBLISHINGHOUSE

/



/


LỜI NÓI ĐẦU
Theo kh ảo sát của Viện Dinh dưỡng nước ta, cứ 6
người Việt Nani trên 60 tuôi thì có 1 người có nguy cơ mắc
bệnh loãng xương, trong đó phụ nữ có nguy cơ m ắc bệnh
cao hơn nam giới (khoảng 1 / 3). L oãn g xương là bệnh lý
của toàn bộ hệ thông xương, làm suy yếu sức m ạnh của
khung xương, ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của
nhiều người, đặc biệt là phụ nữ. Mức độ nguy hiểm của
biến chứng gãy xương do bệnh loãng xương gây ra được
xếp tương đương với tai biến m ạch vành (nhồi m áu cơ tim)
trong bệnh thiếu m áu cơ tim cục bộ và tai biến m ạch máu
não (đột quỵ) trong bệnh cao huyết áp.
Sự chắc khỏe của xương là sự toàn vẹn cả về khối lượng
và chất lượng của xương. Khối lượng xương được th ể hiện
bằng m ật độ khoán g chất của xương, còn chất lượng xương
phụ thuộc vào th ể tích và vi cấu trúc của xương. K hi quá
trình chuyển hóa trong xương bị rối loạn, quá trinh hủy
xương tăng trong khi quá trinh tạo xương giảm sẽ làm
p h át sinh bệnh loãng xương. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu
của bệnh loãng xương là đau cột sông, đau dọc các xương
dài, đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, thường xuyên bị chuột rút,
gù lưng, g iảm chiều cao... Tuy nhiên, loãng xương là bệnh





T.. "
V

“V

không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng. Khi có các dấu
hiệu lâm sàng của bệnh loãng xương thường là lúc đ ã có
biến chứng, cơ th ể đ ã bị mất khoảng 30% lượng xương.
Bệnh loãng xương và các biến chứng nặng của nó như
gãy cổ, gãy xương chậu, xương cột sống... là một gán h nặng
đối với bệnh nhân cũng như y t ế cộng đồng. Chi p h í điều
trị bệnh loãng xương tương đối lớn (các thuốc chống hủy
xương đều rất đắt tiền), vượt qua kh ả năng tài chính của
phần lớn bệnh nhản. Tuy nhiên việc phòng bệnh loãng
xương lại kinh t ế hơn và đơn giản hơn rất nhiều. Hãy
phòng ngừa bệnh loãng xương bằng việc "đầu tư cho xương
của bạn" và "đầu tư cho xương của con bạn" càng sớm
càng tối. Hãy tim hiểu những kiến thức về bệnh loãng
xương đ ể có c h ế độ chăm sóc xương phù hỢp đ ạt hiệu quả
cao nhất. Cuốn sách Phát hiện và điều trị bệnh loãng
xương m à bạn đọc đang cầm trên tay là những kiến thức
phòng ngừa và điều trị bệnh loãng xương, cần thiết dàn h
cho bạn.
Cuốn sách được trinh bày dưới dạng những câu hỏi,
những thắc m ắc về toàn bộ các vấn đ ề xung quanh bệnh
loãng xương, giúp bạn đọc hiểu rõ h(M, toàn diện hơn về
căn bệnh đê việc phòng tránh và chữa trị đạt được hiệu
quả cao nhất.
Hy vọng bạn sẽ tim thấy trong cuốn sách những điều
b ổ ích!


NHÀ XUẤT BẨN HÀ NỘI


NHŨNG KIÊN
THỨC Cơ BẢN
VỀ XƯƠNG

J IĨ


a j - ____ .___________________________________
1. Đặc điểm câu tạo cơ bản của xương

- Thành phần hóa học chủ yếu của xương gồm có:
+ Thành phần cơ bản đầu tiên là các vật chất hữu cơ:
Chủ yếu bao gồm protein, sỢi collagen, protein loại cấu
trúc, dung môi, chondroitin sunfat (thuộc nhóm
proteoplycan... Chất hữu cơ trong xương có tác dụng
chủ yếu là thúc đẩy xương sinh trưỏng, tái tạo lại chất
tổ chức xương, cung cấp những chất dinh dưỡng cần
thiết cho xương phát triển, hỗ trỢ hoạt động của tế bào
xương, đồng thòi tham gia vào các quá trình trao đổi
chất của xương...
+ Thành phần cơ bản thứ 2 trong xương bao gồm
chất muối vô cơ: Chủ yếu là các ion canxi, phôt-pho,
natri, magiê, sắt, flo... trong đó hàm lượng ion canxi là
cao nhất, tiếp theo là phốt-pho. Canxi trong cơ thể
thường tồn tại ở hình thức calcium phosphate và canxi
nitrat, là thành phần chủ yếu của xương. Thành phần

các chất vô cơ trong xương có phương thức liên kết sắp
xếp thành hàng, tổ chức thành các sỢi xương, tạo cho
xương vừa có độ cứng và vừa có độ dẻo nhất định.
+ Thành phần cơ bản thứ 3 trong xương là nước:
Nước là chất trung gian của quá trình trao đổi, sinh
trưởng, phát triển của tổ chức xương, tồn tại trong
hầu hết mọi bộ phận của xương. Có đến 85 - 90% nước
tồn tại ở các chất hữu cơ và chất vô cơ trong xương,
phần nước còn lại nằm ở các khoang trông trong tổ
chức xương.

H ĩ


Xét từ góc độ tổ chức trong cơ thể con người, thành
phần chủ yếu của xương là chất xương, trong đó nước
chiếm 20%, vật chất cô định chiếm 80%. Chất cô định
của xương chủ yếu bao gồm tê bào xương và các chất cơ
bản của xương, là nơi tích trữ một lượng lớn muối canxi
tạo thành kết cấu vững chắc của xương.
- Trong các chất cơ bản của xương chủ yếu bao gồm
chất hữu cơ (chiếm 32%) và chất vô cơ (chiếm 65%).
+ Chất hữu cơ: Bao gồm sỢi coUagen và
mucopolysaccharide. Sợi coUagen do tế bào tạo xương sản
sinh, là thành phần chủ yếu chất hữu cơ của xương, chiếm
khoảng 32% toàn bộ chất cơ bản của xương. Sợi coUagen
cũng là nơi canxi hóa chủ yếu; mucopolysaccharide (thành
phần cấu tạo các mô đệm) cũng do tế bào tạo xương sản sinh
ra, là thành phần thứ yếu của chất hữu cơ trong xương.
+ Chất vô cơ: Chất vô cơ trong chất cơ bản của xương

còn gọi là muối vô cơ, bao gồm hơn 20 loại, chiếm 4 - 5%
thể trọng của xương. Muối vô cơ trong chất cơ bản của
xương chủ yếu là acid photphoric và muối phốtphát
chiếm khoảng 84% chất vô cơ của xương. Ngoài ra còn
có muôi canxi, muối cloxit... Muôi trong xương chiếm 60
- 70% trọng lượng của xương, và 99%, phốt-pho chiếm
90% toàn cơ thể.
+ Các chất khác: Chủ yếu bao gồm acid nitric, canxi,
magiê, acid photphoric, muôi natri... Ngoài ra còn có
nhiều loại dung môi khác.
Chất hữu cơ trong xương có tác dụng làm cho xương
kết chặt lại nhưng vẫn có tính dẻo nhất định. Chất vô cơ


/"

í ^^ Ỉỉ
íề ể .

trong xương giúp xương có độ cứng. Hai hỢp chất này
kết hỢp với nhau một cách hài hòa, gắn kết không thể
tách ròi. Chúng ta có thể tuỳ ý uốn cong phần xương
đã bỏ đi chất vô cơ, nhưng không thể làm tương tự nếu
thiếu chất hữu cơ vì khi xương thiếu chất hữu cơ sẽ trở
nên giòn. Trong cấu tạo xương của trẻ nhỏ, thành phần
chất hữu cơ tương đôi nhiều, tính mềm dẻo cao; ở người
già xương lại ít chất hữu cơ, chất vô cơ tương đối nhiều,
tính giòn cao.
- Cấu tạo của xương gồm có 3 loại tê bào cơ bản:
+ Tê bào tạo xương: Tê bào tạo xương là nơi hình

thành của xương, là tê bào quan trọng trong quá trình
phát dục và sinh trưởng của cơ thể. Các chức năng chủ
yếu khác của tê bào tạo xương là hình thành vitamin
kết dính và các chất hữu cơ khác của tổ chức tạo xương.
Tất cả các thành phần hữu cơ cơ bản của xương đều là
do tế bào tạo xương tự phân chia và tổ hỢp tạo thành.
Ngoài ra, tế bào tạo xương còn có thể vận chuyển muốĩ
canxi đến bộ phận canxi hóa, bổ sung canxi cho bộ phận
này từ đó thúc đẩy quá trình hình thành xương.
- Tê bào xương: Tê bào tạo xương sau khi sản sinh
chất cơ bản của xương, bản thân nó cũng tự hòa vào
trong đó tạo thành tê bào xương. Trong lúc đó tê bào
xương vẫn có thể sản sinh ra chất cơ bản của xương,
đồng thời có thể tan vào một ít dung môi, làm phần
xương ở xung quanh tê bào xương cùng lúc diễn ra hai
quá trình phá hủy và hấp thụ. Khi chất cơ bản của xương
bị canxi hóa, hoạt động của tê bào xương sẽ dừng lại.
10


Ui

- T ế bào hủy xương: Tế bào hủy xương trong cấu tạo
xương là một loại tê bào đa hạt tham gia vào quá trình
hấp thụ của xương, là tế bào không thể thiếu có tác
dụng quan trọng trong quá trình hấp thụ và tái tạo
xương. Tê bào hủy xương bám vào tổ chức hấp thụ của
xương, tan vào dung môi, phân giải thành phần hữu cơ
trong tổ chức xương. Đồng thòi tê bào hủy xương còn
thúc đẩy bộ phận sản sinh vật chất tính acid, hòa tan

muối canxi trong xương, từ đó làm tổ chức xương bị hòa
tan và hấp thụ.
2. Kết cã'u cơ bản của xương

- Mỗi đoạn xương đều có đầy đủ kết cấu cơ bản
tương đồng, bao gồm:
+ Chất xương cứng: Chất xương cứng là thành phần
chủ yếu của xương, giúp xương cứng, chắc, tăng khả
năng chịu lực và khả năng xoay chuyển tốt. Phần xương
cứng có dạng ốhg dài và tương đốì dày. Khi bị loãng
xương thì xương cứng cũng sẽ trở nên mỏng, dễ dẫn đến
gãy xương. Phần xương cứng chủ yếu nằm ở phần giữa
của xương dài, tương đoi dày, do quy tắc xếp đa tầng
của xương và tê bào xương cấu thành. Quy tắc sắp xếp
đa tầng cụ thể.
Do phần giữa của xương dài chủ yếu là phần xương
cứng có độ cứng tương đối cao, vì vậy đây là vị trí có khả
năng tiếp nhận lực ép và trường lực mạnh nhất.
+ Phần xương xốp: Nằm bên trong phần xương cứng,
kết cấu dạng xốp giống như miếng xôp bọt biển. Phần
xương xô"p do rất nhiều sỢi xương nốì vói nhau tạo


thành. Xương của người trưởng thành có khoảng 20% là
xương xốp, gồm rất nhiều sỢi xương giao vói nhau thành
dạng lưới hoặc dạng tấm. Các sỢi xương này chủ yếu
nằm ở hai đầu xương dạng ốhg dài và xương ngắn,
xương dẹp, xương không theo quy tắc. Sô" lượng sỢi
xương nhiều hay ít và độ dày của nó với độ tiếp nhận áp
lực của xương và quá trình trao đổi chất của xương có

mối quan hệ mật thiết vói nhau. Khi xương ở vào quá
trình giải phóng canxi, các sỢi xương này thưa dần dần
dần xuất hiện tình trạng loãng xương. Khi xương không
được tiếp nhận áp lực, sô" lượng các sỢi xương cũng sẽ
giảm đi.
Độ chắc khỏe của xương xô"p so với xương cứng thấp
hơn rất nhiều. Mặt khác đô"i vối quá trình trao đổi chất
biến đổi rất nhạy cảm, rất dễ xuất hiện tình trạng mất
xương. Sô lượng sỢi xương và độ dày của nó với tình
trạng trao đổi chất của tủy và khả năng tiếp nhận áp
lực có quan hệ với nhau. Khi xương giải phóng canxi, sỢi
xương thưa dần và nhỏ đi, thậm chí biến mất. Sô" lượng
xương làm cho ít đi, khoảng cách giữa chúng lớn hơn,
thể tích của xương giảm thấp, có thể xuất hiện trạng
thái các xương vỡ ra, dẫn đến hiện tượng sô" lượng các
sỢi xương suy giảm và gãy xương. Hiện tưỢng này trong
tình trạng sinh lý bình thường cũng có thể tồn tại,
nhưng khi vượt quá giới hạn sinh lý thì sẽ gia tăng nguy
cơ bị gãy xương ngay cả khi chỉ va chạm hay cử động
nhẹ. Ngoài ra trong trạng thái bình thường có thể nhìn
thấy 70 - 80% các sỢi collagen mới được hình thành trên
các sỢi xương này, nhưng khi bị loãng xương thì chỉ có


khoảng 20% các sỢi collagen mói hình thành trên xương.
Sự biến đổi ít đi các sỢi collagen cùng vói việc hàm
lượng canxi, phốt-pho trong xương giảm sẽ làm cho tính
năng của các sỢi xương dẫn đến bị biến đổi, làm cho tình
trạng loãng xương. Khi xương không tiếp nhận được áp
lực, sô" lượng các sỢi xương cũng sẽ giảm.

+ Khoang tủy xương: Khoang trốhg bên trong phần
xương cứng dạng ốhg gọi là khoang tủy xương. Bên
trong khoang tủy xương có chứa tủy. Tủy xương là một
tô chức mềm dẻo có nhiều máu, làm đầy khoang tủy của
các xương dài và các khe hở ở khoang xương xốp. Tủy
xương phân thành tủy xương đỏ và tủy xương vàng. Tủy
xương đỏ có chức năng tạo máu, bên trong có chứa một
lượng lớn các hồng cầu và một s ố lượng ít bạch cầu; tủy
xương vàng chứa lượng mỡ lớn. Trong xương của thai
nhi và trẻ nhỏ hoàn toàn chỉ có tủy xương đỏ. Sau đó,
cùng với quá trình phát triển của trẻ, tủy xương đỏ
trong khoang tủy của xương dài dần dần chuyển hóa
thành tủy xương vàng. Trong quá trình này, tủy xương
đỏ vẫn duy trì các loại hình trong xương xốp, tiếp tục
tạo máu. Sau khi cơ thể mất một lượng máu lốn, bộ
phận tủy xương vàng chuyển hóa thành tủy xương đỏ,
tiến hành quá trình tạo máu. Khi xương phát sinh tình
trạng loãng xương, bên cạnh nguyên nhân do các sỢi
collagen giảm thấp còn do phần xương cứng bị mỏng đi,
kéo theo phần khoang tủy to ra.
+ Đầu xương: VỊ trí của đầu xương là ở hai đỉnh của
đoạn xương, bề mặt có các khớp xương sụn che phủ.


i

a

Phần đầu xương của trẻ nhỏ tương đối mềm, qua quá
trình phân ly, sản sinh, xương hóa làm cho xương không

ngừng sinh trưởng. Cơ thể khi phát triển đến giai đoạn
trưởng thành, các đầu xương mềm dần dần xương hóa,
kết hỢp với đầu xương tạo thành một chỉnh thể. Ngoại
trừ các khớp xương bị bệnh, còn lại đa phần đều xuất
hiện tình trạng loãng xương hay phát sinh nhiều xương
dẫn đến các xương đầu bắt đầu cũng có sự biến đổi.
Trong trạng thái bình thường, khi nam 25 tuổi, nữ 23
tuổi thì xương đầu đóng lại, cơ thể không tiếp tục phát
triển chiều cao nữa.
+ Màng xương: Màng xương là một lớp màng chất xơ
dày đặc che phủ bề mặt của xương, có chức năng bảo vệ
xương. Trên màng xương có mạng lưới phong phú các
mạch máu, tuyến hạch và dây thần kinh, trực tiếp tham
gia vào quá trình sinh trưởng và phát triển của xương.
Lóp màng cũng có tác dụng tạo xương. Khi xương bị gãy,
màng xương có thể thúc đẩy sự phân hóa của tế bào tạo
xương, hình thành vảy xương bên ngoài làm vị trí xương
gãy kín miệng.
+ Mạch máu, hệ thống thần kinh của xương: Thần
kinh, mạch máu phân bố ở trên lớp màng trong, lóp
màng ngoài của xương, đảm bảo chức năng sinh lý bình
thường của xương.
3. Xương có những chức năng gì đối với cơ thể?

Cơ thể con người do nhiều loại xương thông qua các
khớp xương, dây chằng liên kết với nhau tạo thành một


(S


5>

thể hoàn chỉnh. Tác dụng dễ thấy nhất của xương là
nâng đỡ. Khi không có xương, chúng ta sẽ không thể
đứng hay di chuyển một cách bình thường. Bên cạnh đó
xương còn có tác dụng bảo vệ các cơ quan nội tạng trong
cơ thể. Xương và bắp thịt cùng với hệ thống gân, dây
chằng và các cơ mềm tạo thành một hệ thống hoàn
chỉnh, đảm bảo chức năng vận động, nâng đỡ và bảo vệ,
từ đó nâng cao khả năng sinh tồn của con người. Xương
và quá trình trao đổi chất của toàn cơ thể có môi quan
hệ mật thiết. Tủy đỏ trong xương là cơ quan tạo máu.
Ngoài ra trong xương có chứa một lượng lốn canxi, phốtpho và các chất khác, là nhân tô" điều tiết và tham gia
vào quá trình trao đổi muối vô cơ trong cơ thể.

- Chức năng làm giá đỡ: Xương là tổ chức bền chắc
nhất trên cơ thể. Chúng liên kết với nhau tạo thành một
kết cấu giá đỡ bằng xương hoàn chỉnh, cô" định, làm cho
cơ thể duy trì được hình thái và tư thê nhất định, có tác
dụng che đỡ và mang vác. Con người vì vậy có thể đứng,

Ht


a
đi lại, mang vật nặng và lao động. Chức năng làm giá đỡ
của xương chủ yếu là do xương sốhg chạy dọc theo cơ
thể và xương tứ chi đảm nhiệm. Nếu xảy ra tình trạng
loãng xương thì sẽ gây tổn hại đến chức năng làm giá đỡ
của xương, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

- Chức năng bảo vệ nội tạng: Xương trong cơ thể con
người liên kết chặt chẽ với nhau hình thành dạng
khung vững chắc, kiên cố. Kết cấu vững chắc này có thể
bảo vệ các cơ quan nội tạng quan trọng bên trong khung.
Ví dụ như phần xương sọ chắc khỏe bao quanh sọ người,
bảo vệ cho bộ não tránh những tác động ngoại lực;
xương sườn, xương sông, ngực, xương ngực... hình
thành xung quanh khoang ngực một khung xương dạng
lồng vững chắc bảo vệ tim, phổi và các cơ quan, tổ chức
ngăn cách bên trong từ phía trước ra phía sau; xương
chậu hình thành quanh khoang chậu, có tác dụng bảo
vệ tử cung, bàng quang; khoang tủy xương có tác dụng
bảo vệ tủy xương... Vì vậy xương có vai trò quan trọng
đốì với việc bảo vệ các cơ quan nội tạng, tránh gặp phải
những tác động mạnh và tổn thương từ bên ngoài. Đó là
nhu cầu không thể thiếu của cơ thể.
- Chức năng vận động: Bản thân xương không có
chức năng tự chủ hoặc chủ động vận động khả năng vận
động của cơ thể có được dưới tác dụng của thần kinh
phối hỢp vói các bắp thịt, gân, dây chằng và các tô chức
mềm khác có tác dụng tương đồng, giúp cho cơ thể có
thể thực hiện các loại vận động và động tác đa dạng,
phong phú như đi lại, lao động, ăn uống... Trong quá

H


trình thực hiện các vận động đó, xương giổhg như một
đòn bẩy có tác dụng thúc đẩy và duy trì. Các khốp
xương liên kết với nhau là yếu tô" then chốt trong mọi

hoạt động của cơ thể.
- Tham gia vào quá trình trao đổi canxi, phôt-pho:
Trong xương tích trữ một lượng lớn canxi và phổt-pho.
Xương trở thành nguồn tổ chức trao đổi lượng canxi,
phốt-pho của cơ thể, có tác dụng điều tiết nồng độ canxi,
phốt-pho trong máu. Khi nồng độ canxi, phốt-pho trong
máu gia tăng sẽ chuyển lượng tích trữ đó vào trong
xương; khi nồng độ canxi, phốt-pho trong máu giảm,
canxi và phốt-pho trong xương sẽ chuyển vào trong máu
để duy trì sự trao đổi canxi, phốt-pho trong máu được
cân bằng. Lấy canxi làm ví dụ cụ thể: Trong cơ thể con
người, cacbon chiếm 1 - 1,5% thể trọng, trong đó 99%
muối canxi kết tinh hình thành tồn tại trong xương và
trong răng, 1 % còn lại tồn tại trong máu, bắp thịt và các
tổ chức khác trong cơ thể. Canxi và môi trường bên
trong cơ thể ổn định, sự hưng phấn của thần kinh bắp
thịt và quá trình trao đổi chất của xương có mốĩ liên hệ
mật thiết với nhau. Trong điều kiện bình thường, ở
trạng thái cân bằng ion cacbon chuyển hóa trong xương
ổn định. Nếu như trong thòi gian dài lượng ion canxi
trong xương thoát ra nhiều hơn hấp thụ thì sẽ dẫn đến
bệnh loãng xương.
- Chức năng tạo máu: Tủy đỏ trong khoang tủy
xương là cơ quan tạo máu chủ yếu của cơ thể con người
ngay sau khi được sinh ra. Tủy xương đỏ có tác dụng tạo

HT


/

*•.— ụ

máu và hòa tan vào tê bào máu, duy
trạng thái cân bằng giữa quá trình sinh
hòa tan, mất đi và làm sạch của tế bào
quá trình tuần hoàn máu và hoạt động
thể diễn ra một cách bình thường.

trì trong máu
ra, phát triển,
máu, bảo đảm
sinh lý của cơ

4.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của xương diễn
ra như thế nào?

Cơ thể con người từ sau tuần mang
thai thứ 7 xương đã bắt đầu xuất hiện.
Đầu tiên là hình thành xương mềm,
sau đó thông qua một loạt quá trình
xương hóa phức tạp dần dần hình
thành cấu tạo xương hoàn chỉnh. Quá
trình xương hóa cũng là quá trình sinh
trưởng của xương.
Lấy xương dài ở tứ chi làm ví dụ:
Trong quá trình phát triển của
xương dài ở tứ chi có hơn 3 trung
tâm xương hóa: một là, ở ốhg xương;
hai là, một đoạn đầu của xương; ba

là, đoạn đầu còn lại của xương. Sự xương hóa của ống
xương tiếp diễn theo sự phát triển của hai đoạn đầu
xương. Đồng thòi, với quá trình xương hóa thì xương
mềm dần dần co lại, đầu xương sau khi sinh ra mới xuất
hiện trung tâm xương hóa. Do vậy, trung tâm xương
hóa bắt đầu hoạt động từ xung quanh, cuối cùng ở giữa
xương ống và xương đầu chỉ còn lại một phần nhỏ xương
mềm, gọi là xương đầu mềm. Lúc này quá trình xương


ĩl®@

hóa của xương ống và xương đầu chậm lại, phần xương
đầu mềm vẫn tiếp tục sinh trưởng và không ngừng
xương hóa, khiến xương không ngừng dài ra. Đến một
độ tuổi nhất định (nữ khoảng 23 tuổi, nam khoảng 25
tuổi), đoạn xương đầu mềm đó mới xương hóa hoàn toàn,
chỉ còn lại vết tích hình dây gọi là dây đầu xương. Lúc
này độ dài của xương không phát triển nữa, có thể cũng
không phát triển thêm chiều cao. Độ đậm của xương
thông qua một lóp màng dày các tê bào tạo xương không
ngừng hình thành chất xương, giông như vòng tuổi của
cây, mỗi tầng xếp lên bên ngoài xương mềm tạo thành
chất xương. Đồng thòi các tế bào hủy xương có thể phá
hủy chất xương trong khoang tủy xương, không ngừng
phá hủy và hấp thụ chất xương, hình thành nên khoang
trống. Chất xương ỏ bề mặt xương không ngừng dày
thêm, khoang tủy trong xương không ngừng rộng ra.
Quá trình này diễn ra liên tục và thường kéo dài từ giai
đoạn thai kỳ đến khoảng 25 tuổi.

5. Quá trình canxi hóa của xương diễn ra như thế nào?

Quá trình canxi hóa của xương là quá trình tích luỹ
có trật tự các muõi vô cơ trong chất hữu cơ của xương.
Các muối vô cơ chủ yếu là canxi và phốt-pho kết hỢp lại
tạo thành một loại muổì acid phốt-pho kết tinh hình lục
giác có tính hòa tan. Sau đó, tích luỹ trong sỢi collagen
của xương. Quá trình canxi hóa' của xương bình thường
phân thành 3 giai đoạn:
- Protein trong xương và canxi trong chất cơ bản
hình thành một chất canxi hóa phức hỢp có thể hòa tan.

J4


- Chất canxi hóa phức hỢp có thể hòa tan và muối acid
phốt-pho hình thành nên một chất muối acid phốt-pho canxi - protein phức hỢp có thể hòa tan.

- Trong quá trình hòa tan các chất đó phát sinh
phản ứng với muối acid phốt-pho, hình thành thể kết
tinh biến đổi thành tổ chức cứng chắc của xương.
Quá trình canxi hóa của xương chủ yếu nhận ảnh
hưởng của toàn thân và canxi cục bộ, nồng độ phốt-pho
và chất kích thích tiết ra bên trong. Khi có đủ canxi và
phốt-pho thì mới có thể phát sinh canxi hóa xương. Vì
vậy, nhân tô" quan trọng trong quá trình canxi hóa của
xương là phải duy trì lượng canxi và phốt-pho bình
thường trong xương. Canxi và phô"t-pho trong xương bị
tan ra cũng chính là quá trình hòa tan và hấp thụ của
chất xương.

6.
Quá trình lão hóa của xương có những biến đổi
sinh hóa gì?

Con người sau khi trưởng thành, hình dạng và mức
độ to nhỏ, dài ngắn của xương đã cơ bản ổn định, nhưng
kết cấu bên trong của nó vẫn tiếp tục có những biến đổi.
Cùng vối quá trình biến đổi của điều kiện môi trường,
sự hỢp thành và hấp thụ của tổ chức xương vẫn tiến
hành một cách chậm chạp, ứng dụng của kỹ thuật chụp
phim X-quang đã cho thấy xương lão hóa theo độ tuổi
già đi và trên phương diện sinh hóa của xương cũng có
một sô" biến đổi:
- Thành phần nước trong xương tăng lên: Thành
phần nước trong xương và độ muối hóa trong xương có
20


>, r
một mối quan hệ nhất định. Độ muối hóa trong xương
cao thì thành phần nước trong xương sẽ bị đẩy ra, nước
sẽ giảm đi, ngược lại độ muối hóa trong xương thấp,
nước không được đẩy ra dẫn đến hiện tượng tích nước.
Chất vô cơ trong xương của những người dưới 50 tuổi
liên tục tăng lên, sau đó thì giảm đi. Điều đó giải thích
tại sao lượng nước trong xương của những người sau 50
tuổi tăng lên nhanh chóng.
- Chất vô cơ của xương giảm: Lượng canxi trong
xương của người từ 50 tuổi trở đi dần dần giảm xuống,
còn lượng phốt-pho hầu như không có biến động rõ rệt

trong toàn bộ quá trình sinh trưỏng và phát triển của
xương. Dùng kỹ thuật kiểm tra tuyến hạch lympho cũng
phát hiện quá trình tích luỹ chất vô cơ của xương cùng
với sự gia tăng tuổi tác giảm đi rõ rệt.
- Chất hữu cơ của xương giảm:
+ Mucopolysaccharide giảm:
Mucopolysaccharide là vật chất
quan trọng của quá trình cacbon
hóa. Nó và sỢi collagen cùng hình
thành ở cacbon hóa chất cơ bản của
xương. Độ tuổi lão hóa của xương
biến đổi cũng có sự kết hỢp tổ chức
đặc biệt của tuổi lão hóa, sỢi
collagen tăng lên. Những sỢi
collagen này đậm hơn, sự phân bô"
và sắp xếp cũng không theo quy luật, vật chất trong
collagen giảm rõ rệt.


+ Acid amin giảm: Acid amin trong xương bình
thường sẽ giảm theo độ tuổi.
Cùng với sự lão hóa theo độ tuổi, độ lốn và hình
dạng của xương chưa phát sinh nhiều biến đổi, nhưng
kết cấu bên trong xương đã có sự biến đổi cùng với quá
trình lão hóa của xương:
- Phần xương cứng mỏng đi: Sau 40 - 50 tuổi bắt đầu
xuất hiện hiện tượng phần xương cứng dần mỏng đi.
Đến khoảng 50 - 80 tuổi, mỗi 10 năm thì độ dày của
phần xương cứng lại giảm đi 5%, nữ giói giảm 10%.
- Khoang tủy mở rộng: Sự mở rộng của khoang tủy

có tính dị biệt, ó nam giới hiện tượng khoang tủy mở
rộng phát triển dần dần, nhưng ở nữ giới sau tuổi 40 thì
tốíc độ mở rộng của khoang tủy diễn ra tương đối nhanh.
- Biến đổi phần xương mềm: Các sỢi xương ngang
dọc của phần xương mềm giảm về sô" lượng và trở nên
mỏng, thô ráp hơn. Sự biến đổi này thể hiện rõ nhất ở
khu vực chóp xương ức.
- Biến đổi tê bào xương: Tế bào xương cùng với sự
lão hóa theo độ tuổi sẽ giảm về sô" lượng, đồng thòi khả
năng sinh trưởng của xương cũng giảm theo độ tuổi.
7. Quá trình trao đổi chất ở xương diễn ra như thế nào?

Xương trong cơ thể con người là một cơ quan hoạt
động có sinh mệnh, có sự trao đổi chất và các đặc điểm
của quá trình sinh trưởng, phát triển. Xương có khả
năng tự phá huỷ, tái tạo, kín miệng và phục hồi, tái
sinh vết thương. Cùng với quá trình phát triển của cơ
thể, xương cũng không ngừng biến đổi theo chu trình
22


hình thành - hoàn thiện - lão hóa. Trong từng độ tuổi
khác nhau thì sự biến đổi của xương cũng có những biểu
hiện khác nhau.
Quá trình trao đổi chất của xương là tổ chức xương
không ngừng tiến hành cải tạo xương. Quá trình này
diễn ra phức tạp, bao gồm hai phương diện: hấp thụ
xương và hình thành xương, sắp xếp theo thứ tự: Kích
thích hoạt động, hấp thụ xương, hình thành xương. Đầu
tiên, là kích thích hoạt động tham gia vào hấp thụ

xương của lượng lớn tế bào hủy xương. Tê bào hủy
xương sẽ hòa tan chất xương cơ bản, đồng thòi đưa
cacbon ở trong xương chuyển ra ngoài, hình thành
xương hấp thụ. Sau đó trên bề mặt của xương hấp thụ
xếp theo thứ tự một lớp dày hình cạnh của tế bào tạo
xương. Tế bào tạo xương hỢp thành chất xương cơ bản
không thể vôi hóa, đồng thời đưa cacbon đến khu vực
cacbon hóa. Sau cùng, canxi và nó kết tinh từ từ tích luỹ
ở trong xương cơ bản, xương cơ bản này canxi hóa, hình
thành tổ chức xương.
Ti’ong quá trình trao đổi chất ở xương, mỗi ngày đều
có một lượng nhất định các tổ chức xương bị hấp thụ,
đồng thời có một s ố lượng tương đương các tổ chức
xương được hỢp thành. Hai quá trình này luôn duy trì ở
trạng thái cân bằng. Khi mà chất xương hấp thụ lốn
hơn so với chất xương hình thành, có thể xuất hiện hiện
tượng xương mất đi, dẫn đến loãng xương, bệnh xương
mềm... Khi xương hình thành không tương ứng với
xương hấp thụ còn có thể xuất hiện hiện tượng chất


xương bị cứng hóa. Quá trình trao đổi chất của xương
nhận được sự điều tiết của rất nhiều yếu tô" trong cơ thể
như: canxi, phốt-pho, magiê, chất kích thích phân tiết
bên trong, vitamin và rất nhiều các nhân tố khác có tác
dụng quan trọng không thể thiếu.
8.

Quá trình trao đổi chất của canxi, phốt-pho và


magíê trong xương diễn ra như thế nào?

- Quá trình trao đổi chất của canxi: Hàm lượng
canxi trong cơ thể người chỉ đứng thứ 5 sau oxy, cacbon,
hydro và nito. Trong cơ thể người trưởng thành có từ
700 - lõOOg, 99% canxi tồn tại trong xương và trong
răng, đó là thành phần chủ yếu của xương và răng,
chiếm khoảng 1,5 - 2,2% trọng lượng cơ thể. Canxi có
tác dụng sinh lý quan trọng. lon canxi với nồng độ bình
thường có tác dụng quan trọng đốì với tính hoàn chỉnh
của việc duy trì tế bào màng, sự kích thích của bắp thịt
và các chức năng khác của tê bào. Khi nồng độ các chất
kích thích phát huy tác dụng tại tê bào mục tiêu thì
không thể tách ròi khỏi ion canxi. Vì vậy canxi được gọi
là chất kích thích, là “sứ giả đưa tin trong tế bào”. Khi
canxi trong máu thấp dễ xuất hiện hiện tượng co giật
bắp thịt, trong trường hỢp đặc biệt cũng có thể làm biến
đổi thu hẹp cơ tim, dẫn đến tim ngừng đập. Canxi còn là
thuốc điều tiết phân bô' có thể tiết ra các loại chất kích
thích trong cơ thể, có thể tăng cường hoạt tính của rất
nhiều dung môi, là nhân tố quan trọng để cân bằng acid
và kiểm trong cơ thể. VỊ trí hấp thụ canxi chủ yếu là ở




b.

đoạn trên của ruột non. Với người trưởng thành bình
thường cần lượng canxi ít nhất là 800mg, còn phụ nữ có

thai, phụ nữ trong thòi kỳ cho bú và thòi kỳ sinh trưởng
của trẻ thì lượng canxi cần thiết tăng lên. Canxi chủ
yếu có từ trong thức ăn, trong đó có 10 - 35% (200 350mg) được cơ thể hấp thụ, phần chưa được hấp thụ sẽ
được thải ra ngoài theo phân. Hấp thụ canxi chủ yếu là
qua quá trình bài tiết của thận.
Người bình thường mỗi ngày lượng canxi thải ra
trong nước tiểu khoảng 100 - 300mg. Canxi được hấp
thụ chủ yếu là do sự khốhg chê của vitamin D, hormon
tuyến cận giáp và canxitonin. Ngoài ra, môi trường acid
còn làm tăng khả năng hòa tan của muối canxi, có lợi
đốì với việc hấp thụ canxi, nhưng môi trường tính kiềm
thì ngược lại. Các yếu tô" như chức năng của thận, độ
kiềm, nồng độ acid trong máu, giới tính... cũng có quan
hệ vói sự bài tiết của canxi. Trong cơ thể con người
canxi trong quá trình trao đổi chất, canxi ở trong xương,
trong máu, trong đường ruột, trong thận không ngừng
tiến hành trao đổi để duy trì nồng độ canxi ổn định
trong máu. Người bình thường có nồng độ canxi trong
huyết tương là 2 ,1 - 2,6mmol/lít. Nếu như thiếu canxi
thì trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể
có thể phát sinh bệnh còi xương ở trẻ; ở người trưởng
thành có thể mắc bệnh mềm hóa xương; ở người già thì
có thể làm cho bệnh loãng xương nghiêm trọng hơn.
- Quá trình trao đổi chất của phôt-pho: Hàm lượng
phốt-pho trong cơ thể thấp hơn canxi, đứng vỊ trí thứ 6,
25


×