Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kỹ thuật mổ ít xâm lấn trong phẫu thuật cấy ốc tai điện tử đa kênh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.83 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

KỸ THUẬT MỔ ÍT XÂM LẤN TRONG PHẪU THUẬT CẤY ỐC TAI
ĐIỆN TỬ ĐA KÊNH
Lê Trần Quang Minh*, Nguyễn Thị Ngọc Dung**, Phạm Ngọc Chất***

TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả, đánh giá kết quả kỹ thuật mổ ít xâm lấn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả từng ca có can thiệp. 54 bệnh nhân được phẫu
thuật cấy ốc tai điện tử với đường mổ nhỏ.
Kết quả- bàn luận: Đường rạch da tương tự đường rạch da trong phẫu thuật tai thông thường dài 3-4 cm,
không bóc tách tạo vạt cân cơ, tai biến chảy máu và tụ máu không có ở cả 54 bệnh nhân. Thời gian phẫu thuật
trung bình đạt 106,57 phút. Thời gian nằm viện sau phẫu thuật trung bình từ 7- 10 ngày chiếm 77,6%.
Kết luận: Đường mổ nhỏ vẫn đảm bảo yêu cầu đặt và cố định điện cực, bệnh nhân ít bị sang chấn, giảm
nguy cơ tai biến trong và sau mổ, rút ngắn thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện, tạo lợi ích đáng kể về cả 2
mặt thẩm mỹ và tâm lý cho bệnh nhân, đặc biệt đối với cha mẹ bệnh nhi.
Từ khóa: Ốc tai điện tử, điện cực, mổ ít xâm lấn.

ABSTRACT
MINIMALLY INVASIVE TECHNIQUE IN COCHLEAR IMPLANT SURGERY
Le Tran Quang Minh, Nguyen Thi Ngoc Dung, Pham Ngoc Chat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 183 - 187
Objective: Descript and ascess the minimally invasive surgery results.
Method: Descriptive case study. 54 patients had cochlear implant with minimally invasive surgery
technique.
Results and Discussion: The incision is similar in normal ear surgery which has 3-4 cm long, it has not the
subcutaneous flaps and has not complication in 54 patients. The operation time is moderately 106.57 minutes. The
post-op in hospital days are almost from 7 to 10 (77.6%).
Conclusions: Minimally invasive surgery technique has good results and ensure to put and fix electrode.


Furthermore, it decreases in and post-op complications, simultaneously shorten the surgery and hospitalization
times. This procedure proved both cosmetically and psychologically beneficial for patients, especially for children
and their parents.
Keywords: Cochlear implant, electrode, minimally invasive surgery.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém là khiếm khuyết về giác quan
thường gặp nhất, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sinh hoạt xã hội, sự phát triển tâm sinh lý
của bệnh nhân.

Đối với bệnh nhân nghe kém dạng tiếp nhận
sâu và nặng, đặc biệt ở cả 2 tai và không hiệu
quả khi đeo máy trợ thính, cấy ốc tai điện tử đa
kênh là chọn lựa tốt nhất giúp bệnh nhân nghe
được và giao tiếp với xã hội.
Cấy ốc tai điện tử đa kênh là phẫu thuật đặt

* BV Tai Mũi Họng- TP Hồ Chí Minh. **BM Tai Mũi Họng- Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Trần Quang Minh
ĐT: 0903991151
Email:

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

183


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

1 thiết bị có khả năng biến những âm thanh
thành các tín hiệu điện thông qua các điện cực
đặt bên trong ốc tai, từ đó các tín hiệu này được
chuyển đến các tế bào của hạch xoắn rồi theo
dây thần kinh thính giác đến vỏ não(4,5,8).
Phẫu thuật cấy ốc tai điện tử kinh điển
thường tạo vết mổ dài, xâm lấn đáng kể đến
các mô dưới da khi tạo vạt che phủ và cố định
bộ phận tiếp nhận trong dẫn đến sự gia tăng
tỷ lệ tai biến trong và sau phẫu thuật. Đồng
thời việc này cũng kéo dài thời gian phẫu
thuật, làm tổn hại thêm đến sức khỏe bệnh
nhân mà đa số là trẻ em.

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu từng ca có can thiệp.
Các bệnh nhân được khai thác bệnh sử, đo
thính lực đánh giá mức độ nghe kém, chụp CT
xương thái dương đánh giá tình trạng ốc tai,
chụp MRI.
Bệnh nhân còn được khám đánh giá tình
trạng phát triển tâm thần, nội soi tai và vòm
đánh giá V.A (đối với trẻ em). Bệnh nhân phải
được nạo V.A và chủng ngứa viêm màng não
mủ trước khi phẫu thuật 3 tháng.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU


Phẫu thuật được thực hiện với đường rạch
da cách rãnh sau tai 1cm, từ trên xuống dưới
song song với rãnh sau tai và có độ dài từ 3-4
cm. Bóc tách cốt mạc đủ để tiếp cận vị trí sẽ
khoan giường đặt bộ phận tiếp nhận trong.
Khi tiếp cận mặt ngoài xương chũm, các thao
tác mở vào xương chũm, mở ốc tai, tạo
giường, đặt điện cực được thực hiện tương tự
phương pháp mổ kinh điển.

Đối tượng nghiên cứu

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Từ tình trạng nêu trên và thực tế chưa có đề
tài nào báo cáo về vấn đề này, chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài nghiên cứu với mục đích
cải tiến kỹ thuật mổ ít xâm lấn hơn, giảm thời
gian phẫu thuật và giảm thiểu nguy cơ gây ảnh
hưởng sức khỏe cho bệnh nhân.

54 bệnh nhân điếc nặng và sâu cả 2 tai được
khám, chẩn đoán và phẫu thuật tại Bệnh viện Tai
Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh từ 4 năm
2009 đến tháng 12 năm 2011.

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Bệnh nhân > hoặc bằng 12 tháng.
Điếc tiếp nhận nặng đến điếc đặc 2 tai.
Chức năng thần kinh thính giác bình thường.

Phát triển tâm sinh lý bình thường, có kỹ
năng nói và giao tiếp tốt. Đối với trẻ em thì cha
mẹ phải sẵn sàng phối hợp huấn luyện cho trẻ
các kỹ năng nghe, nói sau cấy điện ốc tai.
Không cải thiện thính lực khi đeo bất kỳ loại
máy trợ thính nào.
Không có bệnh lý nội khoa chống chỉ định
phẫu thuật.
Không có bất thường giải phẫu học vùng tai
trong (khảo sát trên CT Scan và MRI).

Tổng số 54 bệnh nhân.

Giới
Nam 53,7%. Nữ 46,3%. Nam nhiều hơn nữ
nhưng không đáng kể.

Tuổi phẫu thuật
< 2 tuổi: 16 (29,6%).
2-5 tuổi: 30 (55,6%).
6- 15 tuổi: 6 (11,1%).
> 15 tuổi: 2 (3,7%).
Độ tuổi phổ biến nhất: 2-5 tuổi (55,6%).
Theo Niparko chỉ số tuổi phẫu thuật rất quan
trọng vì:
Cho thấy vai trò của việc phát hiện điếc sớm
ở trẻ em.
Cấy sớm ở tuổi càng nhỏ, kết quả phát triển
ngôn ngữ càng tốt hơn  hội nhập sớm (7).


Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đủ các tiêu chuẩn trên.

184

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

60
50
40
30
20
10
0

Nghiên cứu Y học

56%
30%
11%

< 2tuổi 2 - 5 tuổi

4%

6 - 15
tuổi


> 15 tuổi

Biểu đồ 3: Tỉ lệ phân bố phân loại điếc.

Thính lực đồ

Biểu đồ 1: Tỉ lệ phân bố tuổi phẫu thuật.

50 ca (92,6%) điếc đặc.

Địa phương

04 ca (7,4%) điếc sâu 90-100 dB.
Hầu hết các bệnh nhân đều điếc rất nặng,
không thể nghe được bằng máy trợ thính.

Miền Bắc: 19 (35,2%).
Miền Trung: 10 (18,5%).
Miền Nam: 25 (46,3%) trong đó có 15 (27,8%)
bệnh nhân ở TP Hồ Chí Minh.
Phân bố khá đều dù BV Tai Mũi Họng ở TP
Hồ Chí Minh, miền Nam có nhiều hơn nhưng
không đáng kể do hiện nay, BV Tai Mũi Họng
TP Hồ Chí Minh là BV chính thực hiện phẫu
thuật cấy ốc tai điện tử ở VN.
46%
50
40
30

20
10
0

35%
19%

MiỀN BẮC

MiỀN
TRUNG

MiỀN NAM

Biểu đồ 2: Tỉ lệ phân bố theo địa phương.

Loại điếc
Trước ngôn ngữ (Điếc bẩm sinh): 51 (94,4%).
Sau ngôn ngữ (Điếc mắc phải): 3 (5,6%).
Điếc trước ngôn ngữ (Điếc bẩm sinh) chiếm
tỷ lệ 94,4%, như vậy đại đa số là các bệnh nhi. 3
ca điếc sau ngôn ngữ đều xảy ra sau viêm màng
não. Như vậy trong nghiên cứu của chúng tôi,
viêm màng não là nguyên nhân thường nhất gây
điếc tai trong sau sinh cũng như tác giả Berke.

CT Scan, MRI
52 ca (96,3%) CT Scan có hình dạng, vị trí ốc
tai trong giới hạn bình thường.
02 ca (3,7%) CT Scan có loạn sản tai trong 2

bên.
54 ca có kết quả MRI bình thường, không
thấy các tổn thương hoặc u dây thần kinh VIII.
CT Scan có vai trò đặc biệt quan trọng để
đánh giá vị trí, hình dạng ốc tai, xác định trước
các mốc Giải phẫu cần thiết để có thể mở ốc tai.
Đặc biệt đối với trường hợp di chứng viêm
màng não, ốc tai sẽ dần bị cốt hóa, do vậy cần
chụp CT Scan ít nhất trong 1 tháng trước mổ để
đánh giá chính xác ốc tai.

Bên phẫu thuật
Bên (P): 37/54 (68,5%).
Bên (T): 10/54 (18,5%).
2 bên: 7/54 (13%).
Chúng tôi thực hiện đa số ở bên (P) vì nếu
trong trường hợp xương chũm và ốc tai 2 bên
bình thường, chúng tôi sẽ thực hiện bên tay
thuận để bệnh nhân dễ tháo lắp máy.
Gần đây chúng tôi phẫu thuật 7 ca ở 2 bên
(khi bệnh nhân có điều kiện kinh tế). Việc cấy ốc
tai điện tử 2 bên giúp bệnh nhân nghe và định
hướng âm thanh tốt hơn(2,3).

Phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật: Trung bình đạt 107
phút. Thời gian này ngắn hơn trung bình 64 phút

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


185


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

so với nghiên cứu của Majdani và cộng sự.(6)

theo rãnh sau tai.

Trên thế giới, các đường rạch da kinh điển
thường có nhiều loại: đường chữ C, U, S, đường
kéo dài Shambaugh, đường kéo dài của đường
mổ sau tai…(7,8).

Hình 2: Đường rạch da ít xâm lấn (Nguồn
Docstoc.com).

Hình 1: Các đường rạch da kinh điển (Nguồn
Docstoc.com).
Chúng tôi nhận thấy những đường rạch da
kéo dài này có kèm theo việc tạo các vạt cân cơ
làm tăng nguy cơ chảy máu và tăng khả năng
tổn thương các mô dưới da vì phải bóc tách
nhiều. Vấn đề này tương đối đơn giản ở người
lớn nhưng sẽ là đáng kể nếu ở trẻ em, đặc biệt
những trẻ còn quá bé, cân nặng chỉ trên dưới
khoảng 10kg.(1)
Việc này đòi hỏi chúng tôi phải tìm kiếm một

đường rạch da đảm bảo các yếu tố:

Trong tổng số 54 bệnh nhân chúng tôi sử
dụng đường mổ này, chúng tôi nhận thấy thao
tác đơn giản, dễ thực hiện như khi mổ tai thông
thường, không phải tạo vạt cân cơ phức tạp dễ
làm tăng nguy cơ chảy máu. Chúng tôi cũng
nhận thấy thời gian phẫu thuật rút ngắn đáng
kể, giảm thời gian bệnh nhân phải nằm viện.

Thời gian nằm viện sau phẫu thuật
< 7 ngày: 3 (5,6%).
7-10 ngày: 42 (77,6%).
> 10 ngày: 9 (16,8%).

> 10 Ngày
7 - 10 Ngày

Đường rạch da phải đáp ứng tiêu chuẩn
“xâm lấn tối thiểu”, từ đó giảm thiểu nguy cơ
chảy máu và giảm nguy cơ sang chấn mô dưới
da.
Từ những yêu cầu trên, chúng tôi đã thực
hiện đường rạch da sau tai chỉ với chiều dài 3-4
cm, tương tự đường mổ tai thông thường. Tuy
nhiên, đường rạch da này có những điểm khác
với đường mổ tai thông thường:
Đường rạch da cách rãnh sau tai khoảng
1cm, xa hơn so với đường mổ tai thông thường
(khoảng 4-5 mm).

Đường rạch da đi thẳng lên trên, không cong

186

78%

< 7 Ngày

Đường rạch da phải đủ để thao tác phẫu
thuật đặt ốc tai điện tử.
Đường rạch da phải bóc tách đủ rộng để làm
giường cho bộ phận tiếp nhận trong.

17%

6%
0

20

40

60

80

100

Biểu đồ 4: Tỉ lệ phân bố thời gian nằm viện sau phẫu
thuật.

Đa số các bệnh nhân xuất viện trong khoảng
7-10 ngày sau mổ, khi vết mổ lành ổn định. Tuy
nhiên do > 70% bệnh nhân ở các tỉnh thường có
tâm lý lo lắng, xin nằm viện cho đến khi thật sự
ổn định mới ra viện nên số bệnh nhân ra viện
trong vòng 7 ngày còn thấp.

Tai biến
Không có tai biến trong phẫu thuật.
Không chảy máu và tụ máu sau phẫu thuật.
Vết mổ khô, liền da sau 1 tuần: 54 ca (100%).
Do vết mổ ngắn nên chúng tôi không thay
băng sau mổ nhiều, chỉ thay băng lần đầu sau 48

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
giờ, sau đó tháo bỏ băng thun, chỉ băng dán
bằng gạc mỏng và thay lần 2 vào ngày thứ 7, khi
đó bệnh nhân đã có thể xuất viện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

KẾT LUẬN

2.

Kỹ thuật mổ ít xâm lấn trong phẫu thuật cấy
ốc tai điện tử đa kênh tại BV Tai Mũi Họng

thành phố Hồ Chí Minh đã ngày càng được sử
dụng phổ biến vì những thuận lợi đáng kể.

3.

Với đường mổ nhỏ, phẫu thuật viên vẫn
đảm bảo yêu cầu đặt và cố định điện cực, đồng
thời bệnh nhân ít phải chịu sang chấn, giảm
nguy cơ tai biến trong và sau mổ, rút ngắn thời
gian phẫu thuật và nằm viện, tạo lợi ích đáng kể
về cả 2 mặt thẩm mỹ và tâm lý cho bệnh nhân,
đăc biệt đối với cha mẹ bệnh nhi.
Tuy nhiên do đường mổ nhỏ, phẫu thuật
viên vẫn có đôi chút khó khăn khi khoan tạo
giường đặt bộ phận tiếp nhận trong, thao tác này
đòi hỏi sự khéo léo của phẫu thuật viên và hợp
tác tốt của người phụ tá.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng

1.

4.

5.

6.

7.


8.

Nghiên cứu Y học

Bayazit YA, Goksu N, Ozbilen S (2007) Mini-incision for
pediatric cochlear implantation with a MED EL device. ORL J
Otorhinolaryngol Relat Spec.,69(5);311-5.
Mack KF, Heermann R, Issing PR, Lenarz T, Schwab B (2006).
Four year’s experience with the minimally invasive surgical
approach in cochlear implant surgery. Minim Invasive Ther
Alied Technol., vol 15, Issue 3, pp 187-192.
Majdani O, Schuman T (2010). Time of cochlear implant
surgery in academic settings. Otolaryngol Head Neck Surg.;
142(2); pp 254–259.
Niparko JK (2005). Assessment of Cochlear Implant
Candidacy. In: John K. Niparko. Cochlear Implants Principles
and Practices, Lippincott Williams and Wilkins, Philadelphia,
pp 74-76.
Niparko JK (2005). Assessment of Cochlear Implant
Candidacy. In: John K. Niparko. Cochlear Implants Principles
and Practices, Lippincott Williams and Wilkins, Philadelphia,
pp 173- 177.
Ramsden RT, Wheatley H (2000). Developing surgical
techniques in cochlear implantation. Cochlear Implants
International, Whurr Publishers Ltd, 1(2), pp. 67–81
Robertson JB (2005). Cochlear implant Surgery: Minimally
invasive technique. Operative techniques in OtolaryngologyHead and Neck Surgery. Vol 16, Issue 2, pp 74-77.
Tucci DL, Niparko JK (2005). Medical and Surgical Aspects of
Cochlear Implantation. In: John K. Niparko. Cochlear Implants
Principles and Practices, Lippincott Williams and Wilkins,

Philadelphia, pp 189- 221.

187



×