TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 20, 2003
NGHIÊN CỨU TẠO MÀNG POLIANILIN TRÊN NỀN THÉP CT3
BẰNG PHƯƠNG PHÁP OXI HOÁ ĐIỆN HOÁ ANILIN
Lê Tự Hải
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Polianilin (PAni) là một polime dẫn điện. PAni được sử dụng làm catôt trong
các vi pin và làm điện cực trong các biosensor để xác định hàm lượng glucoza trong
máu [1,2]. PAni có thể được tổng hợp bằng phương pháp hóa học. Song quá trình này
xảy ra ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao, tiến hành qua nhiều giai đoạn và sử dụng
dung môi hữu cơ độc hại [3].
Bằng phương pháp oxi hóa điện hóa anilin, PAni đã được tổng hợp trên các
điện cực anôt trơ dưới điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường [4,5]. Quá trình
polime hóa điện hóa có thể tạo ra màng PAni có độ dày, mỏng tùy ý.
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu tạo màng PAni trên
điện cực thép CT3 bằng phương pháp oxi hóa anôt anilin trong dung dịch điện ly axit
oxalic.
2. THỰC NGHIỆM
Các hóa chất dùng pha chế dung dịch nghiên cứu gồm anilin (C6H5NH2), axit
oxalic (H2C2O4), gelatin có độ tinh khiết phân tích.
Phép đo đường cong dòng thế tuần hoàn (cyclic voltammetry) được tiến
hành trong bình đo 3 điện cực. Điện cực so sánh là điện cực calomen bão hòa (SCE).
Điện cực phụ là dây dẫn Pt. Điện cực làm việc là thép CT3 có diện tích 1cm2. Trước
mỗi phép đo, bề mặt điện cực được tẩy cơ học bằng giấy nhám SiC (1500 và 1200);
tẩy mỡ trong axeton và rửa lại bằng nước cất.
Đường cong dòng thế tuần hoàn thu được bằng phương pháp quét thế tuyến
tính với tốc độ 20mV/s từ 0,2V + 1,2V (SCE). Tất cả các phép đo được tiến hành
trên thiết bị Bipotentiostat 366A.
Để tổng hợp polianilin với lượng lớn, chúng tôi tiến hành điện phân dung dịch
nghiên cứu trên thiết bị điện phân ở điều kiện thế bình không đổi (Electrolytic
Analyzer).
Điện trở màng polianilin được đo bằng thiết bị đa năng K.1400 Kyoritsu.
Nhiệt độ nóng chảy của PAni được xác định trên máy đo nhiệt nóng chảy
39
Gallenkamp SG 97/04/475. Cấu trúc của PAni và ảnh tế vi của màng PAni tạo thành
trên thép CT3 được nghiên cứu bằng phương pháp quang phổ hồng ngoại và kính
hiển vi electron quét.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đường cong dòng thế tuần hoàn của phản ứng oxi hóa anốt anilin
trên thép CT3
Kết quả đo đường cong dòng thế tuần hoàn của quá trình tạo màng PAni trên
thép CT3 trong dung dịch H2C2O4 0,5M + C6H5NH2 0,1M ở khoảng thế 0,2V +
1,2V được trình bày trên hình 1.
Hình 1: Đường cong dòng thế tuần hoàn của quá trình tạo màng PAni
trên thép CT3trong dung dịch H2C2O4 0,5M + C6H5NH2 0,1M
Từ đường cong cho thấy ở khoảng thế + 0,5V +1,2V có xuất hiện pic (đây
cũng là vùng thế thụ động của thép CT3 trong axit oxalic không có anilin). Đồng thời
trên bề mặt thép CT3 có xuất hiện một lớp màng màu xanh. Như vậy, quá trình oxi
hóa anôt anilin trong dung dịch axit oxalic xảy ra trên nền thép CT3.
3.2. Tổng hợp màng PAni trên thép CT3
Điện phân tạo màng PAni trên thép CT3 ở các giá trị nồng độ anilin và thời
gian khác nhau, thế bình điện phân E = 2V và dung dịch điện phân được pha thêm
phụ gia gelatin để tăng khả năng bám dính của màng. Chất điện li là dung dịch axit
oxalic 0,5M. Các kết quả xác định khối lượng màng PAni được trình bày ở bảng sau.
Bảng 1: Khối lượng màng PAni trên thép CT3 ở các giá trị nồng độ anilin
và thời gian điện phân khác nhau
Nồng độ
anilin (M)
Thời gian
(phút)
0,1
2
5
Khối lượng điện cực (g)
Trước điện
Sau điện phân
phân
9,6667
9,6688
9,6649
9,6705
40
Khối lượng
PAni (g)
0,0021
0,0056
0,2
10
2
5
10
9,6565
9,6546
9,6537
9,6437
9,6635
9,6595
9,6642
9,6559
0,0070
0,0049
0,0087
0,0122
Thời gian điện phân và nồng độ anilin càng tăng thì màu sắc màng tạo ra càng
đậm dần, khối lượng màng PAni tạo thành càng tăng. Như vậy, nồng độ anilin và
thời gian điện phân có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và màu sắc của màng
PAni.
3.3. Khảo sát tính chất hóa lí của màng PAni
3.3.1. Xác định độ dẫn điện
Độ dẫn điện của màng PAni được xác định thông qua việc đo điện trở của
màng và có giá trị là 45 1/cm. Điều này chứng tỏ màng PAni có khả năng dẫn điện.
Cơ chế dẫn điện của PAni vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cơ chế dẫn điện của PAni
có thể là cơ chế dẫn điện theo lỗ trống hoặc là sự di chuyển electron trong màng
hoặc là do sự doping các anion vào trong màng hoặc là sự kết hợp của 3 cơ chế trên
[1]
3.3.2. Xác định điểm nóng chảy
PAni được tổng hợp và xác định điểm nóng chảy trên thiết bị đo Gallenkamp
có thể đo nhiệt độ tối đa là 400oC. Chúng tôi tiến hành đo nhiều lần và ghi được giá
trị cao nhất là 399,5oC. Ở nhiệt độ này, PAni vẫn chưa hóa lỏng. Như vậy, PAni
tổng hợp được có nhiệt độ nóng chảy rất cao (>400oC).
3.3.3.Phân tích quang phổ hồng ngoại
Phổ hồng ngoại của màng PAni được ghi trên máy IR470 (Shimadzu) Viện
hóa học Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia. Sản phẩm được ép
giữa hai tấm KBr, tia so sánh ta đặt một tấm KBr để bù trừ.
Kết quả ghi phổ hồng ngoại được trình bày ở hình 2.
41
Hình 2: Phổ hồng ngoại của PAni tổng hợp
Phân tích phổ hồng ngoại và so sánh với các dao động chuẩn của các liên kết
và nhóm chức [ 6 ] cho thấy dao động ở tần số 796,875cm1 là nhóm CH. Liên kết N
vòng dao động ở tần số 1130,944cm1. Dao động từ 1248,850cm1 1300cm1 là liên
kết CN của amin bậc hai. Các dao động từ 1478,113cm1 1600cm1 là vòng benzoit,
dao động ở tần số 1668,073cm1 là liên kết C = N. ở vùng dao động với tần số từ
2919,191cm1 và 3430,119cm1 là dao động của liên kết NH.
Như vậy, kết quả phân tích quang phổ hồng ngoại có thể cho phép xác định
cấu trúc phân tử của PANi tổng hợp là hỗn hợp của hai dạng sau:
N
N
N
N
H
H
H
H
(a)
42
N
N
H
H
N
N
(b)
3.3.4. Cấu trúc tế vi của màng PAni
Tiến hành điện phân tạo màng PAni trên nền thép CT3 trong dung dịch
H2C2O4 có pha phụ gia gelatin ở thế bình điện phân E = 2V với nồng độ anilin và
thời gian điện phân khác nhau:
Mẫu 1: dung dịch C6H5NH2 0,1M, tạo màng trong 2 phút
Mẫu 2: dung dịch C6H5NH2 0,2M, tạo màng trong 10 phút
Ảnh tế vi bề mặt màng PAni trên nền thép CT3 của hai mẫu 1 và 2 dưới kính
hiển vi electron qúet được đưa ra ở hình 3. Sự thay đổi nồng độ anilin và thời gian
điện phân dẫn đến thay đổi cấu trúc tế vi của màng: màng PAni mịn, đều thu được
từ dung dịch C6H5NH2 0,1M, thời gian điện phân 2 phút; khi nồng độ anilin tăng và
thời gian điện phân kéo dài thì màng PAni có cấu trúc thô, phân tán rời rạc và độ xốp
cao.
a)
43
b)
Hình 3: Ảnh tế vi bề mặt màng PAni
aMẫu 1 ; b Mẫu 2
4. KẾT LUẬN
Phản ứng oxi hóa điện hóa anilin trong dung dịch axit oxalic trên nền thép
CT3 xảy ra trong khoảng thế +0,5V + 1,2V (SCE). Axit oxalic có vai trò thụ động
hóa quá trình hòa tan thép CT3 trong vùng thế xảy ra phản ứng oxi hóa anôt anilin.
Màng PAni thu được có màu xanh đậm và có khả năng bám dính tốt. Màng
PAni có khả năng dẫn điện và nhiệt độ nóng chảy cao (>400oC).
Kết quả phân tích quang phổ hồng ngoại của PAni và tần số dao động của
các liên kết, các nhóm thế cho phép xác định cấu trúc phân tử của PAni tổng hợp là
hỗn hợp của hai dạng (a) và (b).
Cấu trúc tế vi của màng PAni phụ thuộc vào nồng độ dung dịch anilin và
thời gian điện phân. Nồng độ anilin và thời gian điện phân ngắn màng PAni mịn đều;
nồng độ anilin lớn và thời gian điện phân kéo dài thì màng PAni có cấu trúc thô và
xốp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Michael, E.G.Lyons, Electroactive Polimer Electrochemistry, Plenum Press, New
York London (1995)
2. Dzyaclevich, Sergei. Thin films microelectric arrays for amperometric enzyme
biosensors with electrochemically synthesized gluco axidase polianiline membrane.
Proceeding of SPIE (1994) 610 615.
3. Nguyễn Đức Nghĩa. Polime dẫn điện. Hướng nghiên cứu và triển vọng, Tuyển
tập báo cáo Hội nghị Hoá học Toàn quốc lần thứ 3. T1, Hà Nội (1998) 339 342.
4. F. Beck, P. Hulser, Bull of Electrochem 8 (1992) 35
44
5. S. Ren, D. Barkey, J. Electrochem. Soc. 139 (1992) 1021
6. Nguyễn Hữu Đỉnh, Trần Thị Đà. Ứng dụng một số phương pháp phổ trong
nghiên cứu cấu trúc phân tử. NXB Giáo dục, Hà Nội (1999)
TÓM TẮT
Quá trình oxi hoá điện hóa anilin trong dung dịch axit H 2C2O4 để tạo màng polianilin
được tiến hành trên điện cực anôt thép CT3 bằng phương pháp đo đường cong dòng thế
tuần hoàn và điện phân ở thế bình không đổi. Kết quả đo đường cong phân cực cho thấy
phản ứng oxi hóa anilin xảy ra trong khoảng thế + 0,5V +1,2V so với (SCE). Màng
polianilin thu được bằng phương pháp điện phân thế không đổi có độ bám dính tốt. Các tính
chất như độ dẫn điện, điểm nóng chảy, cấu trúc phân tử và cấu trúc tế vi của màng
polianilin được khảo sát bằng các phương pháp phân tích hóa lí.
STUDY ON THE FORMATION OF POLIANILINE FILM ON CT3 STEEL BY
ELECTROCHEMICAL OXIDATION OF ANILINE
Le Tu Hai
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
Electrochemical oxidation of aniline on CT3 steel electrode to form polianiline film has
been studied in H2C2O4 acid solution by cyclic voltammetry technique and constant cell
potential electrolysis. The obtained results showed that the electrochemical oxidation of aniline
occurs at + 0.5V + 1.2V (SCE). Smooth, well adhering polianiline coatings were obtained in
oxalic acid solution under constant cell potential condition. The deposisted coatings were
characterized by conductivity, melting point, infrared spectroscopy and scanning electroscopy.
45